Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2025

LỊCH SỬ THÀNH VĂN, Phần 2 GIÂY PHÚT XE TĂNG HÚC BUNG CỔNG DINH ĐỘC LẬP VÀ CỜ GIẢI PHÓNG TUNG BAY TRÊN NÓC DINH

LỊCH SỬ THÀNH VĂN, Phần 2
GIÂY PHÚT XE TĂNG HÚC BUNG CỔNG DINH ĐỘC LẬP VÀ CỜ GIẢI PHÓNG TUNG BAY TRÊN NÓC DINH
Bài trước tôi viết: “Tôi dám nói hai ông GS Suyền và Sử là “bọn GS văn mất dạy” khi ca ngợi BN là vì họ không học lời cha ông ta dạy “chân, thiện, mỹ” là giá trị cốt lõi của văn chương”. Vì chính Bảo Ninh trên Báo Đất việt online từng thú nhận: “… tôi viết trong cuốn sách này… không hoàn toàn là sự thật… Tôi nghĩ thế là quyền của tôi, và có người phê phán tôi thấy cũng chẳng sai”. Trần Đăng Suyền viết NBCT “Có tư tưởng sâu sắc… là kiệt tác… đỉnh cao văn học VN thời đổi mới”, “ông (BN) nhìn chiến tranh qua thân phận con người không lấy sự kiện, biến cố lịch sử làm hệ quy chiếu”. Vậy ta hãy xem Bảo Ninh “quy chiếu” về hình ảnh “anh chiến sĩ giải phóng” là như thế này đây: Hiếp dân lành (chuyện cô Phương bị hiếp tập thể trên tầu, Nỗi buồn chiến tranh, nxb Hội nhà văn, 1991, tr 243) ; hành lạc tập thể (giữa phân đội trinh sát với 3 cô gái trong khu trại tăng gia huyện đội, tr.31); bài bạc, hút xách (hút hồng ma), trốn chạy (nhân vật Can), tàn sát tù binh (tr. 42) …”. Những chiến sĩ chiến đấu để giải phóng đất nước bị xâm lược, Bảo Ninh viết là “…chém giết cuồng dại, méo xệch tâm hồn và nhân dạng. Thói hiếu sát. Máu hung tàn. Tâm lý thú rừng…” (trang 49). Theo Phạm Xuân Nguyên, Bảo Ninh cũng “có công” viết để người nước ngoài hiểu về anh “chiến sĩ giải phóng” sau “chiến thắng vĩ đại” là như thế này: “… Dennis Mansker… khi đọc NBCT. …ông choáng váng và xúc động. Ông viết: "Đây là một bức tranh trung thực và tàn nhẫn đến kinh ngạc về bi kịch của một người lính Bắc Việt bị tê liệt hết nhân tính của mình sau mười năm tham chiến…”. Tôi đã viết: “Bản thân cựu lính chiến Bảo Ninh cũng còn rất khôn ngoan, chẳng có “tê liệt” cái quái gì hết, không hiểu vì cái gì mà ông ta viết để cho người ngoài hiểu đồng đội của mình “tê liệt hết nhân tính” như một lũ súc vật vậy?!”
Trần Đình Sử cũng khen NBCT hết lời nhưng lại trích đoạn nhân vật Kiên của Bảo Ninh ra đi với lời dặn của cha đại ý là “đừng ngu mà chết vì lý tưởng”, cụ thể BN viết: “Nghĩa vụ của một con người trước trời đất là sống chứ không phải hy sinh nó, là nếm trải sự đời một cách đủ ngành ngọn chứ không phải là chối bỏ…, mong con hãy cảnh giác với tất cả những sự thúc giục con người lấy cái chết để chứng tỏ một cái gì đấy” tr. 61).
Trong 2 cuộc kháng chiến vĩ đại để giải phóng đất nước, giành lại chủ quyền dân tộc, ai cũng lo bảo toàn mạng sống, sợ hy sinh thì làm sao có ngày chiến thắng, sao có được một nước VNXHCN ra đời, để ông Sử, ông Suyền được thành “cháu ngoan Bác Hồ”, được đi học, đi dạy, rồi thành GS, Nhà Lý luận phê bình, được học sinh thần phục, được nhà nước vinh danh, để rồi hôm nay viết hươu vượn, nhăng cuội về NBCT.
***
Vậy sự thật hình ảnh “anh chiến sĩ giải phóng” như thế nào? Hôm nay tôi xin đăng tiếp chuỗi bài “Lịch sử thành văn” tôi đã viết về Ngày Lịch sử 30-4-1975.
27-4-2025
ĐÔNG LA
Phần 2
GIÂY PHÚT XE TĂNG HÚC BUNG CỔNG DINH ĐỘC LẬP VÀ CỜ GIẢI PHÓNG TUNG BAY TRÊN NÓC DINH



Đương kim Tổng thống VNCH thời điểm sáng 30-4-1975 là Dương Văn Minh, người mới nhận chức Tổng thống từ Trần Văn Hương vào ngày 28 tháng 4 năm 1975. Dương Văn Minh chính là người mà năm 1963 đã lãnh đạo cuộc đảo chính bắn chết anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm, Cố Vấn Ngô Đình Nhu và xử tử hình “Bạo chúa Miền Trung” Ngô Đình Cẩn. Khi Quân Giải phóng đã tấn công đến Cầu Sài Gòn, Dương Văn Minh buộc phải đọc Tuyên bố “yêu cầu hai bên cùng ngưng nổ súng”. Băng ghi âm được phát trên đài Phát thanh Sài Gòn đúng 9h30 phút.
Dù Dương Văn Minh đã đọc tuyên bố yêu cầu ngưng nổ súng như vậy, nhưng trên đường tiến công của Binh đoàn Thọc sâu của quân ta vẫn bị quân địch chống trả tới cùng.
Sau khi phá tan ổ kháng cự ở Cầu Sài Gòn, lực lượng đi đầu Binh đoàn Thọc sâu của Quân đoàn 2 vượt qua Cầu Sài Gòn. Phó Tư lệnh Hoàng Đan chỉ thị cho Lữ đoàn xe tăng 203 cho Tiểu đoàn 1 đi đầu, Tiểu đoàn 2 bám theo; chỉ thị cho Trung đoàn đặc công 116; Trung đoàn bộ binh 66 bám sát đội hình xe tăng tiến về hướng Dinh Độc Lập; Tiểu đoàn 8 của Trung đoàn 66 có nhiệm vụ đánh chiếm Đài phát thanh Sài Gòn.
Đến gần 10 giờ, mũi tiến công đến ngã tư Hàng Xanh, Ngô Sĩ Nguyên, Pháo thủ số 1 trên xe tăng 390, thấy hai chiếc xe M113 và một đoàn xe ô tô, cũng là lúc anh nghe thấy lệnh của Trưởng xe Vũ Đăng Toàn:
-Mục tiêu!
Ngô Sĩ Nguyên bóp ngay cò súng, các quả đạn bay trúng mục tiêu làm hai chiếc xe M113 toác ra và cháy bùng lên.
Đoàn quân được lệnh tiếp tục rẽ trái tiến lên. Đi đầu là xe tăng 866 của trưởng xe Lê Tiến Hùng, khi xe 390 dừng lại bắn xe địch, xe 843 của đại đội trưởng Bùi Quang Thận đã vượt lên đi thứ hai, xe 390 của Trưởng xe Chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn đi thứ ba. Tiếp theo sau là chiếc xe Jeep chở Đại úy Phạm Xuân Thệ, Trung đoàn phó Trung đoàn bộ binh 66.
Đến Cầu Thị Nghè, một ổ kháng cự của địch có cả xe tăng M41 và xe thiết giáp M113 đã bất ngờ bắn vào đội hình quân ta. Xe 866 dẫn đầu bị trúng đạn. Trưởng xe Lê Tiến Hùng bị thương và một chiến sĩ công binh ngồi trên xe đã hy sinh. Xe 843 của Bùi Quang Thận dừng lại lập tức bắn cháy các xe của địch, dập tắt ổ kháng cự cuối cùng. Xe tăng 390 lại lao lên dẫn đầu. Ngoài Trưởng xe Vũ Đăng Toàn, trên xe 390 còn có Ngô Sĩ Nguyên, Pháo thủ số 1; Lê Văn Phượng, Đại đội phó kỹ thuật kiêm pháo thủ số 2; và Lái xe Nguyễn Văn Tập. Xe tăng 843 đi sau, trên xe 843, ngoài Trưởng xe Bùi Quang Thận có Thái Bá Minh, Pháo thủ số 1; Nguyễn Văn Kỷ, Pháo thủ số 2; và Lái xe Lữ Văn Hỏa.
Các chiến sĩ đều được hướng dẫn trước, qua cầu Thị Nghè, đi qua 7 ngã tư, rẽ trái là sẽ tới Dinh Độc lập. Nhưng lần đầu đi giữa phố phường của một thành phố lớn, san sát nhà cửa, các chiến sĩ bị ngợp, không chỉ có các ngã tư mà còn có các ngã ba, khiến các chiến sĩ không thể nhận diện chính xác thứ tự các ngã tư. Xe 390 đã đi quá đường, vượt qua ngã tư thứ 7 là Hồng Thập Tự-Công Lý (nay là Nguyễn Thị Minh Khai-Nam Kỳ Khởi Nghĩa). Đi khoảng hơn chục mét đến cổng một trường học thấy bảng hiệu ghi là trường Lê Quý Đôn, nhận ra đã lạc đường, Lái xe Nguyễn Văn Tập nói với Trưởng xe Vũ Đăng Toàn:
-Xe mình có khi bị lạc rồi!
Vừa lúc đó có một thanh niên đi ngược tới, Nguyễn Văn Tập ngừng xe, xuống giữ ngay anh chàng lại, nói với trưởng xe:
-Anh Toàn ơi, bảo nó dẫn mình tới Dinh Độc lập.
Chàng thanh niên sợ hãi:
-Các ông cho con về cất đồ.
Chờ một chút thấy chàng trai rẽ vào đường gần đó mất hút luôn, Nguyễn Văn Tập nhớ ra sau lưng mình chính là ngã tư thứ 7, nên anh cho xe lùi ngay lại, “đánh vào tay trái”, rẽ về hướng Dinh Độc lập.
***
Trong khoảng thời gian đó, ở trong xe 843, Bùi Quang Thận cũng không nhớ chính xác thứ tự các ngã tư, đến một ngã tư anh lệnh cho xe rẽ trái, chạy hết một dãy phố đến một ngã ba đầu một con đường lớn, nơi có chiếc cổng sắt lớn dẫn vào một công viên ghi “SỞ THÚ SÀI GÒN”. (Bây giờ là ngã ba Nguyễn Bỉnh Khiêm-Lê Duẩn). Anh ra lệnh dừng xe. Đang bối rối, rất may, từ phía trước, anh thấy một phụ nữ đi xe máy lao tới. Anh ra hiệu cho xe dừng lại, nhưng chiếc xe vẫn lao đi như không biết đến cử chỉ của anh. Anh lập tức bắn ba phát chỉ thiên. Người phụ nữ sợ quá phanh gấp chiếc xe máy chững lại. Trước mắt, anh Thận thấy một phụ nữ khoảng ngoài ba mươi mặt mày tái mét. Chắc chị ta đã kinh hồn bạt vía bởi luôn bị tuyên truyền, khi Việt Cộng chiếm thành phố sẽ có một “cuộc thảm sát đẫm máu”, “sẽ rút móng tay của từng cô gái một vì sơn móng tay”, sẽ bắt và giết hết những đứa con lai của những người phụ nữ quan hệ với lính Mỹ.
Với giọng từ tốn, anh Thận đã trấn an được người phụ nữ, rồi đề nghị:
- Chị chỉ hộ tôi đường vào Dinh Độc Lập.
- Tôi chỉ xong ông cho tôi đi chứ - người phụ nữ vừa nói vừa run.
- Vâng, xong việc, chị hoàn toàn tự do- Anh quả quyết.
- Ông đang đứng trước hướng Dinh Độc Lập đó – chị nói mà không dám chỉ tay - nó phía sau tàn cây như rừng phía cuối đường nầy đó.
Bùi Quang Thận nhìn thẳng, từ đầu đường Thống Nhất, anh thấy Dinh Độc Lập không đồ sộ như suy nghĩ của anh, nhưng nó là khu nhà bề thế như nằm sau rừng cây. Anh lập tức lên xe, lệnh tiến thẳng đến cổng Dinh Độc lập. Qua ngã tư cuối cùng, Bùi Quang Thận thấy Dinh Độc lập sừng sững trước mặt. Xe 843 rú ga vượt qua đoạn đường cuối tới đường Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) ngay trước cổng dinh. Không biết quân địch trong Dinh thế nào, Bùi Quang Thận lệnh cho Pháo thủ Thái Bá Minh bắn pháo lên trời để thị uy, nhưng Minh bóp cò 2 lần đạn vẫn không nổ. Minh hét bảo Pháo thủ 2 Nguyễn Văn Kỷ thay đạn, và đó cũng là lúc Lái xe Lữ Văn Hỏa đã lái xe đến gần cổng Dinh có những hàng rào kẽm gai và chướng ngại vật. Bùi Quang Thận hô:
-Cứ lao thẳng vào!
Vì xe đang chạy nhanh, lại tránh chướng ngại vật, xe lạng sang phía trái về phía cổng phụ, Lữ Văn Hỏa vội kéo cần lái phải, chỉnh thẳng hướng, đâm xe thẳng vào cổng. Phải đâm ba lần cánh cổng chính Dinh Độc lập mới bật ra, lần thứ 3, bánh xe đâm vào trụ cổng trái rất vững, làm xe chết máy, dừng lại.
***
Lúc này, xe 390 từ hướng Đường Công Lý cũng vừa chạy đến. Lái xe Nguyễn Văn Tập thấy xe 843 dừng lại trước cổng phụ, nói với Trưởng xe Vũ Đăng Toàn:
-Bây giờ thế nào?
Vũ Đăng Toàn quát, giọng hơi gắt:
-Tông vào đi chứ còn thế nào nữa!
Tập lập tức nghiến răng kéo cần lái phải, đánh vuông góc, chỉnh đầu xe đúng giữa, húc tiếp vào hai cánh cổng chính đã bung ra, chạy vào sân Dinh, thực hiện một “đường cua” đẹp nhất trong cuộc đời lái xe tăng của anh. Pháo thủ Lê Văn Phượng, lúc xe ở ngay trước cổng, đứng trên tháp pháo, anh nhìn thấy thấp thoáng một nhà báo cầm máy ảnh, chạy lom khom trong sân Dinh. Đó chính là nữ nhà báo người Pháp Francoise Demulder, người đã chụp được khoảnh khắc lịch sử, chiếc xe tăng 843 sau khi húc bung cổng chính, chết máy nằm ở cổng phụ bên trái; xe tăng 390 húc tiếp cổng chính, đúng khoảnh khắc đang vượt qua cổng vào sân Dinh Độc lập. Nguyễn Văn Tập tiếp tục rú ga cho xe chạy nhanh vòng qua phía phải bồn có đài phun nước đến cửa dinh, rồi dừng lại. Pháo thủ Ngô Sĩ Nguyên cầm AK nhảy ngay xuống xe thì thấy một người chạy lại nói:
-Vừa rồi tôi không cắt cầu dao điện bánh xe thì xe của anh chắc cháy rồi!
Nguyên trả lời:
-Cảm ơn nhé!
Người đàn ông đó chính là Lê Văn Hinh, một tình báo viên với mật danh H5. Trong vai “thiếu úy cảnh sát dã chiến”, từ ngày 18/4, anh đã được cử vào làm bảo vệ khu vực Dinh Độc lập. Sáng ngày 30/4/1975, anh biết đoàn xe tăng của quân giải phóng sẽ không thể húc đổ cổng được vì tất cả hàng rào đã bị cài điện. Khoảng 10 giờ 30 phút, ông đã tìm gặp ngay viên thiếu tá cảnh sát, người đang giữ chìa khóa hệ thống điện trong Dinh Độc lập, khôn khéo thuyết phục “người anh em” ngắt toàn bộ cầu dao trung tâm điều khiển điện của hàng rào. Vì vậy, đoàn xe tăng của quân giải phóng đã húc đổ cổng chính và cổng phụ, an toàn tiến vào sân dinh.
Cũng vào lúc xe 390 vừa ngừng, Trưởng xe Vũ Đăng Toàn định cầm cờ nhảy xuống xe, lên cắm cờ, Lê Văn Phượng vỗ vai Toàn:
-Thôi anh, đã có đồng chí Thận đang cầm cờ chạy theo xe mình vào kia rồi!
Toàn nghe Phượng, ở lại xe, lệnh cho anh em sẵn sàng chi viện cho anh Bùi Quang Thận cầm cờ tiến vào Dinh.
Còn Bùi Quang Thận, trước đó ít phút, khi xe 843 chết máy, kẹt lại cổng phụ của Dinh, anh quyết định thoát ly khỏi xe, chạy bộ vào cắm cờ. Anh giao nhiệm vụ cho các đồng đội chi viện cho mình và dặn: “Các cậu ở lại, mình vào Dinh. Nếu không thấy mình quay ra, cũng không thấy lá cờ này nhô lên, thì tức là mình đã chết ở trong Dinh rồi!”


