ĐÔNG
LA
VỀ
TƯ DUY PHÊ BÌNH CỦA
TRẦN
MẠNH HẢO
Phải viết về Trần Mạnh
Hảo là điều quá ngại ngùng đối với tôi, không phải vì học thuật mà vì nhiều lý
do khác, nhưng trước những vấn đề quá hệ trọng đặt ra trong cuốn sách mới đây
của tác giả, tôi vẫn buộc phải viết. Mục đích chính là muốn góp phần tìm ra
những đúng sai về tri thức chứ không có ý tranh luận, vì việc đó là vô nghĩa.
Bởi từng có một cuốn sách 570 trang (tôi cũng có ba bài với bút danh Đông La và
Nguyễn Huy Sơn), mà nội dung chủ yếu là tranh luận về học thuật, tuy có nhiều
thái độ gay gắt, nhưng cũng chỉ là hành động “đỡ đòn” đối với những thái độ của
Trần Mạnh Hảo đã viết ra trước đó; vậy mà tác giả lại cho người biên soạn là TS
Nguyễn Hữu Sơn có hành động xấu và phạm pháp: “Lấy việc xúc phạm cá nhân, bất
chấp học thuật, quy kết vô bằng cứ làm tiêu chí … mà phần lớn nội dung nhắm vào
việc thóa mạ chúng tôi”. Vậy viết thêm một bài chỉ để tranh luận với tác
giả thôi thì viết làm gì?
Trần Mạnh Hảo quả là một
hiện tượng đặc biệt, tầm bao quát của tác giả nếu Chế Lan Viên hoặc Xuân Diệu
có hồi sinh cũng phải giật mình. Tôi cũng được chứng kiến rất nhiều người xuýt
xoa khen anh. Hơn nữa, có tác giả nào lại được cả một trung tâm văn học lớn như
tạp chí VNQĐ đứng ra bảo vệ với hình thức tập trung “trao đổi ý kiến”.
Gần như anh là “niềm tin và hy vọng” của họ, những người có hoàn cảnh,
quan niệm và tư duy sáng tác giống anh. Vương Trọng: “Ai nói gì thì nói chứ
tôi thấy Trần Mạnh Hảo thực sự là một hiện tượng phê bình…Trần Mạnh Hảo là
người đọc nhiều, biết nhiều”; Nguyễn Trí Huân: “Tôi thích cuốn của anh
Hảo… văn phê bình của anh giàu chi tiết và hình tượng, có thể đọc một mạch”;
Chu Lai: “Trần Mạnh Hảo đã chọn được một thế đứng chắc chắn, chính xác để
phát ngôn tư tưởng”; Xuân Thiều: “Anh Hảo nói rất rành mạch, nói có sách,
mách có chứng chứ không à uôm”; Khuất Quang Thụy: “Về mặt thi pháp anh
Hảo là người có phong cách… Anh cũng là người đi tiên phong trong việc phê phán
những cái sai tùy tiện trong sách giáo khoa… Hội nhà văn rất nên tự hào về một
nhà văn của chúng ta”; Lê Lựu: “Anh là người trong nghề nên có cái tinh
của người trong nghề… Những ý kiến của anh phần lớn là chính xác… Anh thực sự là
một nghệ sĩ viết văn và viết phê bình”; Nguyễn Đức Mậu: “Một số người
viết bài phê bình Trần Mạnh Hảo là thiếu kiến thức, thiếu văn hóa, học hành
không đến nơi đến chốn… là không công bằng”;
Trần Đăng Khoa: “Trần Mạnh Hảo là một nhà phê bình sắc lẻm và đáo
để… Sự xuất hiện của Trần Mạnh Hảo quả thật đã làm cân bằng môi trường sinh thái
văn chương” v.v. … Tiếc là, tất cả các ý kiến trên đây chỉ là ý kiến cảm tính, không ai có một bài
viết nào mang tính phân tích chứng minh. Có điều, muốn chứng minh được cần phải
có tri thức, mà tri thức lại luôn bị sự đúng sai kiểm chứng, và nhiều khi nó
chẳng bị chi phối bởi cái chuyện “thích hay không thích”ở trên
đây tí nào.
Về cuốn sách “Văn
học-phê bình, nhận diện” có phụ đề nhưng lại đúng hơn với tinh thần và nội
dung của nó là: “HẦU CHUYỆN CÁC GIÁO SƯ”. Nó bao gồm loạt bài mang tính phê phán “Hàng loạt sai lầm
quá hệ trọng mang tính hệ thống” của các giáo sư soạn sách giáo khoa về văn
học và văn hóa. Đây quả là một việc tối hệ trọng, bởi liên quan đến giáo dục,
mà đúng như “Lời nói đầu” cuốn
sách viết: “Giáo dục là một đại sự quốc gia quan hệ đến vận mệnh dân tộc”.
Sách giáo khoa là những quy chuẩn, những mẫu mực của tri thức, có tính pháp lý,
được biên soạn có tổ chức, có sự thẩm định xét duyệt của nhà nước, giúp thầy
giảng dạy, trò kiến tạo nền tảng tri thức ban đầu, cần phải đặt tiêu chí chính
xác lên hàng đầu. Tuy nhiên khó tránh khỏi khiếm khuyết. Bản thân khoa học cũng
không bao giờ tuyệt đối đúng. Vì vậy, việc phê bình sai sót là tối cần thiết và
cấp bách. Riêng tôi cũng nhận thấy, không chỉ cần phải sửa chữa sai sót trong
sách giáo khoa mà còn phải đổi mới chương trình giảng dạy, sao cho các em học
sinh, nhất là cấp III, luôn tiếp cận được cái mới, cái tinh túy của văn chương
hiện đại, văn chương của ngày hôm nay. Được vậy, trình độ cảm thụ văn học nghệ
thuật của xã hội mới được nâng cao, theo kịp sự phát triển của văn học, còn nếu
chỉ dậy ở đại học thôi, thì chỉ một lượng người rất nhỏ tiếp cân được. Tất
nhiên đây là việc rất khó, bởi hiện tại, chúng ta vẫn còn chưa thống nhất được
với nhau thế nào là những cái hay, cái giá trị của những cái mới. Còn việc phê
bình sách giáo khoa cũng cần phải hết sức cẩn trọng, buộc phải có một tri thức
uyên thâm, sự hiểu biết thấu đáo, một
thái độ nghiêm túc, một lương tâm nghề nghiệp, nếu không, không chỉ danh dự một
tầng lớp trí thức được xã hội kính trọng bị xúc phạm mà còn gây ra sự mất
phương hướng trong công việc giảng dạy. Tiếc rằng, theo sự hiểu biết của tôi,
cuốn sách mới của Trần Mạnh Hảo dù có những phê phán rất đúng, nhưng cũng như
những cuốn sách trước, sau bao bàn luận tranh cãi, tác giả vẫn giữ nguyên và có thêm những sai lạc khác nữa:
từ tri thức cơ bản (triết học, mỹ học,
lý luận văn học) đến cách thức phân tích
diễn giải để phê phán.
