ĐÔNG LA
BÀN VỀ
CHÍNH NGHĨA
Tôi vốn không phải là người cố
chấp về chính trị hoặc về nhận thức nói chung. Chính vậy tôi mới lấy vợ có
gia đình liên quan đến chế độ cũ, khi cưới chú ruột vợ còn đang bị đi tù vì là
cha tuyên úy. Sau này ra tù tù ông đã được trả lại tất cả danh dự và địa vị,
và chú cháu tôi đã rất quý nhau. Nhiều người mà tôi công kích phản bác tôi
từng có gặp, có khi còn chơi với nhau. Nhưng tại sao có người phê phán tôi công
kích họ là “cực đoan”, là “vô văn hóa”? Trước hết, sự phê phán
của loại người vô cảm, đúng sai cũng gật, ngậm miệng ăn tiền, tôi không thể
tiếp thu được, còn những đối tượng mà tôi công kích nếu biết lắng nghe, hiểu
biết mà thay đổi, thì làm sao tôi có thể “cực
đoan” và “vô văn hóa” được.
Tiếc là xã hội chúng ta lại có quá nhiều kẻ xấu, đã dốt lại tham, lại ác, nên
đã đi hại người hoặc làm loạn, thì tôi, một người hiểu biết mà không lên
tiếng, không tỏ thái độ phù hợp, thì chính tôi sẽ là một kẻ có tội. Chính vậy
với Thu Uyên, nó không chỉ hại người thường mà lợi dụng thế lực nhà nước đi vu
khống người có đại công thì tôi phải gọi nó là con nhà báo ngu xuẩn lưu manh
thôi. Cũng như Lê Công Định nhân vật của bài viết hôm nay tôi cũng gọi nó là
thằng mù lịch sử, là thằng mất nhân tính. Bởi đã là người thì phải biết phân
biệt đúng sai, tốt xấu. Ngôn ngữ là một bản năng thuộc nhân tính. Với quân
địch, người xấu, người ác thì người ta thường gọi là “kẻ”, là “tên”, là “thằng”, như “kẻ địch”, “kẻ cắp”, “thằng giặc”, “con lưu manh”...
Vậy mà Lê Công Định, kẻ có tiền án,
tưởng sau bị tù ra biết hối cải, không ngờ thằng mất dạy này lại mới viết bài:
“Kỉ
niệm ngày mất cố tổng thống Ngô Đình Diệm, là nhân vật lịch sử thì phải được
tôn trọng”, có đoạn ngu xuẩn thế này:
“Lúc thiếu thời đi học, nhắc đến cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô
Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, đa số thầy cô dưới mái trường XHCN của tôi đều
gọi là "thằng Diệm" và "thằng Thiệu". Về nhà tôi kể lại
cho ba mẹ nghe. Ông bà nghiêm nghị cấm tôi không nên bắt chước thầy cô, vì
như thế là vô lễ và bất kính đối với các bậc tiền nhân. Sau này, trưởng
thành, có dịp đi làm việc ngang vùng Ninh Thuận, một đồngnghiệp lớn hơn tôi
vài tuổi hỏi: "Nghe nói vùng này là quê hương của thằng Thiệu?" Tôi
cau mày, đáp: "Dù sao ông Nguyễn Văn Thiệu cũng đáng bậc cha chú của anh
mà! Nếu mình đi đến vùng Nghệ An, em nói đây là quê hương của thằng Hồ, anh
sẽ cảm thấy thế nào?"
Nó viết ngu xuẩn và mất nhân tính
như vậy đơn giản là vì nó là kẻ mất nhân tính và mù lịch sử. Phải cả hai, bởi
có những kẻ hiểu biết nhưng vì tham ác chúng sẵn sàng chà đạp lên sự thật
lịch sử. Vì vậy hôm nay muốn dậy cho thằng Định một chút lịch sử nhưng không
biết nó có chịu hiểu không?