Bùi Quang Thận vượt qua các bậc tam cấp, lao vào trong Dinh, từ ngoài trời nắng tháng tư như đổ lửa, anh thấy mát rượi. Chân anh mang dép cao su, mặc áo ngắn tay, đầu đội mũ xe tăng, trên xe nhiều vũ khí nhưng anh vội, không mang một thứ gì, chỉ rút cái ăng-ten có cờ giải phóng là chạy vào. Theo cầu thang ở chính giữa sảnh, anh leo đến tầng 2, thấy người lố nhố. Bất chợt anh cũng thấy sợ khi một mình, tay không vũ khí, chạy vào hang ổ quân địch. Anh nghĩ giá có vũ khí thì cũng yên tâm hơn. Rồi anh nghĩ bụng “Bây giờ tốt nhất là bắt một người dẫn mình đi cắm cờ”. Với cách nghĩ của một chàng trai nông dân, học mới lớp 7, “ít chữ, ngắn học”, như sau này chính anh kể, anh đã húc đầu vào tấm kính ngăn phòng, đánh động, để Dương Văn Minh đi ra. Cái húc khá mạnh, khiến anh bị choáng, ngã ngồi xuống, một lát anh tỉnh ngay lại, phải băng đầu. Anh thấy đi ra một người, chính là Nguyễn Văn Diệp, Tổng trưởng tài chính, được lệnh ra đón quân giải phóng. Anh nghĩ bụng, bây giờ phải túm lấy tay anh ta ngay, đòi gặp Tổng thống DVM, bắt được DVM là mình sẽ an toàn. Anh nắm chắc lấy tay ông Diệp, quát to:
- Cho gặp Dương Văn Minh ngay.
- Vâng, vâng... để tôi vào báo tổng thống - giọng ông Diệp run run.
Phía Nội các Dương Văn Minh, khi xe tăng vào Dinh Độc Lập, đang ở trong phòng. Ông Lý Quí Chung, Tổng trưởng thông tin, thấy tiếng chân người vang dội trong sảnh, và nghe rõ tiếng hô to: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Người bước ra khỏi phòng trước tiên là Tổng thống Dương Văn Minh. Lý Quí Chung bước theo. Vừa bước ra hành lang ông thấy ở đầu kia có người bộ đội cầm cờ và hô to: “Mọi người giơ tay lên!”. Ông Minh, ông Mẫu và mọi người nhất loạt giơ tay. Ra đến đại sảnh, Lý Quí Chung thấy một người bộ đội nói với tổng thống Minh: “Anh chỉ cho tôi đường đi lên để hạ cờ ngụy quyền”. Ông Minh quay sang nói: “Chung, toa hướng dẫn cho người này lên sân thượng”. Sau này ông Chung mới biết đó là anh Bùi Quang Thận. Ông đưa anh Thận đến thang máy để lên sân thượng, những người còn lại theo ông Dương Văn Minh trở lại phòng. Riêng ông Nguyễn Hữu Hạnh ở lại để đón quân giải phóng nơi đầu cầu thang xuống tầng 1. Người ông gặp đầu tiên là Đại uý Phạm Xuân Thệ cùng đồng đội ở Trung đoàn 66, súng lăm lăm trong tay đang lao lên (chi tiết sẽ viết số sau).
Còn Bùi Quang Thận cầm cờ đi theo Lý Quí Chung trong một hành lang dài, rồi rẽ phải đến một thang máy nhỏ. Ông Chung bấm nút mở cửa, mời Bùi Quang Thận bước vào. Anh lần đầu thấy thang máy nên ngần ngừ bước vào, rồi lại quay ra ngay lập tức, nghi ngờ, “Hắn định giở cái trò khỉ gì thế này? Mình đi cắm cờ, nó lại giam mình vào cái hộp bằng inox này sao đi cắm cờ được?” Lý Quý Chung giải thích, "Dạ thưa, ông vào đi. Đây là cái thang máy. Tôi đưa ông đi cắm cờ mà". Anh thấy gã có vẻ thành thật nhưng vẫn cảnh giác, vì không có súng, anh bắt gã vào trước, úp mặt vào tường. Lý Quí Chung bấm nút, thang máy đưa Bùi Quang Thận và ông ta lên đến tầng thượng, ra đến cột cờ, anh thấy lá cờ địch quá to, còn lá cờ của mình chỉ là cờ hiệu trên nóc xe tăng nên quá nhỏ giữa cái không gian lồng lộng của nóc Dinh. Vì lá cờ địch được chằng buộc rất kỹ vào dây kéo nên Bùi Quang Thận phải dùng răng cắn đứt mép rồi xé ra. Lúc này, Trần Đức Tình, chiến sĩ thuộc Đại đội 6, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 9, Sư đoàn 304, QĐ2, cũng đã có mặt trên nóc dinh. Thấy Bùi Quang Thận cứ dứt dứt không đứt, Tình nói:
-Thôi tội gì, tôi có dao đây!
Nói xong, anh cầm dao cắt rời mối nối góc cờ địch với dây kéo.
Gỡ xong cờ địch, Bùi Quang Thận thay lá cờ giải phóng lỗ chỗ vết đạn của mình vào, rồi kéo lên. Bất chợt, anh lại hạ cờ xuống, đưa tay xem đồng hồ, lấy bút thận trọng ghi: 11 giờ 30 ngày 30-4 và ký tên Thận lên góc lá cờ, xong, anh lại kéo cờ lên trở lại.
Cùng lúc Bùi Quang Thận lên treo cờ trên nóc dinh, dưới sân, Đào Ngọc Vân, lái xe jeep của Phạm Xuân Thệ, cũng lấy lá cờ của người đàn ông đi theo chỉ đường, chạy lên ban công phất cờ. Tiếp đó, Đại trưởng Phạm Duy Đô thuộc Trung đoàn 116 đặc công, cũng ngồi trên xe 843 với Bùi Quang Thận, khi xe 843 tiến vào dinh, Phạm Duy Đô đã xuống xe, cũng lao lên ban công, rút lá cờ trong túi ra phất báo hiệu cho các xe tăng tiến vào. Trên ban công, mọi người thường thấy hai người phất cờ là vì như vậy.



***
Lúc này, dưới sân, nhiều xe tăng đã vào sân, dàn đội hình. Các chiến sĩ bộ binh cũng đã vào nhiều, họ gom toàn bộ số lính ngụy đưa vào góc sân dinh và canh giữ những vị trí cần thiết. Còn ngoài đường Thống Nhất, xe tăng, xe bọc thép, xe ô tô chở bộ binh vẫn nối đuôi nhau tiến về hướng dinh. Tiếng súng bắn chỉ thiên mừng chiến thắng của quân giải phóng nổ vang trời. Nhưng vẫn còn lẻ tẻ đâu đó những tiếng súng kháng cự hận thù lầm lạc của những người lính thuộc một chính quyền tay sai bại trận. Từ phía trụ sở Bộ Ngoại giao (nay là Sở Ngoại vụ TP.HCM), những tay súng biệt kích dù 81 đã bắn trúng Tô Văn Thành, chiến sĩ tiểu đoàn 7 bộ binh đang ngồi trên thành xe tăng. Đó là chiến sĩ giải phóng cuối cùng hi sinh ngay trước cổng Dinh Độc Lập.
Còn trong dinh, Phạm Xuân Thệ đang buộc Dương Văn Minh sang Đài Phát thanh SG đọc lời Tuyên bố đầu hàng!
21-6-2020
ĐÔNG LA

Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2025

VÀI ĐIỀU QUANH CHUYỆN BỌN THẦY TRÒ VĂN CHƯƠNG MẤT DẠY KHI VIẾT VỀ “NỖI BUỒN CHIẾN TRANH”

 

VÀI ĐIỀU QUANH CHUYỆN BỌN THẦY TRÒ VĂN CHƯƠNG MẤT DẠY KHI VIẾT VỀ “NỖI BUỒN CHIẾN TRANH”



Tôi tính đăng liên tục loạt bài tôi viết về 30-4-1975 mà tôi gọi là “Lịch sử thành văn” để chào mừng chẵn nửa thế kỷ ngày chiến thắng vĩ đại, giải phóng, thống nhất đất nước. Nhưng cô Lương Lan Hương lại nhắn tin về Trần Đăng Suyền, một GS văn chương viết về cuốn “Nỗi buồn chiến tranh”, tôi đọc mấy chữ thấy ngay Trần Đăng Suyền sai. Lướt trên mạng, tôi thấy một ông GS khác, từng có thời gian dài thân thiết với tôi, là Trần Đình Sử, cũng viết sai về “Nỗi buồn chiến tranh”, v.v… Và chắc còn rất nhiều ông thầy dạy văn sai như thế. Về Trần Đăng Suyền, Trần Đình Sử sai thế nào có thề tôi viết sau. Tôi trả lời Lương Lan Hương: “Bọn GS văn mất dạy, đào tạo ra lũ học trò mất lương tri, ra trường chiếm lĩnh các đài, báo, đã đưa tin, đăng tải bài viết sai trái”.