NHỮNG NHẬN THỨC VỀ TRIẾT
HỌC
Nói chung tư tưởng mà
Trần Mạnh Hảo lấy làm nền tảng để viết phê bình lý luận là chủ
nghĩa Mác-Lê nin. Nhưng có nhiều vấn đề chủ yếu, khi phân tích, tác giả
đã không ngờ rằng mình lại có những quan điểm ngược lại.
Ngay từ cuốn Thơ phản
thơ (Nxb Văn học, 1995), Trần Mạnh Hảo viết: “Thuyết âm dương của Dịch,
thuyết vũ trụ đồng nhất đã đưa phương Đông tiến rất xa về thế giới quan so với
phương Tây” (Thơ phản thơ, tr. 239). Trong bài viết về cụ Cao Xuân
Huy tôi đã viết, thực chất, quan niệm về Âm Dương mới chỉ là tri thức ở mức cảm
nhận trực quan thô sơ, chỉ là sự liệt kê các mặt đối lập của vạn vật, hiện
tượng, không thể diễn tả và chứng minh được bằng thực nghiệm khoa học, không
thể biết được cụ thể Âm Dương giao cảm thế nào? Biến hóa thành những cái gì? Nó
mang tính tuần hoàn khép kín, nên không
giúp gì cho sự phát triển của thế giới quan nói chung, triết học và
các ngành khoa học cụ thể khác nói riêng. Mà để làm được điều đó, chỉ có triết
học Duy vật biện chứng và khoa học tự nhiên, xuất phát từ tư tưởng triết
học của Đê-mô-crít (khoảng 460-370 trước CN) coi vạn vật được cấu tạo
bằng nguyên tử. Trong thực tiễn lịch sử phát triển khoa học, khám phá
cấu trúc nguyên tử chính là công việc cơ bản nhất, chính những thành tựu
của nó đã thúc đẩy “thế giới quan tiến rất xa”, cũng như toàn bộ nền văn
minh của loài người phát triển. Vậy nói như Trần Mạnh Hảo ở trên là ngược với
thực tế cũng như quan điểm của chủ nghĩa Duy vật biện chứng .
Trần Mạnh Hảo viết: “Nguyễn
Lộc chưa hiểu được nguyên tắc triết học nhất nguyên luận Đông phương.
Ông lại dùng phương pháp triết học nhị nguyên luận phương Tây để lý giải
chữ Tâm của Nguyễn Du nên mới đẩy Nguyễn Du rơi xuống vũng bùn của “tư tưởng
duy tâm”. Quan niệm triết học phương Đông nghiêng về sự hài hòa, trung dung nên
không có chữ Duy; nghĩa là không tách TÂM ra khỏi VẬT và ngược lại … Muốn
nghiên cứu chữ TÂM của Nguyễn Du thì phải nắm được cái rốt ráo của triết học
DỊCH và ĐẠO phương Đông, chứ không thể nói à uôm rồi xúc phạm Nguyễn Du như
Nguyễn Lộc”… “Nguyễn Lộc thể hiện sự chưa trưởng thành trong nhận thức về chữ
TÂM và cả chữ TÀI, chữ MỆNH” (Văn học-phê bình, nhận diện, tr. 73).
Việc Nguyễn Lộc nói tư tưởng Nguyễn Du “duy tâm” là điều hiển nhiên, lẽ
ra không nên bàn, chỉ không nên nói là “vũng bùn”thôi, vì Nguyễn Du chỉ
là một nhà thơ chứ không phải là nhà cách mạng tư tưởng. Nhưng Trần Mạnh Hảo,
khi phân tích để phê phán Nguyễn Lộc, đã không hiểu được những vấn đề cơ bản
của triết học, nên đã hiểu sai những thuật ngữ và ý nghĩa của chúng. Phần trên
đoạn văn, tác giả cho triết học phương Đông là “nhất nguyên”, đoạn sau
lại cho là “trung dung nên không có chữ DUY”. Đây là một sự mâu thuẫn,
bởi theo hệ thống thuật ngữ, đã “nhất nguyên” thì phải “DUY”.
Trong lịch sử triết học chỉ có hai học thuyết sử dụng phạm trù “bản nguyên”: Nhất nguyên luận
(Duy vật hoặc duy tâm, coi VẬT hoặc TÂM là bản nguyên, là cái có trước, cái
quyết định) và nhị nguyên luận, coi vật chất và tinh thần
là hai bản nguyên như nhau, độc lập với nhau (triết học của Descartes và
Kant). Còn triết học cổ phương Đông không phải “không có chữ DUY” mà
cũng chia làm hai phái: Duy Tâm và Duy vật. Phái Duy tâm đại diện là Khổng Tử, Mạnh Tử, và Chu Hy,
người đã hệ thống hóa những tư tưởng đạo Khổng, coi lý, bản
nguyên của tinh thần, là cái có trước, còn khí, bản nguyên vật chất, là cái có
sau. Còn phái Duy vật đại diện là Lão tử, Trang tử, Tuân tử,
coi Đạo là cái khởi nguyên của tất cả Trời, Đất, vạn vật,
là “đường đi”, tức quy luật biến đổi của chúng (theo từ điển triết
học và các sách chuyên ngành khác). Vậy hiểu như Trần Mạnh Hảo, triết học
cổ phương Đông là: “trung dung”, rồi còn đồng nhất “trong âm có
dương, trong dương có âm” với “trong tâm có vật, trong vật có tâm”
là sai.