3-11-2014
ĐÔNG LA
|
Cuộc chiến giữa Việt Nam với Pháp rồi với Mỹ mà chiến thắng thuộc về Việt Nam,
làm chấn động thế giới, từng phải đổi bằng núi xương sông máu, nguyên nhân khởi
đầu có lẽ phải tính từ ngày 8 tháng 2
năm 1762,
ngày sinh của Nguyễn Ánh, người mà để chống lại Nguyễn Huệ giành quyền lực, đã
“cõng rắn cắn gà nhà”, qua một mối cơ duyên với Bá Đa Lộc (Pigneau de
Behaine), một Giám mục người Pháp. Năm 1777, Nguyễn Ánh trốn
thoát khỏi Nguyễn Huệ chạy ra đảo Thổ Chu
và đã gặp Bá Đa Lộc ở đó. Sau đó chính ông giám mục này
đã “xui” Nguyễn Ánh cầu viện Pháp. Nguyễn Ánh đã sẵn sàng giao ấn tín và con
mình làm con tin, nhờ Bá Đa Lộc làm Đặc sứ yết kiến Vua Pháp Louis XVI,
ký Hiệp ước Versailles,
xin nhường đảo Côn Lôn và cho Pháp độc quyền sử dụng cảng
Đà Nẵng để đổi lấy sự viện trợ về quân sự.
Nhưng rồi Nguyễn Huệ, vị vua Quang
Trung bách chiến bách thắng, từng khiến xác quân Xiêm mà Nguyễn Ánh cầu viện
chất nghẹt cả dòng sông Tiền trong trận
Rạch Gầm-Xoài Mút; rồi xác quân xâm lược nhà Thanh chất cao như núi ở Đống
Đa, lại phải chịu thua số mệnh, đã bị chết bất đắc kỳ tử khi chuẩn bị Nam tiến
chinh phạt Nguyễn Ánh. Nước Pháp đã không phải tốn “một xu” nào trong
việc Nguyễn Ánh giành được quyền lực, nhưng cái Hiệp ước Versailles định mệnh kia vẫn là cái cớ cho Pháp thực hiện
dã tâm xâm lược. Giữa thế kỷ 19,
sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế đã thúc đẩy Pháp mở chiến tranh giành giật
thuộc địa và Việt Nam đã trở thành nạn nhân. Một ủy ban có tên là Commission de la Cochinchine đã được vua Napoléon III chấp thuận, và 1858, đã
chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam.
Thế rồi hơn một thế kỷ rưỡi sau đó,
máu đã không ngừng đổ trên dải đất hình chữ S thân yêu của chúng ta, gây ra bao
nhiêu tang tóc, và oái oăm nhất là đến tận bây giờ, thù hận vẫn còn ngút trời,
không phải giữa người Việt với quân xâm lược mà lại là giữa người Việt với
nhau, nhất là ở một bộ phận nhỏ những người Việt Hải ngoại, bởi sự cố chấp và
cái nhìn phi lịch sử.
Rõ ràng khi Pháp xâm lược,
những cuộc kháng chiến của quân dân nhà Nguyễn đã nổ ra đều bị thất bại, đến
khi Vua Hàm Nghi, rồi Vua Duy Tân bị Pháp bắt đi đầy, thì dân ta đã thực sự mất
nước. Vậy thì bao nhiêu vua quan bù nhìn mà Pháp dựng lên sau đó để thực hiện
sự đô hộ, rồi đến lượt Mỹ thế chân Pháp lập nên chính thể VNCH, làm sao có được
sự chính danh; rồi những đội quân được hình thành trong những thể chế đó để
chống lại công cuộc giành độc lập của chính đồng bào mình, sao có thể là chính
nghĩa?
Chính vì không có chính danh
và chính nghĩa như vậy, dù có sự bao bọc bởi hai cường quốc có tiềm lực kinh tế
và quân sự mạnh hơn nhiều lần, với sự tham chiến trực tiếp của nửa triệu quân
Mỹ và chư hầu, cuối cùng Mỹ và VNCH vẫn phải thất bại trước ý chí giành độc lập
của dân ta.
Giờ đây để biện hộ cho việc tiếp tay cho
sự xâm lược, người ta vẫn cố tình biến cuộc chiến giành độc lập của dân ta
thành cuộc chiến ý thức hệ, đồng nhất quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
với Liên Xô và Trung Quốc giống như quan hệ của VNCH với Pháp và Mỹ.