Quả thực, như GS Trần Thanh Đạm viết, trong lĩnh vực văn chương ở ta đã “trắng đen lẫn lộn, thiện ác bất minh”. Còn tôi (Đông La) thấy trong sáng tác, giới văn chương ở ta có chuyện bầy biện rác rưởi, xú uế lên bàn tiệc văn chương, rồi lũ nhà văn, nhà thơ bệnh hoạn bu vào hít hà, thưởng thức; về nhân cách có những kẻ có nhân cách cũng như rác rưởi, xú uế, chỉ kẻ có đầu óc bệnh hoạn mới ca ngợi. Theo Nhà Văn Lê Xuân, Nguyễn Huy Thiệp là thầy giáo, nhưng từng lấy cả xe sách giáo khoa ở nhà xuất bản bán cho dân làm pháo. Vậy mà Nguyễn Quang Thiều ca ngợi NHT là “nhà văn tìm đạo cho dân”. Theo GS Nguyễn Cảnh Toàn, từng cùng đơn vị với Bảo Ninh, viết Bảo Ninh không chỉ viết văn xuyên tạc về đồng đội, sau giải phóng làm ở viện Sinh học, đã bỏ thuốc độc vào thí nghiệm của bạn để hại bạn, bị đuổi việc. Vậy mà NQT ca ngợi Bảo Ninh viết văn “chạm vào mẫu số chung nhân loại”.
Tôi dám nói hai ông GS Suyền và Sử là “bọn GS văn mất dạy” khi ca ngợi BN là vì họ không học lời cha ông ta dạy “chân, thiện, mỹ” là giá trị cốt lõi của văn chương. Chính Bảo Ninh trên Báo Đất việt online từng nói mình viết không đúng sự thật, tức đã xuyên tạc sự thật. Cha ông ta cũng dạy “Văn dĩ tải đạo”, văn BN cho cuộc chiến chống xâm lược, giành lại chủ quyền đất nước là “nỗi buồn”, con đi bộ đội cha dặn “đừng ngu mà chết vì lý tưởng”, ai cũng vậy thì mất nước, dân ta mãi kiếp nô lệ, vậy văn Bảo Ninh tải “đạo” gì?
Vì vậy, tôi phải “chen ngang” vào loạt bài về 30-4, phải rửa mặt cho những người anh hùng trước, khi bị Bảo Ninh bôi bẩn và được lũ thầy trò mất dạy tung hô.
Hôm nay, tôi sẽ đăng những ý kiến phê phán “Nỗi buồn chiến tranh” của các vị có địa vị và tài năng văn chương hơn đám thầy trò mất dạy rất nhiều.
***
Sau khi cuốn “Thân phận tình yêu” (tên khác của “Nỗi buồn chiến tranh”) được Hội Nhà Văn VN trao giải năm 1991, báo Công an thành phố HCM đã trao đổi với nhà văn Nguyễn Quang Sáng, Tổng thư ký Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh và là một thành viên của cuộc bỏ phiếu trao giải cho “Thân phận tình yêu” (tên khác của NBCT)
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng nói:
“…tôi xin trích một đoạn trong Dự thảo báo cáo của Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam trong Đại hội Nhà văn lần thứ V trong vấn đề này, như sau:
… cái nhìn hiện thực có nét chủ quan, không đúng hẳn với hiện thực lịch sử. Tác giả muốn đứng cao hơn cả hai phe trong cuộc chiến đó… Cách nhìn nhận lại quá khứ chiến tranh và cả cách nhìn hiện tại có những biểu hiện chủ quan thiên lệch đến nặng nề tối tăm … Có những điều khiến người đọc phân vân: Địch và ta vào cuộc chiến phải có cái khác nhau cơ bản chứ. Toàn truyện thiên về các mặt tiêu cực bi kịch. Có cái gì đó hơi quá khích, quá liều lượng… tác giả muốn tạc tượng đài cả thế hệ bạn bè mình đã hy sinh, nhưng chỉ quá một tý nữa thì tác giả sẽ phản lại đồng đội mình, tả họ như là hy sinh vô ích… việc trao giải cho Thân phận của tình yêu (Nỗi buồn chiến tranh) năm 1991 là thiếu chín chắn, nặng về khuyến khích một cây bút trẻ đã trải qua chiến đấu, mà coi nhẹ tính định hướng của giải thưởng… Sự mơ hồ và u ám trong cách nhìn của Bảo Ninh khi miêu tả cuộc kháng chiến chống Mỹ đã bị một số người thiếu thiện ý ở nước ngoài lợi dụng, nhằm xóa ranh giới giữa chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa; thêm nữa, chính tác giả cuốn sách khi trả lời nước ngoài phỏng vấn cũng bộc lộ những quan điểm sai trái. Bạn đọc trong nước phê phán cuốn sách này càng ngày càng nhiều. Đó là sự nhắc nhở chính đáng của dư luận, là bài học kinh nghiệm của chúng ta…”
(Nguồn: Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM (13-9-1995)
***
Với Nhà Văn Nguyễn Khải, tôi từng đến tận nhà ông với thư giới thiệu của Nhà thơ Anh Thơ nhờ ông thẩm định mấy truyện ngắn đầu tay của tôi. Ông bảo thích cả, riêng một truyện ông bảo: “Cả đời may ra mới viết được vài cái như cái này. Công nhận cái gì thực vẫn hay”. Lần khác đi cùng anh Hoài Anh đến nhà ông, sau khi tôi tặng tập sách thiếu nhi mới xuất bản. Khi ra về, ông nói riêng với tôi: “Tính đọc sách Đông La tặng để dỗ giấc ngủ, nào ngờ đọc đi rồi lại phải đọc lại”.
Về cuốn “Nỗi buồn chiến tranh”, Nguyễn Khải cũng trả lời phỏng vấn:
“… cuốn Nỗi buồn chiến tranh vì cách nhìn chiến tranh của tác giả còn phiến diện và cái không khí ngột ngạt, u ám bàng bạc trong nhiều chương sách… Sau khi giải thưởng được công bố, sự phản ứng của dư luận bạn đọc là tức thì, vượt khỏi cách nghĩ ban đầu của tôi. Nhiều bạn bè trong quân đội đã gặp tôi để bày tỏ sự phản đối việc trao giải của Hội Nhà văn cho Nỗi buồn chiến tranh. Các anh ấy nói với Bảo Ninh thì chẳng có gì để nói nhiều. Sự từng trải của anh ta ở chiến trường là thế, tâm sự của anh ta là thế thì cũng chỉ viết được đến thế, không thể đòi hỏi hơn. Nhưng Hội Nhà văn lại tuyên dương một cuốn sách viết về chiến tranh với một tâm trạng và cách nhìn của một người bi quan thì thật hết sức lạ lùng. Các anh ấy có quyền hỏi chúng tôi: Vậy chúng tôi là những người như thế nào? Chúng tôi muốn gì? Nghe xong mà tôi ớn lạnh cả người. Tôi chỉ còn biết tự rút ra một kết luận: phàm đã đọc và đánh giá một tác phẩm văn học không nên chỉ căn cứ vào những cảm hứng ban đầu thuần túy văn chương của mình, mà còn phải biết nghĩ đến tác động của nó về mặt xã hội và chính trị tới đông đảo bạn đọc không chỉ ở trong nước mà còn cả ở ngoài nước. Không phải mình muốn bày vẽ ra thế, mà sự đời nó buộc mình không thể không nghĩ rộng ra như thế…”
(Nguồn: Công an thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM (20-9-1995)
***
Nhà văn Vũ Tú Nam, nguyên Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV, là thành viên của Ban chung khảo trao giải thưởng cho cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Báo Công an thành phố HCM cũng đã phỏng vấn ông, ông đã đã trả lời:
“Tôi hoàn toàn nhất trí … việc tự phê bình của tập thể Ban Chấp hành Hội Nhà văn khóa IV trong Báo cáo trước Đại hội lần thứ V mà anh Nguyễn Quang Sáng đã nêu lên trên quý Báo, số 478, ra ngày 13-9-1995…
… khi bỏ phiếu … Tôi cũng đã rất phân vân về những mặt yếu kém của cuốn sách, như: Sự mơ hồ của tác giả giữa chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa, cái nhìn u ám nặng nề, chỉ thấy sự mất mát riêng tư mà không thấy chiến thắng lớn lao do đóng góp của toàn dân… sự mơ hồ và cái nhìn u ám của anh (tác giả) đã khiến cuốn sách phản ánh méo mó cuộc chiến đấu thiêng liêng của dân tộc.
…Nhưng rồi giải thưởng vẫn được thông qua… Trách nhiệm thuộc về toàn thể Ban Chấp hành, nhưng tôi là người chịu trách nhiệm trước nhất. Sự phê phán của công luận sau đó là chính đáng….
Sau khi cuốn Nỗi buồn chiến tranh ra đời, anh Bảo Ninh viết tiếp những gì, trả lời phỏng vấn báo nước ngoài, hay dở, đúng sai ra sao, cá nhân anh ấy chịu trách nhiệm…”
(Trích từ tập tài liệu “Đời sống văn nghệ thời đầu đổi mới” do Lại Nguyên Ân và Nguyễn Thị Bình cùng một số sinh viên, nghiên cứu sinh thực hiện cuối năm 2006).
***
Tôi đã viết một bài khá kỹ về cuốn “Nỗi buồn chiến tranh”, sau loạt bài về 30-4 tôi sẽ đăng lại, có đoạn chắc hay quá nên độc giả cứ trích dẫn nhưng lại lầm lẫn cho tác giả là GS Trần Thanh Đạm vì trong bài tôi có nhắc đến ông:
“GS Trần Thanh Đạm viết về cái quái gở của cuốn “Nỗi buồn chiến tranh”: “Nỗi buồn chiến tranh ở đây mang màu sắc của một sự sám hối của những người anh hùng đã lỡ gây nên một sự nghiệp anh hùng”.
Còn tôi (Đông La) thì cũng thấy cái chuyện kỳ quái, có những kẻ sau giải phóng lại đi tìm mọi cách chiêu hồi “Bên thua cuộc”, nhưng rồi tôi đã nhận ra, nếu phía thua VN mà nghèo đói như các nước Châu Phi thì chắc chắn sẽ không bao giờ có chuyện ngược đời đó. Nhưng phía thua đó lại là Pháp, là Mỹ, những nước rất giầu có, vì vậy mà đã có những kẻ cơ hội, đón gió, mà muốn vậy, chúng phải trở cờ. Chúng phải đổi giọng, đổi những thứ vô giá thiêng liêng như niềm tự hào dân tộc, sự chính nghĩa, cái thiện… để mong lấy những cái có giá cụ thể hơn, đó là tiền!”
***
Chưa hết, tôi còn thấy có một nỗi buồn nữa, đó là “nỗi buồn Bảo Ninh”! Trên Báo Công an điện tử Nhà báo Dương Đức Quảng đã viết “Thư ngỏ gửi nhà văn Bảo Ninh: Xin đừng làm tổn thương đến tâm huyết các liệt sĩ” (http://ca.cand.com.vn/vi-VN/thoisuxahoiphongsughi chep/2005/9/62803. cand? Page=1). Ông cho biết Bảo Ninh qua Mỹ, đã gặp Robert Whitehurst và đọc chiếc đĩa ghi toàn bộ cuốn nhật ký của Đặng Thùy Trâm, nhưng “Tôi cũng không hiểu vì sao khi nhà văn (Bảo Ninh) đã biết địa chỉ của gia đình (Đặng Thùy Trâm)… lại không mang kỉ vật thiêng liêng của liệt sĩ đến”. Tệ hại hơn nữa khi Bảo Ninh cho rằng Đặng Thùy Trâm viết nhật ký không phải vì một nhân cách anh hùng mà đơn giản là vì: “có thời gian”!
GSTS Nguyễn Cảnh Toàn trên facebook, với tư cách là người từng cùng nhập ngũ, cùng đơn vị với Hoàng Ấu Phương (tên thật Bảo Ninh), đã không chỉ cho biết Bảo Ninh viết “rất rất nhiều sự việc bịa đặt, sai sự thật” về đồng đội của mình, mà sau giải phóng, khi về Viện Sinh học, Viện Khoa học VN, Phương (Bảo Ninh) còn bị kỷ luật rất nặng về tội … phá hoại thí nghiệm sinh học của đồng nghiệp trong Viện… đã lấy hoá chất độc rắc vào tảo thí nghiệm thức ăn cho gà của 1 trong 2 tiến sĩ đang thí nghiệm…”.
***
Tôi đã viết nhiều về “vấn đề Bảo Ninh” nhưng cái dư luận bầy đàn tâng bốc Bảo Ninh vốn “ngu lâu”, “dốt dai”, nên nay buộc phải nhắc lại.