Trong triết học cổ
phương Đông, chữ TÂM thường có ý nghĩa đạo đức luân lý chứ không có ý nghĩa bản
nguyên tạo tác thế giới. Với Lão Tử, ngài không dùng chữ TÂM mà dùng chữ ĐỨC
“cặp đôi” với chữ ĐẠO, cho: Đạo là
bản thể của vạn vật, còn Đức là bản tính của Đạo. Người ta nói triết học
phương Đông duy tâm là xuất phát từ
quan niệm: có Trời, có Thiên mệnh, có ma quỷ, thần linh.
Nên giáo sư Trần Quốc Vượng viết: “Nho giáo là học thuyết duy tâm khách quan”
là đúng, và Trần Mạnh Hảo đã phê phán và cho :“Nhận thức luận của Khổng tử
mang tính nhị trùng vừa duy tâm lại vừa duy vật, luôn giao dộng từ vật qua tâm
và ngược lại…” (Văn học- phê bình, nhận diện, tr . 340) là sai. Với
Khổng tử, không thể nói ngài “vừa duy tâm vừa duy vật” được, bởi ngài
luôn tin có một Thượng đế khi viết: “Trời sinh đức ở nơi ta…”;
rồi: “Mắc tội với Trời, còn cầu khấn gì được!”; ngài còn luôn tin
có một mệnh trời : “Đạo có hành được hay không cũng là do thiên
mệnh”. Trần Mạnh Hảo từ câu : “Trời có nói gì đâu mà bốn mùa vận
hành vạn vật sinh trưởng”… rồi cho : “Rõ ràng cái gốc Khổng tử là duy
vật, có duy tâm chút đỉnh là cái ngọn “Thiên mệnh” mà thôi”! Đã bàn đến
triết học là bàn những quy luật, đã là quy luật thì không có quy luật nào lại
mang tính “chút đỉnh” cả! Câu vừa dẫn cũng không thể chứng tỏ được tư
tưởng Khổng tử là Duy vật bởi vẫn có hiện diện ông “Trời” trong đó. Nó
chỉ chứng tỏ quan niệm của Khổng tử về sự biến đổi của vạn vật cũng mang tính
độc lập tương đối với Trời mà thôi.
Thực tế sau này, “thuyết hội tụ” của
các trào lưu triết học hiện đại phương Tây, cũng lấy quan điểm “hòa vật vào
tâm” để khắc phục quan điểm “nhị nguyên luận” mà họ cho triết học
trước ho (kể cả chủ nghĩa duy vật biện chứng) đã quan niệm. John
Deway viết: “Hiện nay không còn căn cứ để phân chia một cách cứng nhắc
thành những sự biến chủ quan và những sự biến khách quan nữa”. Quan niệm “Liên
khách - chủ thể” của Hiện tượng luận Husserl cũng có quan niệm “nối
vật vào tâm” tương tự như vậy. Việc đề cao cái nhìn vo viên “Tâm vào Vật”
này không chỉ không đúng với bản chất
triết học cổ phương Đông mà còn là cách nhìn ngược với Duy vật biện chứng.
Khi
Lê Ngọc Trà viết: “Cái cao cả tồn tại khách quan, vốn là đặc tính của các sự
vật, hiện tượng trong mối quan hệ của nó đối với con người”, Trần Mạnh Hảo
phê là: “duy vật chủ quan” (Văn học-phê bình, nhận diện ,tr.
274). Đây là một sự phê phán vô nghĩa vì trong triết học không có khái niệm “Duy vật chủ quan”.
Đơn giản chỉ vì chủ nghĩa Duy vật coi vật chất là bản nguyên khởi thủy sinh ra
tất cả, cả vật chất lẫn tinh thần, thì làm sao còn có loại tinh thần “chủ quan”
nào sinh ra nó nữa?! Khi Trần Mạnh Hảo viết: “Nếu con người không phổ ý thức
chủ quan mình vào thế giới khách quan của trời cao, bể rộng, sông dài, núi lớn…
thì không thể nào sinh ra cái đẹp cao cả được”. Nếu chỉ ở mức độ phản ánh
tâm trạng con người, kết luận này có thể đúng, nhưng ở đây, Trần Mạnh Hảo đang
bàn với Lê Ngọc Trà ở cấp độ triết học, thì điều này một lần nữa lại chứng tỏ,
Trần Mạnh Hảo nói ngược với quan điểm của chủ nghĩa Duy vật biện chứng. Chủ
nghĩa Duy vật cho vật chất quyết định ý thức và tồn tại khách quan - vẻ đẹp của
tự nhiên là khách quan - không những không phụ thuộc vào ý thức con người “có
phổ vào hay không” mà còn quyết định ý thức ấy. Viết vậy, tác giả đã nói
theo quan điểm duy tâm, cụ thể là theo quan điểm của Hiện tượng luận .
Trong
cuốn Phê bình phản phê bình (tr 251), Trần Mạnh Hảo cũng sai khi viết: “Thực
chất triết học phương Đông là nền Đạo học”. Mà đúng ra, nền Đạo học chỉ là
một phần (có thể là quan trọng nhất của triết học duy vật) của triết học cổ
phương Đông mà thôi.
Có thể những người không
cần tri thức cơ bản cho sai lầm của Trần Mạnh Hảo trên đây chỉ là vụn vặt,
nhưng với một nhà bác học, khi luôn phải biểu đạt tri thức bằng thuật ngữ và ký
hiệu, thì chỉ một thuật ngữ, một công thức thôi, có khi chứa đựng tất cả. Tiếc
là với một tri thức nền tảng như vậy, tác giả đã sử dụng để thẩm định và phê
phán nhiều lĩnh vực khác nhau dưới đây.
Những năm vừa qua trên
diễn đàn tranh luận, người ta hay chỉ trích nhau việc cắt xén khi trích dẫn tác phẩm của nhau để phê phán.