Khi Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước
Việt Nam mới, Pháp quay lại, chính quân đội của nhà nước mới ấy đã với cách
đánh du kích, cướp súng của địch đánh địch. Rồi chính ông KS Trần Đại Nghĩa đã
chế tạo được súng badôca, bắn cháy được xe tăng; rồi SKZ, có thể đánh phá tan
tành các lô cốt địch có tường bê tông cốt thép dày hơn 1 mét, làm kinh hồn bạt
vía quân Pháp. Từ vị thế của một nhà nước chống thực dân đó chúng ta mới nhận
được viện trợ của các nước. Đến tận Chiến dịch Điện Biên Phủ, những đơn vị
phòng không đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam được huấn luyện
ở Liên Xô
mới về nước tham chiến.
Còn VNCH không phải được ra
đời từ những người VN mà đã được Pháp, sau khi quay lại, dựng lên. Ngày 8 tháng 3
năm 1949,
Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu
hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành
lập Quốc gia Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, đứng đầu là Quốc trưởng Bảo Đại,
vị vua mà ngày 25 tháng 8 năm 1945, đã đọc bản Tuyên ngôn Thoái vị trước
cửa Ngọ Môn. Như vậy thực chất Bảo Đại hoàn toàn không còn vai trò gì với VN,
mà chỉ có vai trò trong sự kiện trên giúp Pháp xây dựng một chính quyền bản xứ
người Việt để làm đối trọng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; thực chất
là để thuyết phục Mỹ viện trợ kinh tế và quân sự để có thể tiếp tục đứng chân
tại Đông Dương. Rồi đến khi Pháp thua tại Điện Biên Phủ, Mỹ thế chân Pháp,
không thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ, Ngô Đình Diệm đã xuất hiện. Theo GS Trần
Chung Ngọc:
“Đã
viết về “Cụ Hồ” mà lại không viết về “Cụ Diệm” thì quả là một điều thiếu sót,
vì dù sao ông Diệm cũng đã là Tổng Thống của miền Nam trong 9 năm . Nhưng
bài này tuyệt đối không phải để đối chiếu so sánh “Cụ Diệm” với “Cụ Hồ” vì
không ai có đôi chút hiểu biết lại đi làm công việc vô trí này. Tại
sao? Vì một đằng suốt đời sống gian khổ, tổ chức, tập họp những người yêu
nước chống Pháp, mong giành lại độc lập và thống nhất cho đất nước [Cụ Hồ], một
đằng làm quan cho Pháp, bắt người yêu nước chống Pháp tra khảo, rồi nằm yên vị
trong các Trường Dòng Công Giáo ở Mỹ, Bỉ trong khi nước nhà sôi bỏng vì chiến
tranh, kháng chiến chống Pháp trở lại Đông Dương, rồi phút cuối trở về làm “chí
sĩ cứu tinh dân tộc” [Cụ Diệm].
Không ai có thể phủ nhận là chính cựu Hoàng Bảo Đại đã bổ nhiệm ông Diệm về làm
Thủ Tướng. Nhưng những chi tiết từ đâu mà cựu Hoàng Bảo Đại bổ nhiệm ông
Diệm thay vì không phải ai khác thì rất ít được viết đến. Có chăng chỉ
là sơ sài như ông Diệm được Hồng Y Spellman ủng hộ”; “Sau Điện Biên Phủ,
Eisenhower muốn ủng hộ một chính phủ mở rộng hơn là chính phủ của ông Vua,
người không được quần chúng ủng hộ mấy vì đã từ lâu bị coi như là một bù nhìn
của Pháp và Mỹ. Do đó Mỹ muốn có một người Quốc Gia ở địa vị cao ở Nam Việt Nam để làm giảm sự hấp dẫn của Hồ
Chí Minh. Kết quả là Bảo Đại đã cho Diệm một chức vụ mà Diệm vẫn muốn –
Thủ Tướng. [Về chuyện này Bernard Fall viết trong The Two Viet-Nams,
trang 244: “Ý thức được rằng mình đang ném ngai vàng đi, Bảo Đại bắt Diệm
phải thề trung thành với ông, và nhiều nhân chứng có thẩm quyền quả quyết là
Diệm cũng còn quỳ xuống trước Hoàng Hậu Nam Phương là sẽ làm hết sức trong phạm
vi quyền lực của mình để “giữ ngai vàng cho Hoàng Tử Bảo Long, con của Bảo Đại”
(Fully realizing that he was throwing his throne away, Bao Dai allegedly made
Diem swear a solemn oath of allegiance to him, and several authorative
witnesses affirm that Diem also swore on his knees to Empress Nam-Phuong that
he would do everything in his power “to preserve the throne of Viet-Nam for
Crown Prince Bao-Long”, son of Bao Dai.) Nhưng chúng ta đã biết, chỉ hơn 1 năm
sau, Diệm đã dùng tiền của CIA để tổ chức cuộc Trưng Cầu Dân Ý gian lận để phế
bỏ Bảo Đại và lên làm Tổng Thống. Về vụ này Bernard Fall cũng viết, trang
257: “Trong hầu hết các nơi bỏ phiếu, có nhiều ngàn phiếu nhiều hơn là số cử
tri đã bỏ cho Diệm. Thí dụ, Ở vùng Saigon - Chợ Lớn, đếm được 605,205
phiếu trên số 450,000 cử tri ghi danh”. (In nearly all electoral areas, there
were thousands more “Yes” votes than voters. In the Saigon-Cholon area,
for example, 605,025 votes were cast by 450,000 registered voters)].