26-4-2025
ĐÔNG LA

Thứ Ba, 24 tháng 12, 2024

GIÂY PHÚT XE TĂNG HÚC BUNG CỔNG DINH ĐỘC LẬP VÀ CỜ GIẢI PHÓNG TUNG BAY TRÊN NÓC DINH ĐỘC LẬP

 GIÂY PHÚT XE TĂNG HÚC BUNG CỔNG DINH ĐỘC LẬP VÀ CỜ GIẢI PHÓNG TUNG BAY TRÊN NÓC DINH ĐỘC LẬP




Theo tôi, trong Ngày Lịch sử, Ngày Toàn Thắng 30-4-1975 thì giây phút xe tăng húc bung cửa Dinh Độc lập, giây phút treo cờ trên nóc Dinh ĐL, giây phút bắt Nội các VNCH của TT Dương Văn Minh là những giây phút quan trọng nhất. Nhân kỷ niệm 80 năm Ngày Thành lập QĐNDVN, tôi đăng lại tiếp 2 kỳ viết về những khoảnh khắc trọng đại trên.
24-12-2024
ĐÔNG LA
Đương kim Tổng thống VNCH thời điểm sáng 30-4-1975 là Dương Văn Minh, người mới nhận chức Tổng thống từ Trần Văn Hương vào ngày 28 tháng 4 năm 1975. Dương Văn Minh chính là người mà năm 1963 đã lãnh đạo cuộc đảo chính bắn chết anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm, Cố Vấn Ngô Đình Nhu và xử tử hình “Bạo chúa Miền Trung” Ngô Đình Cẩn. Khi Quân Giải phóng đã tấn công đến Cầu Sài Gòn, Dương Văn Minh buộc phải đọc Tuyên bố “yêu cầu hai bên cùng ngưng nổ súng”. Băng ghi âm được phát trên đài Phát thanh Sài Gòn đúng 9h30 phút.
Dù Dương Văn Minh đã đọc tuyên bố yêu cầu ngưng nổ súng, nhưng trên đường tiến công của Binh đoàn Thọc sâu của quân ta vẫn bị quân địch chống trả tới cùng.
Sau khi phá tan ổ kháng cự ở Cầu Sài Gòn, lực lượng đi đầu Binh đoàn Thọc sâu của Quân đoàn 2 vượt qua Cầu Sài Gòn. Phó Tư lệnh Hoàng Đan chỉ thị cho Lữ đoàn xe tăng 203 cho Tiểu đoàn 1 đi đầu, Tiểu đoàn 2 bám theo; chỉ thị cho Trung đoàn đặc công 116; Trung đoàn bộ binh 66 bám sát đội hình xe tăng tiến về hướng Dinh Độc Lập; Tiểu đoàn 8 của Trung đoàn 66 có nhiệm vụ đánh chiếm Đài phát thanh Sài Gòn.
Đến gần 10 giờ, mũi tiến công đến ngã tư Hàng Xanh, Ngô Sĩ Nguyên, Pháo thủ số 1 trên xe tăng 390, thấy hai chiếc xe M113 và một đoàn xe ô tô, cũng là lúc anh nghe thấy lệnh của Trưởng xe Vũ Đăng Toàn:
-Mục tiêu!
Ngô Sĩ Nguyên bóp ngay cò súng, các quả đạn bay trúng mục tiêu làm hai chiếc xe M113 toác ra và cháy bùng lên.
Đoàn quân được lệnh tiếp tục rẽ trái tiến lên. Đi đầu là xe tăng 387 của trưởng xe Lê Tiến Hùng, khi xe 390 dừng lại bắn xe địch, xe 843 của đại đội trưởng Bùi Quang Thận đã vượt lên đi thứ hai, xe 390 của Trưởng xe Chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn đi thứ ba. Tiếp theo sau là chiếc xe Jeep chở Đại úy Phạm Xuân Thệ, Trung đoàn phó Trung đoàn bộ binh 66.
Đến Cầu Thị Nghè, một ổ kháng cự của địch có cả xe tăng M41 và xe thiết giáp M113 đã bất ngờ bắn vào đội hình quân ta. Xe 387 dẫn đầu bị trúng đạn. Trưởng xe Lê Tiến Hùng bị thương và một chiến sĩ công binh ngồi trên xe đã hy sinh. Xe 843 của Bùi Quang Thận dừng lại lập tức bắn cháy các xe của địch, dập tắt ổ kháng cự cuối cùng. Xe tăng 390 lại lao lên dẫn đầu. Ngoài Trưởng xe Vũ Đăng Toàn, trên xe 390 còn có Ngô Sĩ Nguyên, Pháo thủ số 1; Lê Văn Phượng, Đại đội phó kỹ thuật kiêm pháo thủ số 2; và Lái xe Nguyễn Văn Tập. Xe tăng 843 đi sau, trên xe 843, ngoài Trưởng xe Bùi Quang Thận có Thái Bá Minh, Pháo thủ số 1; Nguyễn Văn Kỷ, Pháo thủ số 2; và Lái xe Lữ Văn Hỏa.
Các chiến sĩ đều được hướng dẫn trước, qua cầu Thị Nghè, đi qua 7 ngã tư, rẽ trái là sẽ tới Dinh Độc lập. Nhưng lần đầu đi giữa phố phường của một thành phố lớn, san sát nhà cửa, các chiến sĩ bị ngợp, không chỉ có các ngã tư mà còn có các ngã ba, khiến các chiến sĩ không thể nhận diện chính xác thứ tự các ngã tư. Xe 390 đã đi quá đường, vượt qua ngã tư thứ 7 là Hồng Thập Tự-Công Lý (nay là Nguyễn Thị Minh Khai-Nam Kỳ Khởi Nghĩa). Đi khoảng hơn chục mét đến cổng một trường học thấy bảng hiệu ghi là trường Lê Quý Đôn, nhận ra đã lạc đường, Lái xe Nguyễn Văn Tập nói với Trưởng xe Vũ Đăng Toàn:
-Xe mình có khi bị lạc rồi!
Vừa lúc đó có một thanh niên đi ngược tới, Nguyễn Văn Tập ngừng xe, xuống giữ ngay anh chàng lại, nói với trưởng xe:
-Anh Toàn ơi, bảo nó dẫn mình tới Dinh Độc lập.
Chàng thanh niên sợ hãi:
-Các ông cho con về cất đồ.
Chờ một chút thấy chàng trai rẽ vào đường gần đó mất hút luôn, Nguyễn Văn Tập nhớ ra sau lưng mình chính là ngã tư thứ 7, nên anh cho xe lùi ngay lại, “đánh vào tay trái”, rẽ về hướng Dinh Độc lập.
***
Trong khoảng thời gian đó, ở trong xe 843, Bùi Quang Thận cũng không nhớ chính xác thứ tự các ngã tư, đến một ngã tư anh lệnh cho xe rẽ trái, chạy hết một dãy phố đến một ngã ba đầu một con đường lớn, nơi có chiếc cổng sắt lớn dẫn vào một công viên ghi “SỞ THÚ SÀI GÒN”. (Bây giờ là ngã ba Nguyễn Bỉnh Khiêm-Lê Duẩn). Anh ra lệnh dừng xe. Đang bối rối, rất may, từ phía trước, anh thấy một phụ nữ đi xe máy lao tới. Anh ra hiệu cho xe dừng lại, nhưng chiếc xe vẫn lao đi như không biết đến cử chỉ của anh. Anh lập tức bắn ba phát chỉ thiên. Người phụ nữ sợ quá phanh gấp chiếc xe máy chững lại. Trước mắt, anh Thận thấy một phụ nữ khoảng ngoài ba mươi mặt mày tái mét. Chắc chị ta đã kinh hồn bạt vía bởi luôn bị tuyên truyền, khi Việt Cộng chiếm thành phố sẽ có một “cuộc thảm sát đẫm máu”, “sẽ rút móng tay của từng cô gái một vì sơn móng tay”, sẽ bắt và giết hết những đứa con lai của những người phụ nữ quan hệ với lính Mỹ.
Với giọng từ tốn, anh Thận đã trấn an được người phụ nữ, rồi đề nghị:
- Chị chỉ hộ tôi đường vào Dinh Độc Lập.
- Tôi chỉ xong ông cho tôi đi chứ - người phụ nữ vừa nói vừa run.
- Vâng, xong việc, chị hoàn toàn tự do- Anh quả quyết.
- Ông đang đứng trước hướng Dinh Độc Lập đó – chị nói mà không dám chỉ tay - nó phía sau tàn cây như rừng phía cuối đường nầy đó.
Bùi Quang Thận nhìn thẳng, từ đầu đường Thống Nhất, anh thấy Dinh Độc Lập không đồ sộ như suy nghĩ của anh, nhưng nó là khu nhà bề thế như nằm sau rừng cây. Anh lập tức lên xe, lệnh tiến thẳng đến cổng Dinh Độc lập. Qua ngã tư cuối cùng, Bùi Quang Thận thấy Dinh Độc lập sừng sững trước mặt. Xe 843 rú ga vượt qua đoạn đường cuối, qua luôn đường Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) chạy ngang qua ngay trước cổng dinh. Không biết quân địch trong Dinh thế nào, Bùi Quang Thận lệnh cho Pháo thủ Thái Bá Minh bắn pháo lên trời để thị uy, nhưng Minh bóp cò 2 lần đạn vẫn không nổ. Minh hét bảo Pháo thủ 2 Nguyễn Văn Kỷ thay đạn, và đó cũng là lúc Lái xe Lữ Văn Hỏa đã lái xe đến gần cổng Dinh có những hàng rào kẽm gai và chướng ngại vật. Bùi Quang Thận hô:
-Cứ lao thẳng vào!
Vì xe đang chạy nhanh, lại tránh chướng ngại vật, xe lạng sang phía trái về phía cổng phụ, Lữ Văn Hỏa vội kéo cần lái phải, chỉnh thẳng hướng, đâm xe thẳng vào cổng phụ. Phải đâm ba lần cánh cổng chính Dinh Độc lập mới bật ra, lần thứ 3, bánh xe đâm vào trụ cổng trái rất vững, làm xe chết máy, dừng lại.
***
Lúc này, xe 390 từ hướng Đường Công Lý cũng vừa chạy đến. Lái xe Nguyễn Văn Tập thấy xe 843 dừng lại trước cổng phụ, nói với Trưởng xe Vũ Đăng Toàn:
-Bây giờ thế nào?
Vũ Đăng Toàn quát, giọng hơi gắt:
-Tông vào đi chứ còn thế nào nữa!
Tập lập tức nghiến răng kéo cần lái phải, đánh vuông góc, chỉnh đầu xe đúng giữa, húc tiếp vào hai cánh cổng chính đã bung ra, chạy vào sân Dinh, thực hiện một “đường cua” đẹp nhất trong cuộc đời lái xe tăng của anh. Pháo thủ Lê Văn Phượng, lúc xe ở ngay trước cổng, đứng trên tháp pháo, anh nhìn thấy thấp thoáng một nhà báo cầm máy ảnh, chạy lom khom trong sân Dinh. Đó chính là nữ nhà báo người Pháp Francoise Demulder, người đã chụp được khoảnh khắc lịch sử, chiếc xe tăng 843 sau khi húc bung cổng chính, chết máy nằm ở cổng phụ bên trái; xe tăng 390 húc tiếp cổng chính, đúng khoảnh khắc đang vượt qua cổng vào sân Dinh Độc lập. Nguyễn Văn Tập tiếp tục rú ga cho xe chạy nhanh vòng qua phía phải bồn có đài phun nước đến cửa dinh, rồi dừng lại. Pháo thủ Ngô Sĩ Nguyên cầm AK nhảy ngay xuống xe thì thấy một người chạy lại nói:
-Vừa rồi tôi không cắt cầu dao điện bánh xe thì xe của anh chắc cháy rồi!
Nguyên trả lời:
-Cảm ơn nhé!
Người đàn ông đó chính là Lê Văn Hinh, một tình báo viên với mật danh H5. Trong vai “thiếu úy cảnh sát dã chiến”, từ ngày 18/4, anh đã được cử vào làm bảo vệ khu vực Dinh Độc lập. Sáng ngày 30/4/1975, anh biết đoàn xe tăng của quân giải phóng sẽ không thể húc đổ cổng được vì tất cả hàng rào đã bị cài điện. Khoảng 10 giờ 30 phút, ông đã tìm gặp ngay viên thiếu tá cảnh sát, người đang giữ chìa khóa hệ thống điện trong Dinh Độc lập, khôn khéo thuyết phục “người anh em” ngắt toàn bộ cầu dao trung tâm điều khiển điện của hàng rào. Vì vậy, đoàn xe tăng của quân giải phóng đã húc đổ cổng chính và cổng phụ, an toàn tiến vào sân dinh.
Cũng vào lúc xe 390 vừa ngừng, Trưởng xe Vũ Đăng Toàn định cầm cờ nhảy xuống xe, lên cắm cờ, Lê Văn Phượng vỗ vai Toàn:
-Thôi anh, đã có đồng chí Thận đang cầm cờ chạy theo xe mình vào kia rồi!
Toàn nghe Phượng, ở lại xe, lệnh cho anh em sẵn sàng chi viện cho anh Bùi Quang Thận cầm cờ tiến vào Dinh.
***
Còn Bùi Quang Thận, trước đó ít phút, khi xe 843 chết máy, kẹt lại cổng phụ của Dinh, anh quyết định thoát ly khỏi xe, chạy bộ vào cắm cờ. Anh giao nhiệm vụ cho các đồng đội chi viện cho mình và dặn: “Các cậu ở lại, mình vào Dinh. Nếu không thấy mình quay ra, cũng không thấy lá cờ này nhô lên, thì tức là mình đã chết ở trong Dinh rồi!”