Tôi nghĩ, đã là trích dẫn tất phải cắt xén, có điều quan trọng hơn cả việc trích dẫn là khi phê phán,
người phê phán cần phải hiểu chính xác cái ý của người bị phê phán, phải hiểu
đúng được cái “tinh thần” của vấn đề, chứ không phải chỉ từ nghĩa đen của những
câu chữ. Bởi câu chữ chỉ là những ký hiệu, khả năng biểu đạt của chúng rất hạn
chế, nhoè mờ và chỉ tương đối. Nhiều khi chỉ để hiểu chính xác vài con chữ thôi
vẫn cần phải giải mã bằng cả một nền tảng tri thức cơ bản rất sâu rộng. Trần
Mạnh Hảo dù đọc rất nhiều, Đông Tây kim cổ đủ cả, nhưng dường như tác giả đọc
với tinh thần không phải để học mà để di
dạy thiên hạ, nên tác giả đã có nhiều sự phê phán không đúng với tri thức cơ
bản, mang tính áp đặt chủ quan, không đúng với tinh thần người viết. Nhiều vấn
đề người viết một đằng tác giả lại phê phán môt nẻo.
VỀ MỸ HỌC
Khi bàn về một cuốn sách
mỹ học của ba tác giả: Lê Ngọc Trà, Huỳnh Như Phương, Lâm Vinh biên soạn, Trần
Mạnh Hảo đã tuyệt đối hóa ý nghĩa những cách thức biểu đạt chỉ có nghĩa tương
đối nên đã phê phán những người soạn sách là “tùy tiện, trắng đen bất phân
minh, mâu thuẫn, lộn xộn” (Văn học-phê bình, nhận diện, tr. 259).
Khi Huỳnh Như Phương viết: “Không phải ai khác mà chính những nghệ sỹ tài
năng là thầy dậy cho công chúng biết thế nào là giá trị thẩm mỹ”; rồi sau
đó: “Một con người bình thường vẫn có thể có ý thức thẩm mỹ tốt dựa trên
kinh nghiệm sống của người ấy”, Trần Mạnh Hảo đã phê là: “thiếu nhất
quán”, là “bỗng quay ngoắt một trăm tám mươi độ”. Nếu chỉ hiểu trên
lớp vỏ của ngữ nghĩa, có thể cho Huỳnh Như Phương là mâu thuẫn, nhưng nếu đối
chiếu với thực tế, thì hai đoạn văn vừa dẫn lại không có gì mâu thuẫn cả. Rõ
ràng ai cũng thấy, có những vấn đề nghệ thuật cao siêu, cần phải có sự giảng
giải công chúng mới hiểu biết, chính vì thế mới sinh ra cái nghề phê bình. Còn
ở cấp độ nào đó, với một trình độ nhất định, với bản năng, người bình thường
vẫn có thể có ý thức thẩm mỹ. Có ai lại không thấy vẻ đẹp của một bông hoa,
hoặc không thích một bản nhạc hay nổi tiếng. Với Lê Ngọc Trà cũng vậy, khi ông
viết ý: những cái cân đối thường tạo
ra vẻ đẹp, nhưng cũng có những cái cân đối lại không vậy. Trần Mạnh Hảo
không hiểu nghĩa của những phó từ “thường” hoặc “cũng có” nên đã
bắt bẻ Lê Ngọc Trà: “viết ngược lại điều mình vừa nói một cách đến kinh ngạc”.
Trong thực tế, ý trên của Lê Ngọc Trà là hiển nhiên không cần bàn, sự cân đối
không chỉ thường tạo ra cái đẹp mà còn là nguyên lý tạo dựng hình thể của tất
cả các sinh vật sống. Nhưng vẫn có điều ngược lại, nhất là trong lĩnh vực tạo
hình hiện đại, người nghệ sĩ còn phải
tạo ra những vẻ đẹp bằng cách phá vỡ hình ảnh cân đối của tự nhiên. Riêng tôi
nhận thấy, trong một tổng thể, để tạo ra vẻ đẹp, thường phải có sự chuyển dịch
qua lại giữa sự cân đối và bất cân đối; nếu tất cả đều cân đối sẽ tạo ra một sự
nhàm chán, đơn điệu, còn tất cả bất cân đối sẽ tạo ra sự lộn xộn.
Cũng vì không hiểu được
đúng ý của Lê Ngọc Trà, nhất là ngôn ngữ của tri thức, Trần Mạnh Hảo cũng cho
ông là mâu thuẫn, khi ông viết rằng: cái bi hài không phải là những phạm trù
thẩm mỹ có tính phổ biến mà chủ yếu là phạm trù thẩm mỹ của nghệ thuật, rồi
lại nói: chúng vượt ra ngoài khuôn khổ của nghệ thuật, thuộc lĩnh vực văn
hóa tinh thần chung của con người. Ở ý trên, Lê Ngọc Trà nói cái bi hài với
tư cách là đối tượng của lý luận sáng tạo, nghĩa là cái bi hài, nếu được một
tài năng sử dụng, có thể tạo ra được giá trị trong mọi tác phẩm, nhưng trong
thực tế, không phải chỗ nào, lĩnh vực nào cũng có thể sử dụng được. Còn ý dưới,
ông nói cái bi hài là đối tượng của sự thưởng thức giá trị nghệ thuật, ý nghĩa xã hội của chúng.
Trần Mạnh Hảo phê phán rất nặng Huỳnh Như Phương là đã đưa
ra “tuyên ngôn duy my”, là “duy tâm”, là đưa
ra “một thứ mỹ học phi vật chất”, đã “khai tử môn mỹ học”, khi
Huỳnh Như Phương cho rằng: Quan hệ thẩm mỹ (Cách nhìn, cách đánh giá) chỉ
đặt nền tảng trên cơ sở những cái đẹp
của sự sáng tạo chứ không dựa trên cơ sở của sự thỏa mãn những động cơ kinh tế,
sự mưu cầu lợi ích về chính trị, hay
chiều theo những quy luật đạo đức. Nó thanh lọc con người, tách khỏi những mối
ràng buộc vật chất, thiết lập sợi dây tinh thần với thế giới. Thực ra nói
như trên, Huỳnh Như Phương chỉ nêu ra sự
khác biệt và tính độc lập giữa giá trị thẩm mỹ của nghệ thuật và các giá
trị thông tục khác như tiền tài, địa vị hoặc đạo đức. Một nghệ sĩ sáng tạo được
những tác phẩm có giá trị dù nghèo đến mấy vẫn là một nghệ sĩ tài năng, môt
người dù giàu đến mấy mà bất tài thì dù có bỏ bao tiền ra mua cũng không thể có
tài được. Hoặc, một tác phẩm có giá trị chưa chắc bán được nhiều tiền. Viết
vậy, Huỳnh Như Phương cũng không nêu mối quan hệ sinh thành tạo tác với tư cách
triết học giữa đối tượng này đối với đối tượng kia, nên cũng không có duy
tâm hay duy vật gì ở đây. Tương tự, khi Huỳnh Như Phương nói bản
chất quan hệ thẩm mỹ khác với bản chất quan hệ đạo đức là ở chỗ, một
đằng xét các giá trị trên cơ sở sáng tạo nghệ thuật còn một đằng trên những quy
chuẩn đời thường. Như một câu chuyện viết về cái ác nếu hay sẽ đạt được giá trị
văn học, còn trong đời sống, cái ác bao giờ cũng vẫn là cái ác. Nên Trần Mạnh
Hảo kết luận Huỳnh Như Phương đã tách MỸ ra khỏi CHÂN THIỆN là không đúng với
tinh thần người viết.