Tới đây thì chuyện chính nghĩa mới
cả phi nghĩa đã quá rõ, không còn gì phải nói nữa. Nhưng cái dân Việt mình vốn
thù dai, những người chống cộng lại nói dân ta đã thắng trong chiến tranh nhưng
lại bị thất bại khi bị đô hộ bởi Chủ nghĩa Cộng sản. Những lời nói như vậy thực
sự chỉ là tiếng kêu của con vẹt, vô nghĩa lý, bởi họ chẳng hiểu Chủ nghĩa Cộng
sản mà người dân Việt đi theo là cái gì. Dân ta chỉ đi theo cái Chủ nghĩa Cộng
sản tốt đẹp, cũng như bản thân tôi đã ca ngợi cái chủ nghĩa đó trong bài Các Mác – một tình yêu bao la, đó chính
là cái chủ nghĩa kêu gọi đấu tranh xóa bỏ
sự bất công và nô dịch, để tiến tới một xã hội mà mỗi người “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”,
và “sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện để phát triển sự tự do của mỗi người” (Tuyên ngôn ĐCS). Tuy nhiên, từ lý thuyết biến thành thực tế là cả
một quá trình và không tránh khỏi nhiều sai lầm, và chúng ta cũng phải thừa
nhận là còn lâu lắm mới có thể có một xã hội có những đặc tính của Chủ nghĩa
Cộng sản; và trong thực tiễn cũng chưa hề có, có chăng chỉ có những sự nhân
danh mà thôi. Và trong sự nhân danh đó, có chủ nghĩa cá nhân độc tài, có chủ
nghĩa phong kiến bạo chúa, có chủ nghĩa diệt chủng v.v… khoác áo Chủ nghĩa Cộng
sản, như CNCS thanh trừng kiểu Stalin, như CNCS kiểu Mao Trạch Đông phát động
Cách mạng Văn hóa triệt hạ chính đồng chí mình và CNCS kiểu diệt chủng của Pôn
Pốt! Còn ở nước ta, dù cũng có sai lầm trong CCRĐ và những ấu trĩ trong những
bước đầu xây dựng đất nước sau những năm tháng dài chiến tranh, nhưng với việc
đi theo “lý tưởng cộng sản” mà từ năm 1945 với 2 triệu người chết đói, không có
vị thế gì trên trường quốc tế, đã trở thành một nước VN ngày nay; dù còn nhiều
yếu kém, vẫn có thể hiên ngang sánh vai với tất cả các nước trên thế giới, kể cả
Pháp và Mỹ. Còn những ngày hôm nay, chúng ta vẫn đi theo lý tưởng Cộng sản,
nhưng phải thừa nhận rằng, nền tảng mọi mặt, từ khoa học, văn hóa đến kinh tế,
chúng ta vẫn còn ở giai đoạn xã hội tư bản, còn lẫn tàn dư của xã hội phong
kiến. Mà theo Mác, Xã hội Cộng sản chỉ hình thành trên nền tảng Xã hội Tư bản
cực phát triển, với những mâu thuẫn cực điểm. Như ta thấy ở Mỹ, có những cá
nhân giàu bằng cả quốc gia nhưng vẫn có người vô gia cư, sống bằng sự cứu tế.