Bùi Quang Thận vượt qua các bậc tam cấp, lao vào trong Dinh, từ ngoài trời nắng tháng tư như đổ lửa, anh thấy mát rượi. Chân anh mang dép cao su, mặc áo ngắn tay, đầu đội mũ xe tăng, trên xe nhiều vũ khí nhưng anh vội, không mang một thứ gì, chỉ rút cái ăng-ten có cờ giải phóng là chạy vào. Theo cầu thang ở chính giữa sảnh, anh leo đến tầng 2, thấy người lố nhố. Bất chợt anh cũng thấy sợ khi một mình, tay không vũ khí, chạy vào hang ổ quân địch. Anh nghĩ giá có vũ khí thì cũng yên tâm hơn. Rồi anh nghĩ bụng “Bây giờ tốt nhất là bắt một người dẫn mình đi cắm cờ”. Với cách nghĩ của một chàng trai nông dân, học mới lớp 7, “ít chữ, ngắn học”, như sau này chính anh kể, anh đã húc đầu vào tấm kính ngăn phòng, đánh động, để Dương Văn Minh đi ra. Cái húc khá mạnh, khiến anh bị choáng, ngã ngồi xuống, một lát anh tỉnh ngay lại, phải băng đầu. Anh thấy đi ra một người, chính là Nguyễn Văn Diệp, Tổng trưởng tài chính, được lệnh ra đón quân giải phóng. Anh nghĩ bụng, bây giờ phải túm lấy tay anh ta ngay, đòi gặp Tổng thống DVM, bắt được DVM là mình sẽ an toàn. Anh nắm chắc lấy tay ông Diệp, quát to:
- Cho gặp Dương Văn Minh ngay.
- Vâng, vâng... để tôi vào báo tổng thống - giọng ông Diệp run run.
Phía Nội các Dương Văn Minh, khi xe tăng vào Dinh Độc Lập, đang ở trong phòng. Ông Lý Quí Chung, Tổng trưởng thông tin, thấy tiếng chân người vang dội trong sảnh, và nghe rõ tiếng hô to: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Người bước ra khỏi phòng trước tiên là Tổng thống Dương Văn Minh. Lý Quí Chung bước theo. Vừa bước ra hành lang ông thấy ở đầu kia có người bộ đội cầm cờ và hô to: “Mọi người giơ tay lên!”. Ông Minh, ông Mẫu và mọi người nhất loạt giơ tay. Ra đến đại sảnh, Lý Quí Chung thấy một người bộ đội nói với tổng thống Minh: “Anh chỉ cho tôi đường đi lên để hạ cờ ngụy quyền”. Ông Minh quay sang nói: “Chung, toa hướng dẫn cho người này lên sân thượng”. Sau này ông Chung mới biết đó là anh Bùi Quang Thận. Ông đưa anh Thận đến thang máy để lên sân thượng, những người còn lại theo ông Dương Văn Minh trở lại phòng. Riêng ông Nguyễn Hữu Hạnh ở lại để đón quân giải phóng nơi đầu cầu thang xuống tầng 1. Người ông gặp đầu tiên là Đại uý Phạm Xuân Thệ cùng đồng đội ở Trung đoàn 66, súng lăm lăm trong tay đang lao lên (chi tiết sẽ viết số sau).
Còn Bùi Quang Thận cầm cờ đi theo Lý Quí Chung trong một hành lang dài, rồi rẽ phải đến một thang máy nhỏ. Ông Chung bấm nút mở cửa, mời Bùi Quang Thận bước vào. Anh lần đầu thấy thang máy nên ngần ngừ bước vào, rồi lại quay ra ngay lập tức, nghi ngờ, “Hắn định giở cái trò khỉ gì thế này? Mình đi cắm cờ, nó lại giam mình vào cái hộp bằng inox này sao đi cắm cờ được?” Lý Quý Chung giải thích, "Dạ thưa, ông vào đi. Đây là cái thang máy. Tôi đưa ông đi cắm cờ mà". Anh thấy gã có vẻ thành thật nhưng vẫn cảnh giác, vì không có súng, anh bắt gã vào trước, úp mặt vào tường. Lý Quí Chung bấm nút, thang máy đưa Bùi Quang Thận và ông ta lên đến tầng thượng, ra đến cột cờ, anh thấy lá cờ địch quá to, còn lá cờ của mình chỉ là cờ hiệu trên nóc xe tăng nên quá nhỏ giữa cái không gian lồng lộng của nóc Dinh. Vì lá cờ địch được chằng buộc rất kỹ vào dây kéo nên Bùi Quang Thận phải dùng răng cắn đứt mép rồi xé ra. Lúc này, Trần Đức Tình, chiến sĩ thuộc Đại đội 6, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 9, Sư đoàn 304, QĐ2, cũng đã có mặt trên nóc dinh. Thấy Bùi Quang Thận cứ dứt dứt không đứt, Tình nói:
-Thôi tội gì, tôi có dao đây!
Nói xong, anh cầm dao cắt rời mối nối góc cờ địch với dây kéo.
Gỡ xong cờ địch, Bùi Quang Thận thay lá cờ giải phóng lỗ chỗ vết đạn của mình vào, rồi kéo lên. Bất chợt, anh lại hạ cờ xuống, đưa tay xem đồng hồ, lấy bút thận trọng ghi: 11 giờ 30 ngày 30-4 và ký tên Thận lên góc lá cờ, xong, anh lại kéo cờ lên trở lại.
Cùng lúc Bùi Quang Thận lên treo cờ trên nóc dinh, dưới sân, Đào Ngọc Vân, lái xe jeep của Phạm Xuân Thệ, cũng lấy lá cờ của người đàn ông đi theo chỉ đường, chạy lên ban công phất cờ. Tiếp đó, Đại trưởng Phạm Duy Đô thuộc Trung đoàn 116 đặc công, cũng ngồi trên xe 843 với Bùi Quang Thận, khi xe 843 tiến vào dinh, Phạm Duy Đô đã xuống xe, cũng lao lên ban công, rút lá cờ trong túi ra phất báo hiệu cho các xe tăng tiến vào. Trên ban công, mọi người thường thấy hai người phất cờ là vì như vậy.
***



Lúc này, dưới sân, nhiều xe tăng đã vào sân, dàn đội hình. Các chiến sĩ bộ binh cũng đã vào nhiều, họ gom toàn bộ số lính ngụy đưa vào góc sân dinh và canh giữ những vị trí cần thiết. Còn ngoài đường Thống Nhất, xe tăng, xe bọc thép, xe ô tô chở bộ binh vẫn nối đuôi nhau tiến về hướng dinh. Tiếng súng bắn chỉ thiên mừng chiến thắng của quân giải phóng nổ vang trời. Nhưng vẫn còn lẻ tẻ đâu đó những tiếng súng kháng cự hận thù lầm lạc của những người lính thuộc một chính quyền tay sai bại trận. Từ phía trụ sở Bộ Ngoại giao (nay là Sở Ngoại vụ TP.HCM), những tay súng biệt kích dù 81 đã bắn trúng Tô Văn Thành, chiến sĩ tiểu đoàn 7 bộ binh đang ngồi trên thành xe tăng. Đó là chiến sĩ giải phóng cuối cùng hi sinh ngay trước cổng Dinh Độc Lập.
Còn trong dinh, Phạm Xuân Thệ đang buộc Dương Văn Minh sang Đài Phát thanh SG đọc lời Tuyên bố đầu hàng!

21-6-2020
ĐÔNG LA

ĐÔI NÉT VỀ NHỮNG ĐIỀU KỲ DIỆU LÀM NÊN CHIẾN THẮNG VĨ ĐẠI, “TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG”

 ĐÔI NÉT VỀ NHỮNG ĐIỀU KỲ DIỆU LÀM NÊN CHIẾN THẮNG VĨ ĐẠI, “TRẬN ĐIỆN BIÊN PHỦ TRÊN KHÔNG”

Như đã hứa, hôm nay tôi sẽ đăng lại tiếp bài này.
23-12-2024
ĐÔNG LA

Vào những ngày này (19-12-2022), cách nay chẵn nửa thế kỷ, tôi vừa học xong cấp III, đã khám nghĩa vụ quân sự, chuẩn bị lên đường nhập ngũ.



Thời điểm này cũng chính là thời điểm mà Mỹ thực hiện Chiến dịch Linebacker II dùng B-52 ném bom “trải thảm” xuống Thủ đô Hà Nội và các thành phố khác ở Miền Bắc liên tục trong 12 ngày đêm, một cuộc ném bom dữ dội nhất trong toàn bộ lịch sử các cuộc chiến tranh.



Ngày ngày, đứng ở bụi tre rìa làng, tôi thấy cả khoảng trời trước mặt luôn dầy đặc một lũ quạ sắt, có chiếc mũi đen sì quặp xuống như mỏ diều hâu… Cả không gian thanh bình luôn bị xé rách toạc bởi những tiếng gầm rú man rợ. Đêm đêm, phía thủ đô Hà Nội, trong tiếng bom gầm, những quầng lửa cao ngút trời, mặt đất rùng rùng chuyển động.
Trong toàn cuộc Kháng chiến chống Mỹ, đỉnh cao của sự đối đầu Việt - Mỹ chính là Chiến dịch Linebacker II đó, và chiến thắng đã thuộc về Việt Nam. Dần dần, những bí mật quân sự được công bố đã khiến cho tất cả người VN ai có lương tri cũng đều phải dâng lên niềm xúc động và tự hào. Chúng ta đã thắng Mỹ không chỉ bằng ý chí, bằng máu mà còn bằng cả trí thông minh tuyệt vời nữa. Vì vậy, hôm nay, càng căm giận bọn bất lương vì những mục đích khác nhau, chúng lại muốn nhuộm đen máu những người anh hùng, muốn nhuộm đen những trang sử vàng chói lọi của dân tộc; chúng chính là bọn cơ hội, đón gió, trở cờ, phản trắc, đã tìm mọi cách “chiêu hồi bên thua cuộc”. Thật kỳ lạ, sao có thời cha, anh chúng ta lại giỏi giang, đức độ và anh hùng đến vậy, nhưng tại sao chính họ lại sinh ra lớp con cháu hôm nay lắm kẻ bất tài, thất đức, chỉ giỏi luồn lách để có quyền chức, để rồi vô trách nhiệm, để rồi ăn cắp cả tiền bạc lẫn danh vọng, đẩy thể chế đến “nguy cơ tồn vong”, đưa đất nước đến chỗ tai hoạ. Trong đám nhà văn, Dương Thu Hương từng bịa đặt trong ngày giải phóng 30-4, ngồi ở vệ đường SG, khóc như cha chết vì nhận ra phe chiến thắng của mình là “một đội quân man rợ”; Bảo Ninh viết cuốn Nỗi Buồn Chiến Tranh, cho cuộc kháng chiến vĩ đại là “nỗi buồn”; đặc biệt Nguyễn Huy Thiệp, bên cạnh tác phẩm bôi đen cả anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, lần sang Thụy Điển, đã thật láo xược khi trả lời phóng viên nước ngoài: “Thế hệ tôi nôn mửa vào cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc”. Vậy mà mới đây, với sự đề cử của đám lãnh đạo Hội Nhà Văn VN như Nguyễn Quang Thiều, người ca ngợi “Nỗi buồn chiến tranh” là “chạm vào mẫu số chung nhân loại”, ca ngợi Nguyễn Huy Thiệp là “Nhà Văn tìm Đạo cho dân”, rồi được bọn bất tài thất đức, đứng đầu là Trần Nho Thìn, xét duyệt theo cái tiêu chí giá trị lộn ngược, Nguyễn Huy Thiệp đã được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật!
Hôm nay, nhân những ngày kỷ niệm trận “Điện Biên Phủ trên không” tôi muốn nhắc lại đôi nét về những điều kỳ diệu đã làm nên chiến công vĩ đại, đồng thời chúng cũng như những cái tát vả vào mặt lũ bất tài, thất đức, lưu manh!
***
Trước hết, chiến thắng trên bầu trời Hà Nội năm nào chính là kết quả của tầm nhìn xa trông rộng của Bác Hồ. 1967, Bác đã nói với Tướng Phùng Thế Tài, Phó Tổng tham mưu trưởng: “Sớm muộn gì, Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra ném bom Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Chú phải nhớ là trước khi thua ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã hủy diệt Thủ đô Bình Nhưỡng. Chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua trên bầu trời Hà Nội”. Trước đó, 1962, Bác cũng đã nói với ông Phùng Thế Tài: “B52 bay cao hơn 10 km mà trong tay chú chỉ có cao xạ thôi” và nói với ông Đặng Tính, Chính ủy Quân chủng Phòng không - Không quân nghiên cứu cách đánh B52. Ngày 7-2-1965, nhân dịp ông Kô-xư-ghin thăm nước ta, Bác đã yêu cầu Liên Xô giúp ta xây dựng lực lượng tên lửa phòng không. Cuối năm 1966, Mỹ bắt đầu dùng B52 đánh phá ác liệt vào Vĩnh Linh, Trung đoàn tên lửa 238 đã vào Quảng Bình để nghiên cứu cách đánh máy bay B52, tuân theo lời dạy của Bác: “Có vào hang cọp mới bắt được cọp”.
Một tờ báo Mỹ đã gọi Chiến dịch Linebacker II là cuộc "Chiến tranh điện tử” mà phần thắng đã thuộc về VN. Có những khái niệm lạ lùng lần đầu ta được nghe như “trinh sát nhiễu”, “vạch nhiễu”, “phương pháp bắn 3 điểm”, “bắn đón nửa góc”, v.v… Trung tướng Phan Thu, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên chỉ huy Tiểu đoàn Trinh sát nhiễu, kể lại: “Trong suốt thời gian hoạt động trinh sát, chúng tôi không thu được nhiễu 3cm của địch. Như vậy, B-52 chưa gây nhiễu dải sóng 3cm đối với các loại radar phòng không". Một công trình nghiên cứu cải tiến kỹ thuật: ghép phần tử mục tiêu của radar K8-60 làm việc ở dải sóng 3cm với đài điều khiển SAM-2. Đại tá Nguyễn Ngọc Lạc, hồi đó là Thượng úy Kỹ sư của Cục Quân khí, một chứng nhân, từng trực tiếp sửa chữa và đề xuất thử nghiệm và cho kết quả ra-đa K-860 với băng sóng 3cm đã xác định mục tiêu tốt. Tiếc là ta chưa có điều kiện để trang bị rộng mà chỉ hạn chế ở vài đơn vị, nhưng đã góp phần quan trọng trong việc bắn rơi B52 trên bầu trời Hà Nội trong 12 ngày đêm cuối năm 1972.
Điều kỳ diệu tiếp là việc bộ đội phòng không của ta đã hóa giải được tên lửa “không đối đất” Shrike của Mỹ. Tên lửa này có thể tìm và “bắt” được mục tiêu theo sóng ra-đa, chuyên dùng để phá hủy các hệ thống phòng không đối phương. Tại Trung Đông, hàng chục hệ thống tên lửa phòng không của Khối Ả Rập từng bị loại tên lửa này phá hủy. Bộ đội ta đã vô hiệu hóa bằng cách phát sóng tức thì, tắt máy đột ngột và quay ngay đài ăng-ten đi hướng khác, tên lửa Shrike đã “bị điều khiển” chệch khỏi mục tiêu!
Tiếp nữa, có thời điểm, bộ đội tên lửa phóng tên lửa nhưng tên lửa không bay thẳng tới máy bay mà quay đầu rơi xuống đất, có khi thành bom rơi xuống nhà dân. Chính bộ đội ta đã phân tích và biết tên lửa rơi là do phía Mỹ đã biết tần số của sóng điện từ dẫn tên lửa tới mục tiêu, nên họ đã chế thiết bị gây nhiễu. Vì vậy phía ta buộc phải thay đổi toàn bộ các linh kiện để thay đổi tần số dẫn bắn đó. Nhưng đây là vấn đề bí mật quốc gia, mọi thay đổi phải được phép của lãnh đạo Liên Xô. Theo Đại tá Nguyễn Thuỵ Anh, trong phim tài liệu “Vạch nhiễu tìm thù”: “Những người đại diện tập đoàn tên lửa không đồng ý cho mở cái khối điều khiển vô tuyến… Lúc bấy giờ đ/c Đại sứ LX ở VN đã rất quyết đoán, đ/c nói: “Có gì là bí mật nữa vì người Mỹ đã phát hiện ra rồi, đã gây nhiễu đánh chúng ta thì bây giờ chúng ta phải mở ra và tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về điều này”. Quyết định quan trọng, thay đổi trị số và công suất của tần số dẫn bắn này, đã giúp bộ đội tên lửa ta bắn B52 “rụng như sung” trong vụ tập kích chiến lược vào Hà Nội. Có điều bất ngờ và thú vị là vị đại sứ đó chính là Ilya Sherbakov, với quyết định đó ông đúng là một đại ân nhân của dân VN, nhưng có những thông tin không chính thống và đủ thứ suy diễn, ông là trùm tình báo của LX mà vụ án gián điệp chống Đảng ở ta có liên quan đến ông. Ngay vị đại tướng lừng danh Võ Nguyên Giáp cũng bị tai tiếng không ít. Nhưng tôi thấy hơi buồn cười là, trước nay người ta chỉ thấy làm gián điệp cho quân địch chứ làm gì có chuyện làm gián điệp cho người “anh em”? làm gián điệp cho đại ân nhân cứu giúp chúng ta?