VỀ LÝ LUẬN VĂN HỌC
Về phần này, Trần Mạnh
Hảo chủ yếu bàn về thơ. Từ quan niệm nền triết học cổ phương Đông với cách nhìn
trọng tổng hợp cho “vũ trụ đồng nhất” là tiến bộ hơn, cho thơ phương
Đông “không hề tách “Thực” ra khỏi “Ảo”, không phân chia trường phái… là hay
hơn, là không bị giới hạn; coi sự đổi mới thơ ca dừng lại: “Không còn gì có
thể được gọi là mới nữa”. Còn phương Tây, với một so sánh khập khễnh: “Văn
minh phương Tây đã bay hết hai ngày rưỡi để đến mặt trăng, mà người phương
Đông, cụ thể là thi hào Lý Bạch đã đi tìm mặt trăng bằng phương pháp thủy thần từ
năm 762”?! (Thơ phản thơ, tr. 238), tác giả đã cho thành tựu khoa
học vĩ đại này của nhân loại chỉ là việc “sa mạc hóa những giấc mơ”, là
một hành động thể hiện sự giới hạn của tư duy thơ ca phương Tây: “Nền thi ca
phương Tây… là nền thi ca của thế giới nhị nguyên… Nền thi ca logic, thi ca
phân tích… hầu như đã chấp nhận cái chiều hiện hữu của không gian và thời gian,
cùng tôn giáo đã chắp cánh cho khoa học đi vào vũ trụ” (tr 239, sđd).
Đây là quan niệm ngược
với quan điểm Duy vật biện chứng, nếu Trần Mạnh Hảo thực chất hiểu và lấy làm
nền tảng, sẽ không đề cao cách nhìn “vo viên” trên. Chủ nghĩa Duy vật biện
chứng coi mọi vật, mọi quá trình luôn vận động biến đổi. Cách nhìn của Duy vật
biện chứng là cách nhìn phân tích, và
chỉ có như vậy mới có thể thâm nhập được vào bản chất mọi vấn đề, mới có thể
khám phá ra những cấu trúc bên trong, nhận thấy các mặt đối lập, tìm hiểu rõ
những mối liên hệ, sự tác động qua lại, sự va đập, cọ sát của chúng,… rồi chính
như vậy mới phát minh ra được những quy
luật của sự phát triển.
Thực tế lịch sử phát triển thơ ca cũng như mọi
lĩnh vực khoa học, văn hóa của hai nửa thế giới có sự khác biệt là do chúng
chịu sự tác động của hai nền sản xuất
khác nhau: nông nghiệp và công nghiệp. Lao động nông nghiệp là
lao động giản đơn, làm theo hình mẫu của tự nhiên; còn lao động công nghiệp là lao động phức tạp, không
làm theo hình mẫu của tự nhiên mà theo hình mẫu được tạo dựng từ tư duy. Chính
vì vậy văn hóa phương Đông xưa trọng cái nhìn tổng hợp (thực chất là sự hạn chế
của cái nhìn mới ở cấp độ trực quan, cảm tính), còn văn hóa phương Tây trọng
cái nhìn phân tích (thực chất là khả năng thâm nhập vào bản chất, khả năng khám
phá). Chính vậy, thơ ca phương Đông giữ nguyên phương thức sáng tác y như nền
sản xuất nông nghiệp từ ngàn xưa vẫn giữ nguyên phương thức sản xuất, có phát
triển chăng nữa cũng chỉ là sự hoàn thiện những kỹ xảo, như người ta thâm canh
trong công việc gieo cấy. Còn thơ ca phương Tây đi sâu nghiên cứu khả năng biểu
đạt của ngôn ngữ, nghiên cứu tâm lý con người và mối quan hệ của nó với thực
tại, để đưa ra những hình thức biểu đạt khác nhau, cũng như người ta đã sinh ra
vô vàn phương thức sản xuất công nghiệp vậy. Tất nhiên đó là những nét chung,
còn đi vào cụ thể, do chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Duy tâm chủ quan, lý luận
văn học phương Tây cũng có những phần cách tân cực đoan, xa rời thực tại…Thời
hiện đại là thời của giao lưu, nền sản xuất công nghiệp của phương Đông cũng đã
phát triển, nền khoa học kỹ thuật cũng vậy, không chỉ Đông Tây mà tất cả vùng
miền, những quốc gia, những gì tốt đẹp đều được học hỏi. Những bản sắc riêng về
tinh thần được kết tinh qua truyền thống, qua tập tục, qua những đặc trưng của
không gian địa lý… sẽ được lưu giữ. Còn tất cả những gì mang tính kỹ thuật,
không chỉ khoa học kỹ thuật, mà cả trong văn học nghệ thuật, như: hội họa, âm
nhạc, phim ảnh,… kể cả kỹ thuật làm thơ, thực tế, nền văn minh phương Tây đã
tác động nhiều đến phương Đông. Đó là điều hiển nhiên không cần phải chứng
minh, không thể nói ngược lại.