Tôi thấy nước Mỹ thật kỳ lạ, từng gieo tai ương khắp thế giới, làm khổ đau bao
dân tộc và cả chính người dân nước mình, nhưng lại là xứ sở ra đời bản Tuyên ngôn giải phóng nô lệ bởi Tổng
thống Abraham Lincoln, ngày 22 tháng 9
năm 1862,
y như việc hiện thực hóa một phần nào đó tinh thần của bản Tuyên ngôn đảng Cộng sản của Mác, ra đời trước đó 14 năm, 21 tháng
2 năm 1848. Và những ngày hôm nay, cũng chính nước Mỹ đã xuất hiện những dấu
hiệu của CNCS, đã xuất hiện tầng lớp “làm
theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, và những ông tỷ phú như Bill Gates
và Warren
Buffett đã sử dụng tiền của cá nhân mình vào những mục đích công
cộng trên toàn thế giới.
Vì thế, tôi thấy những người
chống Cộng thực ra họ chống cái không phải, chống cái do sự thiếu hiểu biết họ
đã tưởng tượng ra mà cuộc chiến tranh lạnh đã vẽ ra trong đầu óc họ.
Về chuyện người ta cũng hay
bới móc và phóng đại số người chết trong Cải
cách Ruộng đất để tố cáo tội ác và tính phi luân của Chế độ Cộng sản ở nước
ta, trong khi những nhà lãnh đạo đã nhận sai lầm, đã tích cực sửa sai, đã cách
chức đến cả tổng bí thư. Ngược lại, những người này lại lờ đi chuyện Ngô Đình
Diệm đã đàn áp và thủ tiêu các giáo phái và đưa ra luật 10/59 lê máy chém khắp
nơi để diệt cộng; nhà tù đã mọc lên nhiều hơn trường học, với những cái tên
khét tiếng như nhà ngục Chín hầm ở Huế,
nhà tù Côn Đảo, nhà tù Phú Quốc v.v… Những hành động tàn sát chính đồng bào
mình đó không chỉ là hành động nhất thời mà còn được coi là quốc sách. Mức độ
tàn ác quá lớn làm mất lòng dân chúng đến độ đã làm phật ý cả Mỹ, để rồi Diệm
đã phải chịu quả báo nhãn tiền, bị giết bởi chính thuộc cấp của mình, với sự
bật đèn xanh của CIA. Ấy vậy mà đến tận giờ vẫn không ít người tôn thờ Ngô Đình
Diệm và tính chính nghĩa của “Nền Đệ nhất
Cộng hòa”. Hãy xem đoạn văn dưới đây gởi những quan thầy Pháp của Ngô Đình
Thục, anh ruột Ngô Đình Diệm, người đã dựa vào thế lực công giáo, giúp em mình
đoạt quyền từ Bảo Đại, để xem rõ hơn cái tính “chính nghĩa” đó:
"...Với tư cách là người con của một gia đình mà thân phụ tôi đã phục vụ
nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho
nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi (Ngô Đình Khả) cầm đầu, dưới
quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại
Nghệ-an và Hà-tịnh.
Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, tôi xin thú thực là không tin – cho đến
khi được chứng minh ngược lại – rằng các em tôi đã phản lại truyền thống của
gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp
từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống
lại Pháp...."
Như vậy theo logic, “Đệ nhất Cộng hòa” đã không chính nghĩa
thì “Đệ nhị Cộng hòa” sao chính nghĩa?
Hãy xem ông Tổng thống
nền “Đệ nhị cộng hòa” Thiệu trong giờ
phút cuối cùng tại vị, ngày 21 tháng Tư năm 1975 trong Dinh Độc Lập, nói trong Diễn văn từ chức, theo Pierre Darcourt
trong VIETNAM, QU’AS TU FAIT DE TES FILS?,
dịch giả: Dương Hiếu Nghĩa:
“… Liên
quan đến thảm trạng quân sự … ông Thiệu chỉ rõ: chính Hoa Kỳ là kẻ phải chịu
trách nhiệm chính trong vấn đề nầy:
- Tôi đã nói với người Mỹ là: “các ông muốn tôi làm những gì mà quân đội của
các ông với 300 tỷ Mỹ kim, đã không làm được trong sáu năm”.