Cuối cùng để giành chiến thắng không thể không nhắc đến chiến công của các cán bộ tình báo quân sự đã phải ngày đêm theo dõi mọi động thái của địch. Đại tá Trần Văn Tụng, từng thuộc Trung đoàn Trinh sát Kỹ thuật, Tổng cục 2, Bộ Quốc phòng kể lại, vào những năm 60, ông là 1 trong 10 sinh viên của trường ngoại giao được tuyển vào Cục 2. Ông cho biết lúc đầu chúng ta chưa biết cách làm thế nào để có tin cụ thể. Sau những mày mò, phán đoán từ các thông tin trinh sát có được, đơn vị của ông dần dần đã hình thành được nhiều bộ giải mã tin, từ đó dự đoán chính xác thời gian, địa điểm, số lượng máy bay Mỹ sẽ tham chiến. Chính vì thế, chiều 18-12-1972, Đại tá Phan Mạc Lâm, người được mệnh danh là đã “lập hồ sơ B-52”, khi Tướng Phùng Thế Tài hỏi:
- Này cậu, B-52 đến đâu rồi?
Ông mới có thể khẳng định:
- Giữa đường rồi, thưa Thủ trưởng - có cả hướng Gu-am và Thái Lan.
Như vậy chúng ta hoàn toàn sẵn sàng chủ động đón đánh địch, đã sơ tán hàng chục vạn dân tới nơi an toàn trước trận đánh. Và chỉ có như thế chúng ta mới làm nên một trận “Điện Biên Phủ trên không”, giành thắng lợi hoàn toàn.
***
Với tinh thần của Bác: “…chúng tôi phải được yên ổn. Chúng tôi không muốn trở thành người chiến thắng. Chúng tôi chỉ muốn Mỹ cút đi! Gút-bai!” Và theo lời dậy của Người: “Chúng ta căm thù Đế quốc Mỹ xâm lược nhưng không được căm thù nhân dân Mỹ”, sau ngày toàn thắng, chúng ta chủ trương "khép lại quá khứ, hướng đến tương lai", và đã có được một thành tựu ngoại giao quan trọng, mở ra một thời kỳ mới dựng xây đất nước. Nước ta trở thành nơi đúng như một câu thơ của tôi trong bài TỔ QUỐC-NỬA BÀN CHÂN DÍNH BÙN VÀ MÁU:
Một đất nước đến những người từng là kẻ thù cũng đem lòng yêu mến
Ngày 15 tháng 7 năm 1995, TT Clinton tuyên bố thiết lập bang giao đầy đủ với Việt Nam. Năm 2000, ông cùng với vợ con thăm Việt Nam. Trong bài Binh-thuong-hoa-quan-he-Viet-My, ông nói: “Bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ là thời khắc tuyệt vời trong nhiệm kỳ của tôi”; “Việt Nam là đất nước có vị trí đặc biệt trong trái tim tôi”.



Ngày 6-12-2006, ông đã nói với Chủ tịch Nguyễn Minh Triết: “Sáu mươi năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng thống Roosevelt đã muốn hai nước Việt - Mỹ thật sự là bạn. Quá trình này đã có những bước gập ghềnh. Tuy nhiên, tôi vô cùng hạnh phúc chứng kiến quan hệ tốt đẹp giữa hai nước mà đáng lẽ phải có từ cách đây 60 năm”.
TT Bush, trong diễn văn tại nhà thờ Greater Exodus Baptist ở Philadelphia (23/06/04), từ bạn “friend” đã được ông nhắc lại nhiều lần khi nói về quan hệ với Việt Nam. Sau chuyến thăm Việt Nam một cách chính thức trong "giai điệu dịu dàng" của người tiền nhiệm Bill Clinton, đã tạo nền tảng để ông Bush có những quyết sách mạnh mẽ hơn trong quan hệ giữa hai nước, ông đã nói về VN: "You’ve got a friend in America". Năm 2006, ông và phu nhân đã sang thăm chính thức VN và dự Hội nghị APEC lần 14. Trong buổi tiếp của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, ông đã cảm ơn về sự đón tiếp trọng thị và nói: “Tôi đã đọc rất nhiều tài liệu về VN và cảm nhận được sự phát triển của VN giống như một con hổ trẻ. Tôi sẽ cố gắng hết sức mình để củng cố mối quan hệ giữa hai nước”. Sáng 19/11, ông cùng phu nhân tới cầu nguyện tại nhà thờ Cửa Bắc, HN.



***
Về phía VNCH, Tướng Nguyễn Cao Kỳ từng thề tử thủ chống quân Cộng sản tới cùng, bảo vệ “chính nghĩa quốc gia”, chính vậy ta cần ghi nhận điều tốt đẹp khi ông đã vượt qua được mặc cảm của một kẻ bại trận, trốn chạy, đã thừa nhận sự thật lịch sử, mình chỉ thuộc về một đội quân tay sai cho “kép nhất” Mỹ, trở thành một điển hình của sự hòa hợp dân tộc. Tại khách sạn Sheraton TP Hồ Chí Minh, 15/1/2004, ông nói: "…sau 30 năm khi đất nước đã thống nhất và đây là lúc cần sự tập hợp của tất cả người VN trong cũng như ngoài nước để phục hưng đất nước, để VN trở thành một con rồng châu Á”; ông cũng từng nói: " Những sự mất mát và đau khổ trong cuộc chiến cũng như sau cuộc chiến thì chồng chất nhiều lắm, nhưng cứ quay lại dĩ vãng và uất hận thì chỉ là chuyện của cá nhân mỗi người”. Một người khác, GS Vật lý Trần Chung Ngọc, một bạn đồng khóa tại trường sĩ quan với Tướng Nguyễn Cao Kỳ, trong bài NGÀY 30/4/1975, ông viết: “Ngày 30/4/1975 không chỉ có nghĩa là ngày đất nước thống nhất, chủ quyền trở lại tay người Việt Nam, mà còn là ngày người dân Việt Nam, trừ những kẻ có tâm cảnh phi dân tộc hay tiếp tục nuôi dưỡng thù hận, bất kể thuộc chính kiến hay phe phái nào, đều có thể hãnh diện ngẩng mặt nhìn thẳng vào mắt kẻ đối thoại, bất kể là họ thuộc lớp người nào, ở địa vị nào, thuộc quốc gia nào. Tôi ở phe thua trận, nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ, cũng như ngày 30/4/1975, đã mang đến cho tôi một niềm hãnh diện được làm một người Việt Nam”.
***
Sự thật Lịch sử là vậy, không chỉ người dân VN mà được cả loài người có lương tri tiến bộ trên toàn thế giới công nhận. Vậy mà thật kỳ quái lại có những người thuộc tầng lớp từ “nhân sĩ trí thức”, nhà văn, nhà báo… BÊN THẮNG CUỘC, vì những tham vọng và ảo tưởng khác nhau, đã tìm mọi cách chiêu hồi BÊN THUA CUỘC. Họ nhân danh đấu tranh vì dân chủ tiến bộ đã chống lại Nhà nước Việt Nam, đã không chỉ muốn xóa trắng mà còn lộn ngược lịch sử, một hành động phản đạo lý, phản nhân văn, và mất nhân tính. Những muốn lịch sử nước ta lại bước lại những bước đi ngập bùn lầy và máu.
TP Hồ Chí Minh
19-12-2022
ĐÔNG LA

Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2024

ĐIỆN BIÊN PHỦ - “NÊN THIÊN SỬ VÀNG”

 ĐIỆN BIÊN PHỦ - “NÊN THIÊN SỬ VÀNG”

Mở đầu bài thơ “Tuổi thơ” tôi đã viết:
Tôi sinh ra khi đất trời vừa tạnh chiến tranh
Chiến tranh ở đây chính là Cuộc Kháng chiến Chống Pháp của quân dân ta. Sau Chiến thắng ĐBP mấy tháng, cha tôi là một Chiến sĩ ĐB đã về phép, gặp mẹ tôi, năm sau tôi ra đời. Khi tôi học lớp 5, thầy chủ nhiệm lớp là Hoàng Văn Kẻ đã đến tận nhà tôi báo cho ông nội tôi biết: “Cháu nhà ông nó thông minh lắm”. Ông tôi mừng quá, mổ gà làm tiệc chiêu đãi thầy. Khoảng 60 năm đã trôi qua vậy mà tôi vẫn nhớ câu ông nội tôi nói với thầy: “Nó sinh năm Mùi, tháng Mùi, “niên cốt, nguyệt bì”, da dê lại bọc xương dê là vừa khít, sau này nó sẽ có khả năng khác người”. Bây giờ ngẫm lại xem chừng lời tiên tri của ông tôi có phần đúng, nhưng nghĩ tới chuyện mình thất bại trong cuộc đời trong khi nhiều đứa bất tài, thất đức, thậm chí “ngu như l.”, lại thành ông nọ, bà kia mà thấy thương ông. Còn cha tôi, sau ĐBP, ông đi học Trường Y sĩ Hải Dương, trở thành Y sĩ Tây Y đầu tiên của vùng quê tôi. Ông cũng trọng danh dự. Khi tôi in cuốn sách thiếu nhi “Những dấu vết không phai”, ông cầm sang Uỷ ban Xã bảo: “Chúng bay là cái thá gì, tao đây này, tao là bố nhà văn đây này”.
Bây giờ, hàng ngày vẫn có những độc giả tri thức là kỹ sư, bác sĩ, TS, GS, v.v… vào đọc, khen Nhà Văn Đông La hết lời, chắc linh hồn cha, ông tôi cũng vui.
Hôm nay, 22-12-2024, chẵn 80 năm thành lập QĐNDVN, tôi đăng lại bài tôi viết từ 2014 về những nét chính của Trận ĐBP, xin giới thiệu với bạn đọc cũng là để tặng linh hồn cha tôi, một Chiến sĩ Điện Biên.
22-12-2024
ĐÔNG LA
Tên bài viết tôi đặt theo ý thơ của Nhà thơ Tố Hữu:

Chín năm làm một Điên Biên
Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng.



