Trang

Thứ Sáu, 23 tháng 12, 2022

NHÀ HÁN NÔM HUỆ CHI NGHIÊN CỨU VẬT LÝ

 ĐÔNG LA

NHÀ HÁN NÔM HUỆ CHI NGHIÊN CỨU VẬT LÝ


Trong nền học thuật, có lẽ Việt Nam ta có các GS “mũ cao áo dài” nói lăng nhăng nhiều nhất thế giới. Vừa rồi tôi đăng lại vài bài về ông Cống thấy bạn đọc rất quan tâm, nhưng cái ông GS tôi viết đầu tiên và nhiều nhất là ông Nguyễn Huệ Chi chứ không phải ông Cống. Cái hôm dự Hội nghị Lý luận Phê bình của Hội đồng Văn học Nghệ thuật Trung ương mà Mai Nam Thắng nói với tôi “phải có một Tập đoàn Đông La viết” cũng có một chuyện thú vị. Đúng hôm đó Báo Văn nghệ TPHCM- số 286, 2014 - đã đăng bài “Nhà Hán Nôm Huệ Chi nghiên cứu Vật lý” của tôi, nên người ta đã chuyền tay nhau tờ báo có bài đó. Riêng Nhà thơ Vũ Quần Phương, cha của GS toán học danh tiếng Vũ Hà Văn, thấy tôi đã đến bên đùa một câu nghe thật sướng cái lỗ tai: “Ngồi bên Đông La một tí để lây tí thông minh nào!”. Tôi bảo: “Anh bảo thằng Văn nhà anh làm toán thôi đừng bắt chước thằng Ngô Bảo Châu nói lăng nhăng về chính trị nhé!” Anh Phương cười: “Anh bảo rồi!” Trong một buổi dự tiệc cuối năm khác, GS Mai Quốc Liên cũng làm tôi bất ngờ khi đến bên nói: “Tôi rất phục ông bài mới viết về Huệ Chi”
Vậy hôm nay xin đăng lại bài đó.
23-12-2012
ĐÔNG LA
NHÀ HÁN NÔM HUỆ CHINGHIÊN CỨU VẬT LÝ
Trong cuộc Hội thảo Khoa học “Vật lý học hiện đại - Văn hóa và phát triển” do Tạp chí Tia sáng thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Ban sáng lập Trường Đại học Phan Châu Trinh (Quảng Nam), Nguyễn Huệ Chi đã đọc bài tham luận: Tư duy phương Đông nhìn dưới ánh sáng học thuyết Einstein. Điều bất thường là tại sao một cuộc Hội thảo được tổ chức bởi một tạp chí của Bộ Khoa học và một trường đại học, với ban cố vấn và ban lãnh đạo là những nhà khoa học và nhà trí thức hàng đầu VN, lại cho tham luận một “công trình” phản khoa học, phản triết học, phản thực tiễn đến thế?!


Nhưng nhìn vào danh sách 72 vị đòi “lật pháp” thay đổi thể chế thời gian gần đây ta sẽ không còn thấy bất thường nữa; vì nó có Giáo sư Hoàng Tụy, Chủ tịch Hội đồng cố vấn Đại học Phan Châu Trinh; GS Chu Hảo, Nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ, cố vấn; Nhà văn Nguyên Ngọc, Chủ tịch Hội đồng Quản trị trường.
Bản tham luận của Huệ Chi nói trên là một mớ những mâu thuẫn. Từ việc đề cao Thuyết Tương đối, Huệ Chi cho mình “thật may mắn” được “thầy Cao Xuân Huy” cho biết: “có một nhà vật lý người Đức là Einstein từ lâu đã tìm ra một học thuyết hết sức thâm viễn gọi là thuyết tương đối hẹp và rộng”, nhưng rồi Huệ Chi lại ca ngợi Cao Xuân Huy cho Einstein “sai lầm cơ bản trong tư tưởng logic”; rồi lại dựa vào Einstein đưa ra tuyên ngôn: “học thuyết tương đối của Einstein rọi sáng cho cả một thời đại mới: thời đại “giải lý tính””. Đây là một tuyên ngôn đại sai lầm cả về thuật ngữ triết học lẫn nội dung khoa học. Bởi “lý tính” theo triết học là nhận thức của loài người nói chung và Einstein thì chẳng có một Học thuyết Tương đối nào lại “giải lý tính” như thế cả.