- Tôi đã nói với họ là: “Các ông muốn rút ra khỏi cuộc chiến tranh ở Việt Nam trong danh
dự và bây giờ các ông đòi hỏi chúng tôi phải làm những chuyện vô lý và không
thể làm được. Điều hành một cuộc chiến với viện trợ quân sự bị cắt xén thì có
khác nào mấy ông trao cho tôi 3 Mỹ kim mỗi ngày mà bảo chúng tôi phải sống như
một du khách hạng sang”.
Một lãnh tụ của một quốc gia sao
lại nói “chính Hoa Kỳ là kẻ phải chịu
trách nhiệm” về công việc của nước mình, phải chăng ông thú nhận chính Mỹ
mới là chủ nước mình, còn ông chỉ là kẻ đánh thuê?
Trong: Nguyễn Văn Thiệu, với lòng hận thù ngút
trời, ông ta từng nói: “Đối với Cộng sản
Việt Nam không có hội đàm/ thương thảo, mà chỉ có đem bom ném lên đầu chúng nó!”,
nhưng ông ta lại: “Mỹ còn viện trợ,
thì chúng tôi còn chống cộng”; rồi “Nếu
Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một
tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!”.
Thật tức cười khi một ông tổng
thống lại chiến đấu chỉ vì tiền viện trợ? Tướng Cao Văn Viên,
trong một cuộc phỏng vấn lúc cuối đời, đã có một số nhận xét về Nguyễn Văn
Thiệu cũng như so sánh giữa Nguyễn Văn Thiệu và Ngô Đình Diệm:
"Mỗi người độc tài theo cách riêng. Tổng thống Diệm cai trị nước như một
quan lại của thời quân chủ, ông bẩm sinh chống cộng, tự ban cho mình 'thiên
mạng' cứu nước… Còn ông Thiệu thì theo đường lối 'độc tài trong dân chủ'… Bàn
tay sắt trong đôi găng nhung”.
Henry
Kissinger trong hồi ký của mình đã cho rằng, Nguyễn Văn Thiệu đã
điều hành quốc sự theo một kiểu "tàn
bạo", "xấc láo", "ích kỷ, độc ác" với những "thủ đoạn gần như điên cuồng".
Ông ta cũng tiết lộ rằng, khi nói về việc Nguyễn Văn Thiệu ngăn cản Mỹ ký hiệp
định Paris,
Tổng thống Nixon đã giận dữ thốt lên: "Ông
sẽ hiểu thế nào là sự tàn bạo nếu tên đểu giả đó không chịu chấp thuận. Ông hãy
tin lời tôi"!
Như vậy là quá rõ. Cái
chuyện chính nghĩa với cả phi nghĩa nên xếp lại, cái cần nhất là nhìn đúng thực
trạng hiện tại của đất nước, đưa ra những giải pháp phù hợp, để thúc đẩy sự
phát triển. Chứ còn mãi ôm hận, muốn làm cách mạng thay đổi chế độ thì thật là
ảo tưởng viển vông, bởi với hơn nửa triệu quân Mỹ cùng với núi tiền của đổ vào
còn không làm được gì, thì thử hỏi các vị chống chế độ bây giờ làm được gì? Đến
như ông Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, người chống cộng khét tiếng nhất, người
lính Ngụy cuối cùng rút chạy khỏi SG sau những cố gắng phản công tuyệt vọng,
cũng đã phải thừa nhận những thành quả đã đạt được ở trong nước và thấy, những
người Việt hải ngoại cần phải xóa bỏ hận thù, cùng nhau dựng xây đất nước. Vậy
mà đến nay, sau gần 40 năm hòa bình, trong nước hoàn toàn chẳng còn khái niệm
“Mỹ” với chả “Ngụy”, vậy mà vô mấy trang chống cộng dạng như Đàn Chim Việt, tôi thật e ngại khi thấy
mối thù hận vẫn còn cao chất ngất, và có lẽ không bao giờ hóa giải được, bởi
không phải do vô học mà sự lầm lạc đó lại được xác tín một cách rất trí thức.