Trận Điện Biên Phủ là trận đánh giữa Quân đội Nhân dân Việt Nam và quân đội Pháp.

QĐNDVN do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy đã buộc quân Pháp có lúc quân số lên tới 16.000 người, với sự hỗ trợ của Mỹ, phải chịu đầu hàng. Lần đầu tiên quân đội của một nước thuộc địa châu Á đã đánh thắng một quân đội của một cường quốc châu Âu, buộc Pháp phải hòa đàm và rút ra khỏi Đông Dương. Điện Biên Phủ đã trở thành một tấm gương sáng, cổ vũ các nước thuộc địa ở Châu Phi đồng loạt nổi dậy. Đến năm 1967, Pháp đã buộc phải trao trả độc lập cho tất cả các nước thuộc địa, chấm dứt thời đại hơn 400 năm của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới.
***
Tới năm 1954, 78% chiến phí của Pháp ở Đông Dương là do Mỹ chi trả. Tất cả các cấp của quân Pháp đều có cố vấn Mỹ. Tướng Henri Navarre từng than phiền trong hồi ký: "Địa vị của chúng ta đã chuyển thành địa vị của một kẻ đánh thuê đơn thuần cho Mỹ".
Chính phủ Pháp muốn chấm dứt cuộc chiến nhưng lại muốn duy trì quyền lợi tại Đông Dương nên đã bổ nhiệm tổng chỉ huy Henri Navarre sang Đông Dương tìm kiếm một chiến thắng quân sự quyết định để làm cơ sở cho một cuộc thảo luận hòa bình trên thế mạnh.
Navarre thấy nếu cả miền cực Bắc Đông Dương rơi vào quyền kiểm soát của Việt Minh sẽ là một nguy cơ lớn vì nước Pháp bất lực trong việc bảo vệ các quốc gia liên kết. Điện Biên Phủ là một thung lũng cách Hà Nội 300 km về phía tây, cách Lai Châu 80 km về phía nam. Xung quanh là núi đồi trập trùng bao quanh tứ phía, rừng già khắp nơi. Theo Tướng Cogny: “Điện Biên Phủ là một căn cứ bộ binh - không quân (base aéroterrestre) lý tưởng, là "chiếc chìa khoá" của Thượng Lào”. Vì thế Phía Pháp xây dựng Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ án ngữ miền Tây Bắc liên thông với Thượng Lào, làm bẫy nhử quân chủ lực Việt Minh tấn công để nghiền nát tại đó.
Ngày 2 tháng 11 năm 1953, Navarre đã chỉ thị cho Cogny đánh chiếm Điện Biên Phủ.
Ngày 7 tháng 12, Đại tá Christian de Castries được Cogny và Navarre chỉ định chỉ huy tập đoàn cứ điểm. Navarre nói: "Trong số các chỉ huy được lựa chọn, không ai có thể làm giỏi hơn Castries".