Đặc biệt, trong bản tham luận đó, Huệ Chi công bố một “công trình” nghiên cứu buồn cười như sau:
“Một hôm… đi xe ô tô… tôi… bỗng để ý thấy một chú ruồi đậu trên ve áo một người ở hàng ghế bên ấy cất cánh bay sang đậu vào vai áo tôi… Tôi hết sức kinh dị. Bởi vì tôi biết xe ô tô đang chạy với một tốc độ rất nhanh, năm sáu chục kilômét một giờ là ít. Vậy thì tại sao khi chú ruồi cất cánh bay khỏi vai người bạn của tôi nó không bị chiếc xe đẩy tụt lại phía sau ngay lập tức mà thung dung như đang bay trong một nơi yên tĩnh…? Lực vô hình nào đã giữ nó yên ổn vị trí trong khoảng không của ô tô? Cứ giả thử như chúng ta có cách gì nhích người lên khỏi ghế lơ lửng giữa không trung thì thế nào? Tất nhiên ta sẽ bị vận tốc ô tô đẩy tụt ra phía sau là cái chắc… Tò mò, tôi làm thêm một thí nghiệm…: tôi xé một mảnh giấy… vo viên lại và cầm nó giơ cao lên rồi thả xuống. Kỳ dị thay, viên giấy rơi thẳng xuống sàn ô tô mà không rơi xéo ra phía sau như tôi tưởng, dù rằng khi viên giấy chạm sàn, ô tô đã chạy được ít nhất cũng một mét. Nói rõ hơn, trong khi ô tô đang chạy, điểm rơi của viên giấy xuống sàn xe vẫn như trong một căn phòng không có gió…”.
Hiện tượng “ruồi bay”, “giấy rơi” được như trên là do xe chạy gần như thẳng với vận tốc đều, không gian trong xe coi như một hệ quy chiếu quán tính. Mà theo Nguyên lý Quán tính: “Nếu một vật không chịu một lực nào thì nó sẽ đứng yên hoặc tiếp tục chuyển động không đổi”. Tương tự như ta trong xe lửa hoặc trên máy bay (lúc không rung, không xóc, không tăng tốc) thì việc đi lại, rót nước vào cốc và mọi chuyển động sẽ xảy ra y như lúc xe lửa, máy bay đứng yên. Vì thế, ông Nguyễn Huệ Chi nghĩ “Cứ giả thử như chúng ta có cách gì nhích người lên khỏi ghế lơ lửng giữa không trung thì thế nào? Tất nhiên ta sẽ bị vận tốc ô tô đẩy tụt ra phía sau là cái chắc” là sai hoàn toàn. Bởi nguyên lý quán tính là như nhau với mọi vật trong hệ quy chiếu, nó không phân biệt ông với con ruồi; không chỉ ông mà nếu có cả con bò trong xe “nhích lên lơ lửng” được thì nó cũng không bao giờ bị “vận tốc ô tô đẩy tụt ra phía sau” như ông nghĩ đâu. Các vật trong xe chỉ bị tác động khi nguyên lý quán tính bị vi phạm, như khi xe quẹo hoặc có gia tốc tăng hoặc giảm.
Huệ Chi kể tiếp, đến khi: “đọc đến cuốn Thuyết tương đối là gì… mới lờ mờ cảm nhận rằng những việc “lạ” mình không lý giải được chắc có liên quan xa gần đến phát kiến “động trời” của nhà vật lý người Đức hơn 50 năm trước. Có thể không phải lúc nào lực hấp dẫn cũng có một tác động như nhau lên mọi vật đang chuyển động… Đối với con người ngồi trên ô tô thì vận tốc năm sáu mươi kilômét chẳng ảnh hưởng gì, nhưng với một vật nhỏ như con ruồi thì vận tốc ấy ít nhiều đã tạo nên một trường hấp dẫn mới mà con ruồi sẽ tùy thuộc vào đó…”
Như đã viết, chuyện “ruồi bay” và “giấy rơi” như ông Huệ Chi thấy là do chịu tác động của lực quán tính chứ không có chuyện tương đối tương điếc gì ở đây cả. Nói như vậy ông Huệ Chi hoàn toàn không hiểu Thuyết Tương đối nói riêng và về khoa học nói chung. Thuyết Tương đối của Einstein có hai, thường được dịch ở ta là Thuyết Tương đối hẹp (Special theory of Relativity) và Thuyết Tương đối rộng (General theory of relativity).