Cũng
giống như việc bàn về cơ sở triết lý của
văn chương, khi bàn về lý luận văn học, nhiều quan niệm của Trần Mạnh Hảo cũng
cần phải được bàn bạc. Tác giả đã coi
tất cả các chủ nghĩa văn học phương Tây như: “trò chơi phi thân, trò
chơi leo cột mỡ, hay trồng cây chuối” (247, Thơ phản thơ), cho tất cả đã
bị vất ra nghĩa địa hoang phế. Tôi nghĩ, một người nghiên cứu văn học có một tư
duy khoa học thực thụ, không ai lại có cái phương pháp xổ toẹt như vậy. Người
ta thường phải nghiên cứu kỹ, từ cơ sở lý luận, tính phù hợp, những giá trị
tích cực hoặc tiêu cực, khả năng tồn tại, sự tác động đến sự phát triển… Tất
nhiên để làm được điều này phải có khả năng trí tuệ rất cao, còn chỉ hiểu láng
máng, rồi lại mang ra bàn đủ thứ tất sẽ sai lầm và làm rối tung mọi chuyện. Hơn
nữa, trong thời đại hội nhập, mở cửa, giao lưu văn hóa, liệu sống tại một nước
có nền văn hóa tiên tiến, chúng ta có thể tùy tiện phán xét, phỉ báng, những
trào lưu văn học của dân tộc khác đã đi vào lịch sử văn học thế giới, những tên
tuổi sáng tạo ra chúng đã thành bất tử, được người ta đặt tên đường, những bản
thảo của họ đã trở thành vật báu? Và trên thực tế, nhiều chủ nghĩa văn học nghệ
thuật ấy tuy không còn tồn tại, nhưng vẫn luôn ảnh hưởng sâu đậm và rộng rãi
đến nền văn học nghệ thuật hôm nay.
Đi vào cụ thể, dù đã viết không phải một lần về thơ siêu
thực, đã nói rải rác đây đó hơi nhiều về nó, nhưng tôi vẫn thấy cần phải
viết kỹ thêm một lần nữa. Vì hiểu biết lẫn lộn về tính siêu thực trong
thơ ca nên Trần Mạnh Hảo đã có những mâu thuẫn, khi thì chê bai phỉ báng,
khi lại coi nó như là một tiêu chuẩn cao
siêu để đánh giá: “Thi ca phương Đông, những bài hay nhất đã rất siêu thực
vì nó đạt được cái tận cùng của hiện thực” (Thơ phản thơ, tr. 247).
Cũng trong cuốn “Thơ phản thơ”, Trần Mạnh Hảo đã viết lặp đi lặp lại
những quan niệm sai cơ bản: “Thơ muốn siêu, trước hết nó phải thực đã, đi
tới tận cùng của cái thực, thơ sẽ đạt được cái siêu. Từ một con chim bay đến
cái phi cơ hoặc tàu vũ trụ con thoi kia cũng phải tuân thủ quy luật đó, huống
hồ thi ca” (tr. 11); khi phủ nhận
tập thơ “Sự mất ngủ của lửa”
của Nguyễn Quang Thiều được giải của Hội
Nhà Văn: “Muốn siêu thực mà lại không biết cách tôn trọng cái logic của sự
thực”(tr. 67); rồi khi dạy cho một tác giả là học viên trường viết văn
Nguyễn Du: “Đồng nghĩa cái phi logic và siêu thực trong thơ, không chỉ ông…
mà còn nhiều vị viết trẻ hiện nay cũng lầm lẫn như thế… Ở đây, tôi xin nói điều
cốt lõi để giúp cho ông… thêm kiến thức mà thăng tiến trong quá trình học tập
để trở thành một người cầm bút nghiêm chỉnh và đúng nghĩa nhất của nó. Rằng phi
logic là cái không hợp lý, không hợp với tiến trình tiến hóa của tự nhiên của
tư duy và của con người. Còn chủ nghĩa siêu thực… chính là cái hiện thực được
đốt cháy và thăng hoa. Bởi vì trong siêu vẫn phải có chữ thực thứ. Ví như con
diều muốn bay lên trời phải học phép buộc mình vào mặt đất (tr. 87-88).
Thực ra không phải thế, trong nghệ thuật, hiện thực và siêu thực
là hai quan niệm về phản ánh khác nhau. Hiện thực là hình ảnh cuộc sống được
phản ánh bằng ý thức, còn siêu thực (như đã viết phần đầu), bằng vô
thức, trực giác. Nên thơ siêu thực
là thơ của “tự động tâm linh”, của “giấc mơ vạn năng”, và vì thế
người ta mới cho định luật ngẫu nhiên là định luật bao trùm mọi định
luật và câu thơ của Lautréamond mới như là một “kim chỉ nam”: “Đẹp
như một cuộc gặp gỡ tình cờ của một cái máy may với một cây dù trên bàn mổ”.
Như vậy, đặc tính chính của thơ siêu thực chính là sự không tôn trọng logic của sự thực, chứ
không phải như Trần Mạnh Hảo định nghĩa một cách “đầy cảm xúc sáng tạo”
và không có chút nội hàm gì là: “Chủ nghĩa siêu thực… chính là cái hiện thực được đốt cháy và thăng hoa”!
Nếu siêu thực là hiện thực được thăng hoa tuyệt diệu thế, sao anh lại luôn phỉ
báng vậy? Khi có người phê bình, tác giả đã biện bác không có lý : “Cần phải
tiếp nhận câu “Muốn siêu thực thơ phải đi tới tận cùng tới đầu mút của
hiện thực cái đã” trên tinh thần trường cửu của thi ca phương Đông, chứ
không phải trên sự nhận thức giai đoạn của chủ nghĩa siêu thực phương Tây”
(tr. 247, Sách đd). Thứ nhất, về mặt thuật ngữ, chỉ có siêu thực phương Tây chứ không có siêu
thực phương Đông, cũng như làm sao có ấn tượng phương Đông, đa đa phương
Đông, biểu hiện phương Đông, lập thể phương Đông … được. Nếu có, chỉ có sự
áp dụng, sự ảnh hưởng. Dường như còn rất nhiều người lầm lẫn, thường coi siêu
thực là cái hư ảo. Trần Mạnh Hảo cũng vậy, khi tác giả trích những câu thơ
của Lý Bạch: “Cử bôi yêu minh nguyệt/ Đối ảnh thành tam nhân”, hoặc của
Thôi Hiệu : “Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản/ Bạch vân thiên tái không du
du”, và cho chúng có tính siêu thực gắn liền với tính hiện thực.