Phía Pháp tin rằng lợi thế công nghệ vượt trội và sự trợ giúp của Mỹ sẽ giúp họ đánh bại được QĐNDVN vốn có trang bị thô sơ hơn nhiều. Tướng Navarre viết: “thật là bất khả xâm phạm”. Đặc biệt, trước khi trận đánh diễn ra, đích thân đương kim Phó Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã lên thị sát việc xây dựng cụm cứ điểm để "đảm bảo cho khoản đầu tư của Mỹ ở Đông Dương được sử dụng hiệu quả".
***
Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Việt Nam nhìn nhận trận Điện Biên Phủ sẽ là cơ hội đánh tiêu diệt lớn để chấm dứt cuộc kháng chiến trường kỳ. Trung ương Đảng ta đã hạ quyết tâm: "Tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tạo nên một bước ngoặt mới trong chiến tranh, trước khi Đế quốc Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương."
Đại tướng Võ Nguyên Giáp được cử làm Tư lệnh chiến dịch. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái làm Tham mưu trưởng. Thiếu tướng Đặng Kim Giang làm Chủ nhiệm hậu cần. Ông Lê Liêm làm Chủ nhiệm chính trị.
Về phía QĐNDVN có những khó khăn: chưa có kinh nghiệm đánh công kiên lớn; về hỏa lực và trang bị thì lại kém hơn hẳn so với Pháp; việc tiếp cận đồn Pháp cũng không dễ dàng vì họ san phẳng mọi chướng ngại vật trong thung lũng, để tạo điều kiện tối đa cho tầm nhìn và tầm tác xạ của các loại hoả lực; để có thể tiếp cận, bộ đội Việt Nam phải chạy khoảng 200 m giữa địa hình trống trải dày đặc dây kẽm gai và bãi mìn, phơi mình trước hỏa lực Pháp. Chỉ huy Pháp tự tin rằng, nếu QĐNDVN chỉ biết học theo Chiến thuật biển người mà Trung Quốc áp dụng ở Triều Tiên, thì quân tấn công dù đông đảo tới đâu cũng sẽ bị bom, pháo và đại liên Pháp tiêu diệt nhanh chóng.
Tuy quân Pháp bị bao vây vào giữa lòng chảo Điện Biên, Pháp ở đáy một chiếc mũ lộn ngược còn QĐNDVN ở trên vành mũ, nhưng đó là ở tổng thể. Từ đồn Pháp ra đến rìa thung lũng trung bình là 2 đến 3 km, vậy nên ở quy mô từng trận đánh thì Pháp lại ở trên cao, còn QĐNDVN phải ở dưới thấp tấn công lên. Quân Pháp cũng có dự trữ đạn pháo dồi dào hơn gấp 6 lần và hơn tuyệt đối về không quân và xe tăng. Trung bình cứ 1 bộ đội Việt Nam phải hứng chịu 2 trái đại bác, 1 trái bom và 6 viên đạn cối, trong khi không có xe tăng hay pháo tự hành để che chắn yểm trợ khi tiến công.
Và đặc biệt khó khăn lớn nhất của QĐNDVN là hậu cần. Phía Pháp cho rằng QĐNDVN không thể đưa pháo lớn (cỡ 105mm trở lên) vào Điện Biên Phủ. Navarre lý luận rằng Điện Biên Phủ ở xa hậu cứ Việt Minh 300–400 km, qua rừng rậm, núi cao, QĐNDVN không thể tiếp tế nổi lương thực, đạn dược cho 4 đại đoàn được, giỏi lắm chỉ một tuần lễ là QĐNDVN sẽ phải rút lui vì cạn tiếp tế. Trái lại quân Pháp sẽ được tiếp tế bằng máy bay.
Vì các lý do trên, khi thiết lập tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, các tướng lĩnh Pháp và Mỹ đã đánh giá sai khả năng của đối phương. Tướng Cogny đã nói: "Chúng ta đã có một hỏa lực mạnh đủ sức quét sạch đối phương đông gấp 4-6 lần… Tôi sẽ làm tất cả để bắt tướng Giáp phải “ăn bụi” và chừa cái thói muốn đóng vai một nhà chiến lược lớn". Tướng Navarre nhận xét: "Làm cho Việt Minh tiến xuống khu lòng chảo! Đó là mơ ước của đại tá Castries … Họ mà xuống là chết với chúng ta... Và cuối cùng, chúng ta có được cái mà chúng ta đang cần: đó là mục tiêu, một mục tiêu tập trung mà chúng ta có thể “quất cho tơi bời". Charles Piroth, chỉ huy pháo binh thì tự đắc: “Trọng pháo thì ở đây tôi đã có đủ rồi… Nếu tôi được biết trước 30 phút, tôi sẽ phản pháo rất kết quả. Việt Minh không thể nào đưa được pháo đến tận đây; nếu họ đến, chúng tôi sẽ đè bẹp ngay... và ngay cả khi họ tìm được cách đến, tiếp tục bắn, họ cũng không có khả năng tiếp tế đầy đủ đạn dược để gây khó khăn thật sự cho chúng tôi!" Pierre Schoenderffer, phóng viên mặt trận của Pháp, nhớ rõ câu trả lời của Piroth: "Thưa tướng quân, không có khẩu đại bác nào của Việt Minh bắn được 3 phát mà không bị pháo binh của chúng ta tiêu diệt!"
***
Thực tế, phía Việt Nam với hàng vạn dân công và bộ đội đã làm đường dã chiến trong khoảng thời gian cực ngắn. Các dân công tiếp tế bằng gánh gồng, xe đạp thồ kết hợp cùng cơ giới đảm bảo hậu cần cho chiến dịch. Mỗi xe thồ chở được 200–300 kg, kỷ lục lên đến 352 kg, còn có thể hoạt động trên những tuyến đường mà xe ô tô không thể đi được. Chính phương tiện vận chuyển này đã gây nên bất ngờ lớn ngoài tầm dự tính của các chỉ huy Pháp.
Ngoài ra, Pháp cũng đã đánh giá sai khả năng pháo binh của QĐNDVN khi cho rằng đối phương vốn không có xe cơ giới nên không thể mang pháo lớn (lựu pháo 105 mm và pháo cao xạ 37 mm) vào Điện Biên Phủ mà chỉ có thể mang loại pháo nhẹ là sơn pháo 75 mm trợ chiến mà thôi. Nhưng những người lính QĐNDVN đã khôn khéo tháo rời các khẩu pháo rồi dùng sức người để kéo, sau khi đến đích thì ráp lại. Bằng cách đó ta đã đưa được lựu pháo 105 mm lên bố trí trong các hầm pháo có nắp khoét sâu vào các sườn núi, xây dựng thành các trận địa pháo rất nguy hiểm và lợi hại, từ trên cao có khả năng khống chế rất tốt lòng chảo Điện Biên Phủ mà lại rất an toàn trước pháo binh và máy bay đối phương. Với thế trận hỏa lực này, các khẩu pháo của QĐNDVN chỉ cách mục tiêu 5–7 km, chỉ bằng một nửa tầm bắn tối đa để bắn chính xác hơn, ít tốn đạn và sức công phá cao hơn, thực hiện được nguyên tắc "phân tán hỏa khí, tập trung hỏa lực", từ nhiều hướng bắn vào một trung tâm, ngược lại pháo binh Pháp lại bố trí ở trung tâm, phơi mình trên trận địa.
Bên cạnh đó, các chỉ huy pháo binh QĐNDVN còn lập trận địa nghi binh – dùng gỗ thui đen thành khẩu pháo giả, nghếch nòng lên, khi trận địa thật phát hỏa thì chiến sĩ phụ trách nghi binh từ trong công sự, ném bộc phá, tung lên không trung, làm cho 80% bom đạn của Pháp dùng phản pháo đã dồn vào đánh trận địa giả, đồng thời bảo vệ được những trọng pháo quý giá của mình. Suốt chiến dịch, pháo binh QĐNDVN chỉ hỏng một pháo 105mm. Đây là một nguyên nhân làm cho pháo binh Pháp dù có các thiết bị phản pháo hiện đại vẫn bị thất bại. Đại tướng Võ Nguyên Giáp về sau nhận xét: "Thực tế kinh nghiệm này của chiến dịch Điện Biên Phủ đã trở thành truyền thống chiến đấu dùng thô sơ đánh hiện đại của quân đội ta trong suốt chiều dài chống Mỹ cứu nước". Còn tướng Paul Ély, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp khi diễn ra trận Điện Biên Phủ nhận định: “Một lần nữa, kỹ thuật lại bị thua bởi những con người có tâm hồn và một lòng tin.”
***
Phương án tác chiến là một vấn đề tối quan trọng, như chìa khoá mở cánh cửa chiến thắng. Ngày 9-12-1953, bộ phận tham mưu đã đánh giá địch ở Ðiện Biên Phủ đang ở trạng thái lâm thời phòng ngự, chưa kịp xây dựng công sự vững chắc, nên đã chọn phương án "đánh nhanh thắng nhanh" và Cố vấn Mai Gia Sinh gọi là "oa tâm tạng chiến thuật" (chiến thuật moi tim). Như vậy cách đánh nhanh thắng nhanh hoàn toàn có lý. Cả Ðảng ủy mặt trận và Cố vấn Vi Quốc Thanh đều đồng ý. Cố vấn Vi nói: "Nếu không tranh thủ đánh sớm khi địch còn đứng chân chưa vững, để nay mai chúng tăng quân và củng cố công sự thì không đánh được, ta sẽ bỏ mất thời cơ".
Ngày 14 tháng 1 năm 1954 tại hang Thẩm Púa, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ chỉ huy chiến dịch phổ biến lệnh tác chiến bí mật với phương án "đánh nhanh thắng nhanh" và ngày nổ súng dự định là 20 tháng 1. Do một đơn vị trọng pháo vào trận địa chậm nên ngày nổ súng được quyết định lùi lại ngày 25 tháng 1. Sau đó, do tin về ngày nổ súng bị lộ, Pháp biết được, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định hoãn lại 24 giờ, chuyển sang 26 tháng 1.
***
Nhưng rồi Ðại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn nhận thấy "phương án đánh nhanh thắng nhanh là quá mạo hiểm", do mới đến mặt trận, ông chưa có đủ cơ sở thực tế để bác bỏ, đành phải tạm thời chấp nhận. Nhưng rồi chuyện kéo pháo dự kiến hoàn thành trong 3 đêm, thế mà sau 7 đêm, pháo vẫn chưa vào vị trí. Lúc đó, quân địch đã tăng lên 12 tiểu đoàn, một tập đoàn cứ điểm kiên cố đã hình thành. Đại tướng suy nghĩ: Bộ đội chủ lực chưa thành công trong việc đánh các công sự nằm liên hoàn trong một cứ điểm; với một trận đánh hiệp đồng lớn, pháo binh và bộ binh chưa qua tập luyện, diễn tập; quân ta chỉ quen tác chiến ban đêm ở những địa hình dễ ẩn náu, chưa tấn công đồn ban ngày trên địa hình bằng phẳng, trước họng sung đối phương có máy bay, pháo binh, xe tăng chi viện. Trước khi ra trận, Bác Hồ trao cho Ðại tướng nhiệm vụ "Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Phải chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh" và căn dặn: "Tướng quân tại ngoại, giao cho chú toàn quyền". Sau 11 ngày đêm suy nghĩ đến 25 tháng 1, Đại tướng đã quyết định lui quân vì phương án "Đánh nhanh thắng nhanh" không thể đảm bảo chắc thắng. Ông kiên quyết tổ chức lại trận đánh theo phương án "Đánh chắc, tiến chắc", đánh dài ngày theo kiểu "bóc vỏ" dần. Sau này, Đại tướng cho rằng đây là quyết định khó khăn nhất trong đời cầm quân của mình. Sáng 26-1, ông đi gặp Trưởng đoàn cố vấn Vi Quốc Thanh trao đổi, ông Cố vấn đã đồng ý.
Đặc biệt, để có “Quyết định khó khăn nhất” đó, có một sự đóng góp quan trọng của Tướng Phạm Kiệt. Trong bức thư viết ngày 19/1/1995, gửi cuộc Hội thảo về tướng Phạm Kiệt, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể lại: “Đặc biệt, tại mặt trận Điện Biên Phủ, cùng với nhiệm vụ phụ trách công tác bảo vệ, anh (tướng Phạm Kiệt) đã được tôi cử đi kiểm tra công tác chuẩn bị chiến trường ở phía Đông Bắc. Anh đã … phát hiện sự nguy hiểm bố trí pháo binh dã chiến tại một địa bàn tương đối bằng phẳng. Lúc bấy giờ, toàn thể cán bộ và chiến sĩ đang hăng hái triển khai kế hoạch đánh nhanh. Bản thân tôi thì đang khẩn trương theo sát tình hình củng cố của địch và suy nghĩ về quyết định thay đổi phương châm thì qua điện thoại: “Anh trình bày vắn tắt tình hình và là người duy nhất lúc đó đã đề nghị tôi xem xét lại kể hoạch đánh nhanh”.
***
Tại cuộc họp Đảng ủy, Bộ chỉ huy QĐNDVN sáng 26 tháng 1, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nêu quyết định hoãn cuộc tấn công vào chiều hôm đó. Ra lệnh cho bộ đội trên toàn tuyến lui về địa điểm tập kết, và kéo pháo ra.
Trong vòng gần 2 tháng sau, tất cả được chuẩn bị chu đáo hơn cho trận đánh dài ngày, có thể sang đến cả mùa mưa.
Về chiến thuật tác chiến, Bộ chỉ huy QĐNDVN chủ trương tiêu diệt dần từng cứ điểm từ ngoài vào trong, không sử dụng lối đánh xung phong trực diện mà dùng cách đánh vây lấn, đào hào áp sát cứ điểm địch.
Diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ
Ngày 11 tháng 3 năm 1954, Bác Hồ gửi thư tới các chiến sĩ: "Các chú sắp ra trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn nhưng rất vinh quang... Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới... Chúc các chú thắng to!"
Chiến dịch diễn ra trong 55 ngày đêm:
Đợt 1 từ 13 tháng 3 đến 17 tháng 3, quân ta tiêu diệt các trung tâm đề kháng phân khu Bắc: Him Lam, đồi Độc Lập, Bản Kéo, kiềm chế pháo binh địch ở Hồng Cúm.
Charles Piroth, chỉ huy pháo binh cứ điểm, sau hai đêm không thực hiện được lời hứa bịt miệng các họng pháo của Việt Minh, đã tự sát trong hầm của mình bằng một trái lựu đạn. Jean Pouget viết trong hồi ký: "Trung tá Piroth đã dành trọn một đêm (13 tháng 3) quan sát hỏa lực dần dần bị đối phương phản pháo chính xác một cách kinh khủng vào trận địa pháo của ông..." Trung tá André Trancart, bạn thân của Piroth kể lại sau trận Độc Lập, Piroth khóc và nói: "Mình đã mất hết danh dự. Mình đã bảo đảm với Castries và tổng chỉ huy sẽ không để pháo binh địch giành vai trò quyết định, và bây giờ, ta sẽ thua trận. Mình đi thôi".
Chỉ sau năm ngày chiến đấu, cánh cửa phía bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã mở toang.
Đợt 2 từ 30 tháng 3 đến 30 tháng 4, Quân ta đánh phân khu trung tâm, chủ yếu nhằm chiếm dẫy đồi phía đông khống chế cánh đồng Mường Thanh với hơn một vạn quân, ken nhặt với nhau trên cánh đồng hai bên bờ sông Nậm Rốm. Hơn ba mươi cứ điểm ở đây được chia thành 4 trung tâm đề kháng mang tên những cô gái: Huguette, Claudine, Eliane, Dominique. Trong số các cao điểm này, Eliane 2 (đồi A1) giữ vai trò đặc biệt quan trọng, vì nó khống chế một phạm vi khá rộng gồm cả khu vực sở chỉ huy của de Castries và hai chiếc cầu trên sông Nậm Rốm.
18 giờ ngày 30 tháng 3 năm 1954, đợt tiến công thứ hai vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bắt đầu.
Tại đồi A1 (Eliane 2), hỏa lực của ta bắn vào cứ điểm yểm hộ cho xung kích mở cửa. Tuy nhiên, pháo binh Pháp phản pháo, bắn dữ dội vào cửa mở. Mất hơn nửa giờ, hai mũi tiến công của ta mới vượt qua 100 mét rào và bãi mìn. Lực lượng bị tổn thất nhiều vì không vượt qua được hàng rào lửa đại bác. Quá nửa đêm, cuộc chiến đấu tại A1 diễn ra giằng co. Mỗi bên giữ được nửa đồi. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định tiếp tục tiến công tiêu diệt A1. Hai đại đội chi viện đã đảo lộn thế trận. Những cuộc phản kích của Pháp đến 31 tháng 3 đã hoàn toàn thất bại. 10 giờ tối, Chỉ huy trưởng Phân khu Trung tâm Langlais gọi điện thoại cho Bigeard, hỏi có thể giữ được những gì còn lại trong đêm nay không! Bigeard trả lời: "Thưa Đại tá, chừng nào còn một người sống sót, tôi sẽ không bỏ Eliane (A1)". A1 đã trở thành "thành luỹ cuối cùng" (demier rempart) của tập đoàn cứ điểm.
Để chống lại các cứ điểm phòng ngự kiên cố của quân Pháp, quân ta đã áp dụng chiến thuật "vây lấn" rất có hiệu quả bằng việc đào các giao thông hào dần dần bao vây và siết chặt, tiếp cận dần vào các vị trí của Pháp.
Những tuyến chiến hào dài khoảng hơn 100 km. Ta đã xây dựng 2 loại: đường hào trục chạy vòng rộng bao quanh toàn bộ trận địa địch ở phân khu trung tâm. Loại đường hào thứ hai chạy từ trong rừng đổ ra cánh đồng cắt ngang đường hào trục, tiến vào vị trí sẽ tiêu diệt.
Các loại đường hào này đều có chiều sâu 1,7 mét và không quá rộng để bảo đảm an toàn trước bom đạn địch. Đáy của đường hào bộ binh rộng 0,5 mét, đáy hào trục rộng 1,2 mét. Dọc đường hào, bộ binh có hố phòng pháo, hầm trú ẩn, chiến hào và ụ súng để đối phó với những cuộc tiến công của Pháp. Từ những đầu hào chỉ cách quân Pháp vài chục mét, bộ đội dùng ĐKZ bắn sập dần những lô cốt, ụ súng.
Đợt 3 từ 1 tháng 5 đến 7 tháng 5, quân ta đánh dứt điểm dẫy đồi phía đông và tổng tiến công tiêu diệt các vị trí còn lại. Mở đầu kế hoạch đợt 3 là tiếp tục tiêu diệt hoàn toàn hai cao điểm A1 và C1, thu hẹp thêm nữa vòng vây, chuẩn bị cho tổng công kích.
Để chống lại hệ thống hầm ngầm cố thủ làm quân ta không thể xung phong đánh chiếm được đồi A1 có vị trí quyết định, công binh ta đã đào đường hầm từ trận địa tới dưới hầm ngầm ở A1, đưa bộc phá với số lượng lớn vào. Một đội đặc biệt gồm 25 cán bộ, chiến sĩ do Nguyễn Phú Xuyên Khung, cán bộ công binh của Bộ, trực tiếp chỉ huy, đã tiến hành công việc ngay trước mũi súng quân Pháp, trong tình trạng thiếu không khí, đèn, đuốc mang vào hầm đều bị tắt, số đất moi từ lòng núi ra ngày càng nhiều không được để cho quân Pháp phát hiện. Đến ngày 5 tháng 5, đường hầm ở A1 đã hoàn thành. Trong đêm, một tấn bộc phá chia thành những gói hai mươi kg đưa vào đã đặt được ở phía dưới hầm ngầm Pháp. Sáng ngày 6 tháng 5 năm 1954, quân phòng ngự của ta suốt 34 ngày đêm trên đồi A1 được lệnh rút ra để điểm hỏa. Tiếng nổ của khối bộc phá trên đồi A1 được chọn làm hiệu lệnh xung phong cho đợt tiến công. Trước giờ G năm phút, các chiến sĩ ở chiến hào được lệnh quay lưng về A1, nhắm mắt, há mồm đề phòng sóng xung kích và ánh chớp của ngàn cân bộc phá. Đúng 20 giờ 30, một tiếng nổ trầm, trên đồi A1 có một đám khói lớn phụt lên. Khối bộc phá nổ cách hầm ngầm vài chục mét thổi bay chiếc lô cốt bên trên, diệt phần lớn một đại đội dù của Pháp. Khối bộc phá một tấn cũng đã tiêu diệt một phần tuyến ngang, tạo nên một cửa mở quan trọng giúp cho quân ta xung phong thuận lợi. Sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954, lá cờ Quyết chiến Quyết thắng tung bay trên cao điểm A1 báo hiệu giờ tàn của tập đoàn cứ điểm.
Đúng 3 giờ chiều, các đại đoàn quân ta được lệnh: "Không cần đợi trời tối, lập tức mở cuộc tổng công kích đánh thẳng vào khu vực trung tâm, phải đánh thật mạnh, bao vây thật chặt, không để cho Đờ Cát hoặc bất cứ tên địch nào chạy thoát".
Đại đội 360 chỉ còn 5 người: Tạ Quốc Luật, Hoàng Đăng Vinh, Bùi Văn Nhỏ, Nguyễn Văn Lam và Đào Văn Hiếu, khoảng 17 giờ, sau khi dùng thủ pháo tiêu diệt tổ bảo vệ ở phòng ngoài sát cửa ra vào, tiến vào gian hầm có Tướng De Castries. Tạ Quốc Luật nói: "Các ông hàng đi!”. 5 giờ 30 chiều, đại đoàn 312 báo cáo lên: "Toàn bộ quân địch tại khu trung tâm đã đầu hàng. Đã bắt được tướng Đờ Cát"



Ngày hôm sau, 8 tháng 5 năm 1954, Bác Hồ gửi thư khen. Sau đó, Bác đến gặp và chúc mừng Bộ tổng tham mưu và đại tướng Võ Nguyên Giáp Nhưng lại kèm theo một lời tiên tri: "Chúc mừng chú (Võ Nguyên Giáp) thắng trận. Nhưng đừng chủ quan, còn phải đánh với Mỹ nữa. Sớm muộn gì chúng cũng sẽ nhảy vào Đông Dương thế chỗ Pháp".
***
Một ngày sau khi Pháp thất bại, ngày 8 tháng 5 năm 1954, Hội nghị Genève bắt đầu. Sau đó, Pháp công nhận chủ quyền của các nước Đông Dương trong đó có Việt Nam. Tướng De Castries, sau khi thất bại trở về Pháp, đã trả lời trước Ủy ban Điều tra của Bộ Quốc phòng Pháp rằng: “Người ta có thể đánh bại một quân đội, chứ không thể đánh bại được một dân tộc”.


Đại tướng Võ Nguyên Giáp tổng kêt:
“Dân tộc ta có thể tự hào rằng: Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, chúng ta đã chứng minh một chân lý vĩ đại. Chân lý đó là trong thời đại ngày nay một dân tộc thuộc địa bị áp bức, khi đã biết đứng dậy đoàn kết đấu tranh, kiên quyết chiến đấu cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội thì có đầy đủ khả năng để chiến thắng quân đội xâm lược hùng mạnh của một nước đế quốc chủ nghĩa".

7-5-2014
ĐÔNG LA