Thuyết Tương đối hẹp, từ việc công nhận vận tốc ánh sáng là hằng số, Einstein đã phát minh ra không gian, thời gian không phải tuyệt đối, bất biến mà là tương đối, cùng phụ thuộc vào chuyển động. Còn Thuyết Tương đối rộng, Einstein đã phát minh ra những tính chất mới của không- thời-gian phụ thuộc vào lực hấp dẫn. Nó chỉ ra chính vật chất đã làm “cong” không-thời gian. Vì thế một tia sáng đi qua vùng không gian “cong” đó nó cũng sẽ bị “bẻ cong”. Cái điều tưởng chừng quá kỳ lạ này nhân một kỳ nhật thực đã được các nhà khoa học kiểm chứng đúng. Như vậy lực “hấp dẫn” ở Thuyết Tương đối rộng cũng chẳng dính dáng gì đến chuyện “không bị đẩy lại sau” của con ruồi và viên giấy trong câu chuyện của ông Huệ Chi. Lực hấp dẫn cũng tác động như nhau với mọi vật. Vì vậy trong thực tế, dù nhỏ như con ruồi, hay to như ông Huệ Chi, hoặc to hơn nữa như con bò thì gia tốc trọng trường là luôn như nhau.
***
Cũng vì không hiểu khoa học, trong bài tham luận trên ta còn thấy Nguyễn Huệ Chi có những gán ghép khiên cưỡng tư tưởng Lão Tử với phát minh của Einstein, khi cho khái niệm Đạo của Lão Tử là trạng thái Big Bang của vũ trụ. Điều này hoàn toàn sai lầm bởi một phía Lão Tử cho Đạo “Chu lưu cùng khắp”, còn Big Bang lại là một điểm vô cùng nhỏ; trong khi Lão Tử hình dung Đạo “lớn, đi mãi, xa tắp, quay trở lại”, còn Big Bang từ một điểm, sau khi nổ, giãn nở, dần sinh ra các hạt cơ bản, các chất, các thiên thể, …, rồi đến cả loài người chúng ta… với thời gian khoảng 13,7 tỷ năm, và đến hôm nay nó vẫn đang giãn nở chứ chưa “quay trở lại” theo ý Lão Tử!
Ông Huệ Chi cũng mâu thuẫn, khi khúc trên viết “vũ trụ vốn … khối lượng bằng vô cùng”, đoạn sau lại viết: “vũ trụ ban đầu có thể trống rỗng không chứa một vật chất hấp dẫn nào cả”. Rồi người ta chỉ phát hiện vũ trụ đang “giãn nở gia tốc” chứ vũ trụ không phải “giãn nở rồi ổn định rồi lại giãn nở gia tốc” như Huệ Chi nói.
Nguyễn Huệ Chi cũng sai khi nói về sai lầm của Einstein. Lúc đầu, Einstein quan niệm vũ trụ là tĩnh, nhưng nghiệm mô tả vũ trụ rút ra từ phương trình hấp dẫn của ông lại giãn nở, ông đã “chống đỡ” bằng cách đưa vào phương trình một hằng số vũ trụ (cosmic constant) để “kéo lại” cho cân bằng. Rồi sau đó, khi người ta xác định được vũ trụ không tĩnh như ông nghĩ, ông đã quẳng cái hằng số mà ông cho là “cái ngu ngốc lớn nhất của đời tôi” (biggest blunder) ấy đi. Chứ không phải như Nguyễn Huệ Chi nói ngược: thấy người ta phát hiện vũ trụ giãn nở “buộc ông phải đưa thêm vào hằng số vũ trụ”, nghĩa là Einstein thấy sai rồi mới làm sai, như một hành động ngớ ngẩn! Có điều Einstein là bác học thiên tài thì không thể ngớ ngẩn, chỉ có ông Huệ Chi dốt mà bày đặt bàn chuyện khoa học cao siêu mới ngớ ngẩn nghĩ về Einstein như vậy mà thôi!
***
Khi bàn về nhận thức chân lý, Huệ Chi viết:
“Chân lý mà nhất là chân lý tối thượng … Nó không phơi ra những đường, nếp, hình, khối... để cho giác quan chúng ta dễ dàng bám lấy. Thế nên thay vì giác quan, con người phải dùng đến một thứ siêu giác quan là lương năng để mặc khải chân lý. Mà lương năng chỉ thật sự sáng lên khi giác quan cùn lụt đi. Cho nên, phải làm ngược lại với quy trình thông tục của sự suy nghiệm, phải bắt cái tâm của mình (là cơ quan chỉ huy, điều khiển mọi giác quan) trở nên tối tăm, ngu độn (Ngã ngu nhân chi tâm dã tai, độn độn hề! Tục nhân chiêu chiêu, ngã độc hôn hôn. Tục nhân sát sát, ngã độc muộn muộn - Lão Tử, chương XX).