Đó chính là cái nghịch lý vẫn thường có trong cuộc đời này, nó chính là sự ngu dốt của những kẻ trí thức. Vì là
trí thức nên họ có lý lẽ, nhưng tri thức của họ lại chưa đủ, cộng với sự
thành kiến làm méo mó cách nhìn, nên họ sẽ mãi mãi lầm đường lạc lối!
Tất nhiên với những người thuộc chế độ cũ ta
cũng phải thông cảm, vì họ vẫn còn “cay” cái chuyện Việt Nam Cộng
hòa “mất nước”. Đó cũng là lẽ thường tình bởi họ cũng chỉ là những
người bình thường, không có được cái tâm phá chấp của nhà Phật, ai cũng có cái
sĩ diện, nhất là lại mang nặng cái cốt cách tiểu nông phong kiến nữa. Sau giải
phóng tôi đã không bao giờ coi họ là địch, vì quả thật, nếu như vậy với tôi,
chính vợ con tôi cũng sẽ thành kẻ địch!
Tôi chỉ khinh thường những người
thuộc “phe ta”, vì chỉ muốn “hơn người” đã tuyên bố và có những hành động
ngược ngạo, như Dương Thu Hương lại “khóc
như cha chết” vì thấy đội quân chiến thắng của mình “là một đội quân man rợ”; như Nguyễn Huy Thiệp, một ông giáo
cấp III môn lịch sử, một nhà văn lại: “nôn
mửa vào cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc”; còn ông Nguyên Ngọc, một
người khi trong ban lãnh đạo của Hội Nhà văn, lại cố công lăng xê cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, cuốn
sách mà GS. Trần Thanh Đạm đã viết là cuốn: “xuyên tạc tính chất chính nghĩa của cuộc chiến từ phía Việt Nam”;
ông đã phải ta thán trước những sự tôn vinh cuốn sách đó: “Thế là thiện ác đảo điên, chính tà lẫn lộn, vinh nhục bất phân”;
còn Huệ Chi, chủ trang Bauxitevn.net,
từng tuyên bố thành quả cách mạng, chỉ là một “sự cả tin”, là “mơ ước nông
nổi” v.v…
Trong một bài nhớ về ngày 30-4, tôi
đã viết:
“Nhìn cảnh máu lửa trên ti vi, người Việt giết người Việt mình, tôi thấy
cuộc sống loài người sao có những điều vô lý thế, và nhận thấy chính lòng tham
của những kẻ mạnh là cội nguồn sâu xa nhất. Chúng ta đã trở thành nạn nhân của
cái lòng tham của những nước lớn, rồi dẫn đến chuyện chúng ta lại trở thành nạn
nhân của chính chúng ta bởi những cố chấp, những thù hận; bởi sự nô lệ cho
những ý thức xơ cứng, mòn cũ, phản tiến bộ và phản nhân văn.
Vật lý lý thuyết đã chỉ ra, bản chất sâu xa của vật chất mang tính nhị nguyên
sóng - hạt; Đức Thích Ca, Lão Tử, dù chỉ tương đồng ở vỏ ngôn ngữ, cũng đã cho
vạn vật và mọi hiện tượng đều được tạo nên và tồn tại bởi hai cái ngược nhau:
sắc và không; vô và hữu.
Nếu các nhà chính trị hiểu điều này, hiểu xã hội loài người chẳng có gì hoàn
toàn đúng, chẳng có gì hoàn toàn sai, chắc thế giới đã không có những cuộc
chiến ý thức hệ. Nếu nước Mỹ cũng hiểu điều này, có lẽ sẽ không có cuộc chiến
Việt - Mỹ cay đắng, làm đến 3 triệu người Việt Nam và gần 60000 người Mỹ thiệt
mạng, và lòng người đến nay vẫn còn ly tán. Và cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton cũng không phải "thú nhận" với Chủ tịch
Nguyễn Minh Triết rằng: “Sáu mươi năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng thống
Roosevelt đã muốn hai nước Việt - Mỹ thật sự
là bạn. Quá trình này đã có những bước gập ghềnh. Tuy nhiên, tôi vô cùng hạnh
phúc chứng kiến quan hệ tốt đẹp giữa hai nước mà đáng lẽ phải có từ cách đây 60
năm”.
TPHCM
27-4-2012
ĐÔNG LA