Đúng ra, cái bóng trăng mà Lý Bạch coi như một bạn rượu, áng
mây trắng mà Thôi Hiệu thấy từ ngàn năm vẫn còn bay không phải là
những hình ảnh siêu thực mà chỉ là hình
ảnh của những ảo giác, ảo mộng, chúng là ảnh ảo nhưng vẫn tuân
theo lô-gic của hiện thực, trăng vẫn là trăng, mây bay vẫn là mây bay. Còn hình ảnh thơ của chủ nghĩa Siêu thực
hoàn toàn khác, chúng cũng là hình ảnh của giấc mơ nhưng là giấc mơ của vô thức, chúng kết
hợp một cách ngẫu nhiên không được ý
thức, lý trí kiểm soát, nên không có
tương ứng trong thực tại. Có thể lấy câu thơ của Breton, nhà lý luận,
người viết tuyên ngôn cho chủ nghĩa Siêu thực làm ví dụ: “Trên cầu,
giọt sương có đầu mèo đưa đẩy như ru”. Trong thực tế, không thể có hạt
sương có đầu mèo được. Xin được dẫn một câu thơ của tôi cũng có thể là một
câu thơ siêu thực: “Những móng tay của nắng để lại những vết xước hình mắt
lưới/ Trên da thịt đất”, thực tế nắng cũng không bao giờ có móng tay
được. Tất nhiên, không nên đồng nhất siêu thực với cao siêu, bởi cũng
như mọi hình thức, siêu thực có cái cao siêu và cũng có cái lăng nhăng.
Khi bàn về thơ tượng
trưng, Trần Mạnh Hảo cũng chưa phân biệt được các khái niệm, thuật ngữ.
Trang 164-165 (Thơ phản thơ), tác giả viết: “Ngay cả khi lên đến đỉnh
cao nhất của mình, thơ mới vẫn còn mang ít nhiều dấu vết, thậm chí cái hồn vía
của nền thơ ấn tượng Pháp”; trang 186: “Như các nhà thơ tiền chiến bị
ảnh hưởng thơ ấn tượng Pháp”. Tôi biết tác giả muốn nói đến thơ tượng
trưng. Vì điều các nhà thơ tiền
chiến chịu ảnh hưởng thơ tượng trưng thì từ thời Hoài Thanh đến nay ai
cũng công nhận, không phải bàn cãi nữa. Nhưng anh lại không phân biệt được ấn
tượng với tượng trưng. Thực ra, trong “Thi nhân Việt Nam”,
Hoài Thanh cũng có nhắc đến phương pháp phê bình ấn tượng. Nhưng ấn
tượng và tượng trưng không phải là khái niệm đồng nhất. Chúng là hai
trào lưu văn học, nghệ thuật khác nhau. Dù rằng các chủ nghĩa trong nghệ thuật
không hoàn toàn tách bạch, nhưng những nét đặc trưng của chúng phải khác nhau.
Có vậy người ta mới chia ra. Chủ nghĩa Ấn tượng phát triển mạnh bên hội
họa, nói một cách sơ lược thì người họa sĩ không vẽ chi tiết hình ảnh sự vật mà chỉ vẽ những ấn tượng nắm
bắt được thôi, những ấn tượng này phụ thuộc rất nhiều vào ánh sáng, nên ánh
sáng là một yếu tố quan trọng trong hội họa ấn tượng. Trong văn học,
điểm chung nhất của phong cách chủ nghĩa Ấn tượng cũng gạt bỏ những hình
thức có sẵn, chỉ mô tả đối tượng trong những nét tách biệt mà nghệ sĩ nắm bắt
được qua những ấn tượng chốc lát. Còn chủ nghĩa Tượng trưng với những
đại diện: Verlaine, Rimbaud và Mallarmé… đã khá quen thuộc; nhưng hiểu
cho rành rẽ thế nào là thơ tượng trưng với nhiều người cũng không phải
dễ. Khi bàn về thơ Rimbaud và Verlaine Trần Mạnh Hảo cho là : “thi
pháp đầy chất phi lý, phi logic…tâm thần, tận thế, thấu thị, đồng bóng, cuồng
loạn, dị thường, ma xó, lạc thú”. (trang 122, Văn học-phê bình, nhận
diện). Thực tế, chỉ khi cực đoan, phần nào thơ tượng trưng mới như
vậy, còn nói chung, thi pháp tượng trưng cũng có những khả năng biểu đạt
độc đáo, cần phải hiểu rõ và đánh giá đúng. Thơ tượng trưng là thơ mà qua đó ta có thể nhận ra tính cách biểu
trưng nghệ thuật cho các “vật tự nó”; các ý tưởng trong thơ chủ yếu được
biểu đạt thông qua các biểu tượng bằng sự gợi mở, ám thị, nên thơ tượng trưng
là thơ của sự lãnh đạm và kín đáo chứ không giãi bầy, bộc bạch, thổ lộ như thơ lãng
mạn. Hoài Thanh, rồi sau này Trần Đình Sử, với con mắt của một nhà lý luận,
đã có những đánh giá rất tinh và chính xác, cho thơ Tượng trưng của
phương Tây có những nét tương đồng với thơ cổ phương Đông. Một bên: “Từng
bước gọi ra một vật thể, và như thế phơi
bầy một tình cảm” (Mallarmé), thì một bên là: “tức cảnh sinh tình”… Vậy,
phỉ báng như Trần Mạnh Hảo liệu có đúng chăng?
Trong một câu của Lê
Ngọc Trà: “Văn học trước hết không phản ánh hiện thực mà là nghiền ngẫm về
hiện thực”. Bằng phương pháp mà ai đó đã nhận xét rất đúng “phê chữ chứ
không phê ý”, Trần Mạnh Hảo lại phê phán sai Lê Ngọc Trà rất nặng, cho ông
đã phủ nhận vai trò phản ánh trong văn học, phủ nhận phản ánh luận Mác-xít.
Chỉ tại Trần Mạnh Hảo không hiểu rằng, phản ánh luận biện chứng cho
rằng: “nghiền ngẫm về hiện thực” mới chính là phản ánh đích thực.