“…triết học phương Đông lại đạt đến cái mà triết học Hy Lạp cơ hồ không thể đạt đến, đó là sự tưởng tượng siêu thăng về vũ trụ ẩn chứa trong nó rất nhiều hạt nhân hợp lý, ngày càng được vật lý học chứng minh. Từ trong điều kiện của một tâm thế vô vi, tịch lặng và trống rỗng, không bị vướng vào trạng thái đã “thành” của tâm, nhà hiền triết lại có nhiều cơ hội tiếp thu được một nguồn sáng kỳ diệu, giúp cho sức mạnh của trực giác trong mình bừng dậy, và bỗng “ngộ” ra cái không thể nhìn thấy bằng tri giác thông thường”.
Trong thực tế, chính tư duy lý tính của phương Tây cổ đại nói riêng và của loài người ngày nay nói chung, từ việc coi thế giới xây nên bằng những “nguyên tử” theo Đê-mô-crit người ta đã thám hiểm sâu vào cõi cùng tận của cấu tạo vật chất, xây nên toàn bộ nền văn minh cả vật chất, trí tuệ lẫn tinh thần và cuộc sống tiện nghi hôm nay. Ông Huệ Chi cũng cần phải hiểu phát minh của Einstein không phải từ ngồi thiền, mà dựa trên nền tảng tri thức được xây nên từ vô vàn thí nghiệm “khổ công thực chứng”, đặc biệt là việc xác định được vận tốc ánh sáng là hằng số tuyệt đối (absolute constant), ông mới đưa ra được Thuyết Tương đối hẹp. Và để làm được vậy, ông hoàn toàn không cần phải làm “tâm tối tăm ngu độn” đi mà buộc phải nhìn bằng tư duy tỉnh táo, minh mẫn, sắc bén nhất.
Còn tư tưởng phương Đông cổ đại không lấy giới tự nhiên làm đối tượng mà chỉ đưa ra những khái niệm trừu tượng, chung chung, nên không phát triển. Nguyễn Huệ Chi viết như trên là lộn ngược thực tế.
***
Kể cả việc nếu Nguyễn Huệ Chi nói về Đạo Phật như trên thì cũng nói ngược. Đức Thích Ca đúng là qua tu luyện bằng thiền định, đã chứng được tứ thiền, đạt lục thông. Nhưng thiền định không phải là làm “giác quan cùn lụt đi” như ý Huệ Chi mà ngược lại là quá trình chuyển hết năng lực của các giác quan thông thường cho một siêu giác quan, đó chính là tuệ giác, cái đã giúp cho Đức Phật có được những năng lực siêu phàm, thấy được các cõi, các kiếp, nguyên nhân của khổ và con đường diệt khổ, v.v…
Chính cũng bằng năng lực siêu phàm ấy, cách nay hơn hai thiên kỷ rưỡi, Đức Phật đã thấy những điều mà nhiều nhà khoa học, với trí tuệ xuất chúng và những phương tiện nghiên cứu tối tân nhất, mới thấy lại. Đức Phật thường khuyên các đệ tử trước khi uống nước hãy niệm chú để phổ độ cho các vi chúng sinh có trong bát nước, nghĩa là ngài đã nhìn thấy vi trùng. Kinh Phật cũng cho thấy thế giới chúng ta đang sống không phải là duy nhất. Kinh Hoa Nghiêm viết: "Thế giới hải có nhiều hình tướng sai khác, hoặc tròn... hoặc hình như nước xoáy... hoặc hình như hoa ... có vi trần số hình sai khác như vậy”. Những điều này đã được chứng thực bởi những kính thiên văn hiện đại nhất. Vì vậy, Albert Einstein, nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ 20, đã nói: “Nếu có bất cứ một tôn giáo nào đó có thể đương đầu được với những nhu cầu của khoa học hiện đại thì nó sẽ là Phật Giáo”. (If there is any religion that could cope with modern scientific needs it would be Buddhism).
***
Tư tưởng cổ đại là báu vật trong kho tàng văn hóa chung của nhân loại, chủ yếu có ý nghĩa về mặt văn hóa, giúp cho con người những bài học rèn luyện nhân cách, tu thân tích đức, còn vì hiểu sai, rồi gán ghép cho chúng những ý nghĩa khoa học cụ thể mà chúng không có thì không nên. Vì vậy đề nghị của ông Nguyễn Huệ Chi: “thiết tưởng một câu hỏi đã đến lúc phải đặt ra mạnh bạo và dứt khoát hơn: tại sao không thể xem Đạo của Lão Tử là dự báo sáng suốt về cõi thiên hà muôn hình vạn trạng đang vận động với quy luật giãn nở gia tốc mà vũ trụ học hiện đại đã và đang tìm ra cách nhận dạng?” thì e rằng không phải ông lấy ánh sáng Einstein chiếu sáng tư tưởng Lão Tử mà chính là đã lấy bóng tối lầm lẫn của mình phủ lên tri thức khoa học, vốn đã quá rắc rối với nhiều người, trở nên mù mịt thêm!
Thật tiếc, ông Huệ Chi không chỉ dừng lại ở sự lầm lẫn trong việc tìm hiểu khoa học mà còn coi chúng là kim chỉ nam cho mọi nhận thức và hành động của mình. Ông ta đã “ngộ” ra: “hòn đá tảng quan trọng của một phương pháp tư duy hiện đại: sự chối bỏ logique thông thường để tiếp cận với những chân lý tưởng chừng siêu nghiệm đang tồn tại hiển nhiên trên thế giới này”. Rồi theo sự dẫn lối đưa đường của cái “tà đạo” đó, trong cuối bài tham luận, Nguyễn Huệ Chi còn rút ra “Ý nghĩa của cuộc đấu tranh phát huy tương đối luận”, phóng chiếu tư tưởng mình vào các hiện tượng xã hội cụ thể:
“Chúng ta đã từng rút được không ít bài học thấm thía về sự cả tin vào ý chí của một thời vốn được mệnh danh là “thời đại cách mạng lay trời chuyển đất”, cả tin vào lẽ phải của lý trí, khi ta mơ ước chân thành mà cũng có phần nông nổi về lý tưởng tối hậu của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giàu và nghèo là cốt triệt đi một vế - vế xấu xa, vế của sự giàu sang - để vế nghèo cũng được xóa bỏ, cuộc đời xung quanh ta sẽ tốt đẹp hơn. Nhưng kết cuộc lại không hẳn đã như ta nghĩ. Cái giàu bị tiêu diệt nào ngờ cái nghèo càng nghèo thêm”; “giàu không phải có mặt bất thiện của giàu mà có cả mặt thiện của giàu, nó có thể cứu rỗi cái nghèo”…
Những ý của ông rõ ràng không khách quan, phi lịch sử. Thử hỏi ông, nếu không có các cuộc chiến tự vệ chống xâm lược và chống bất công, xã hội loài người có được như hôm nay không? Xã hội ta đúng là còn nhiều yếu kém và tệ nạn, nhưng ông nói “cái nghèo càng nghèo thêm” thì có đúng không? Là một ông Giáo sư, Nguyễn Huệ Chi lại có kiểu bôi đen xã hội y như những kẻ chống đối đầy thù hận và ít học đến như thế sao? Ông còn mạnh tay “kê toa, bốc thuốc” cho chế độ. Chữa bệnh cho bệnh nhân còn khó huống hồ bệnh xã hội, người “bác sĩ” ở đây buộc phải có đầu óc hơn người, và trước hết phải có tinh thần khoa học biện chứng, bởi lý thuyết dù hay đến mấy mà không phù hợp cũng sẽ thành dở, nên chỉ có cái nhìn khoa học biện chứng mới đi đúng hướng, nếu không rất dễ trở thành tên “đồ tể của xã hội”.
Không ngờ một ông Giáo sư từng hưởng bổng lộc và danh vị của chế độ, tưởng thâm trầm mô phạm, lại có những phát ngôn cực đoan bất chấp thực tế, đầy thiên kiến méo mó như thế. Thật tiếc xã hội mình tôi thấy không ít những bậc mũ cao áo dài có những công trình mang vẻ cao thâm, nhưng thực chất chỉ là mớ hỏa mù làm tối mắt những người yếu bóng vía. Không chỉ sính chữ, làm dáng tri thức, họ còn tự cho mình là tầng lớp tinh hoa, có sứ mệnh khai hóa dân trí, chỉ lối đưa đường cho xã hội. Nhưng giải một bài toán con con của phổ thông không xong, sao họ có thể hiểu được chính xác Thuyết Tương đối của Einstein? Và cái tham vọng chỉ lối đưa đường cho xã hội lại dựa trên sự lầm lẫn khoa học như thế thì sẽ dẫn xã hội đi đâu?!

TP Hồ Chí Minh,
25-12-2013
ĐÔNG LA