Viết như trên, Lê Ngọc Trà muốn phân biệt và nhấn mạnh tầm quan trọng của phản
ánh biện chứng so với phản ánh của duy vật cũ, coi phản ánh chỉ
như sự “chụp ảnh” một cách bị động. Từ “trước hết” trong câu trên
cũng có ý nhấn mạnh sự “nghiền ngẫm”
chứ đâu có nghĩa là phủ nhận sự phản ánh. Tri thức là mênh mông nên người viết
thường phải nói tắt, tức viết cho những đối tượng đã có những trình độ nhất
định. Nếu Lê Ngọc Trà thêm một cái mở
ngoặc vào sau đoạn “Văn học trước hết không phản ánh hiện thực…” (theo
kiểu duy vật cũ), sẽ đỡ bị phê phán chăng? Nhưng cứ vừa viết vừa chua như
thế thì nhùng nhằng quá… Như vậy, Lê Ngọc Trà đã áp dụng đúng đắn chủ nghĩa Duy
vật biện chứng vào lý luận văn học, sao lại phê phán ?
VỀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC
Khi Huỳnh Như Phương và Nguyễn Đăng Mạnh đánh giá thơ
Mới 1932-1945 là “phát huy bản ngã đối lập với tính phi ngã của văn học
phong kiến”, Trần Mạnh Hảo đã viết một bài dài. Khi công bố trên báo và in
vào cuốn “ Phê bình phản phê bình”, đã có những bài viết công phu và
khoa học phân tích việc tác giả phê phán kiểu “duy danh định nghĩa”, “không
phê ý mà phê chữ”, nên đã phản bác không đúng ý người viết. Nếu một người
thực sự vì tính khoa học của vấn đề và thực sự trọng thị sẽ phải thay đổi.
Nhưng Trần Mạnh Hảo dường như không hiểu hoặc bất chấp, nên đã không chỉ in lại
vào cuốn sách mới bài này mà còn viết
thêm một bài nữa. Tôi buộc phải phân tích thêm đôi điều. Do Trần Mạnh Hảo có
cách hiểu sai từ gốc rễ tư tưởng, nên dù có trích dẫn bao nhiêu, phân tích bao
nhiêu vẫn không đúng ý. Ví dụ, tác giả cho quan niệm Thiên-Địa-Nhân
hợp nhất là đề cao bản ngã, là nâng con người lên ngang hàng với Trời Đất. Thực
ra quan niệm này là quan niệm triết học về sự sinh thành của vạn vật, cho tất
cả đều xuất phát từ một Bản thể đầu tiên, không có ý nghĩa nâng cái tôi
của con người lên mà đồng nhất con người với vạn vật cây cỏ. Lão Tử nói: “Trời
Đất là bất nhân, xem vạn vật như chó, cỏ”. Tác giả cũng không đúng khi cho
khái niệm Tiểu Ngã của nhà Phật là việc đề cao cái tôi cá nhân,
thực ra Tiểu ngã không phải là khái niệm chỉ một thế giới của cái tôi có
tính cách riêng của con người, mà coi con người là một thế giới thu nhỏ, là một
bộ phận, một “chi tiết” ăn thông và hoà đồng với vũ trụ, với Đại ngã. Vì
thế, Lão Tử khuyên con người sống nên nương theo quy luật của tự nhiên, còn
Phật giáo khuyên con người gạt bỏ mọi tạp niệm dục vọng. Xã hội phong kiến cũng
cho sự khiêm nhường, sự giấu mình là mặt tốt cơ bản của đạo đức. Cũng nên hiểu
ý nghĩa tương đối của nhận định: “văn học phong kiến có tính phi ngã” là
chỉ ra một đặc trưng, có tính bao trùm, nhưng không có nghĩa là nó không có
tính chất nào khác nữa, kể cả tính hữu ngã. Cũng nên hiểu “tính phi
ngã” là tính đối lập với “phát huy bản ngã” chứ không phải không có
bóng dáng của chủ thể sáng tạo. Cái tôi ở đây là cái tôi tự tại, tự tôn, không
chỉ là sự bộc lộ bản năng nhân tính mà còn là sự đấu tranh cho cá nhân, vì
quyền dân chủ và bình đẳng. Nói văn chương phong kiến có tính phi ngã là vì còn
thiếu những tính chất mà xã hội nước ta, chỉ
từ thời “thơ Mới” đến nay mới có.
Cũng vì tuyệt đối hóa ý nghĩa câu văn có ý tương đối, Trần
Mạnh Hảo đã phê phán rất nặng Nguyễn Lộc đã sai lầm, đã “vô tình hạ giá trị
thẩm mỹ vô song”, “xúc phạm cả
tới Nguyễn Du”, khi ông cho Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều “không
bằng tưởng tượng hư cấu”, mà thực ra, ý của Nguyễn Lộc cho Nguyễn Du sáng
tác Truyện Kiều không tưởng tượng hư cấu chỉ về mặt cốt
truyện. Còn cứ quyết cho kết luận như vậy nghĩa là nói Nguyễn Du không
tưởng tượng hư cấu cả những câu thơ nữa, thì làm gì có Truyện Kiều để hôm nay
tranh luận với nhau?!
Về câu thơ “Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái” của
Nguyễn Khuyến, Nguyễn Lộc viết với ý hoa nở từ năm ngoái đã khô đi còn vương
lại. Trần Mạnh Hảo cũng phê phán kịch liệt là ông đã hiểu sai thơ Nguyễn
Khuyến, cho Nguyễn Khuyến “vịnh hoa khô” như vậy thì “còn gì là vẻ
đẹp mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến nữa”. Theo Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Khuyến
đúng ra đã “nhắc lại ý của câu thơ Sầm Tham “Xuân lai hoàn phát cựu thời
hoa”…và cũng nhắc lại ý của câu thơ Thôi Hộ: “Đào hoa y cựu tiếu đông phong””
(tr. 18, Văn học-phê bình, nhận diện) . Tôi không hiểu sao tác giả muốn
bênh vực Nguyễn Khuyến, muốn tôn vinh ông lại bằng cách cho ông sao chép ý thơ người khác. Trong lịch sử văn chương,
sự phóng tác, dùng điển tích, chuyển dịch ý…là một thực tế, nhưng về phương
diện sáng tạo, phải coi đó là mặt hạn chế của cha ông chứ không nên đề cao,
không phải là điều chúng ta cần phải phát huy hôm nay. Thực chất câu thơ của
Nguyễn Khuyến chỉ “có vẻ” giống hai câu thơ Đường trên thôi, nhưng đi
vào chi tiết thì khác. Hai câu thơ
Đường là hai câu có ý nghĩa cụ thể : “Xuân lai hoàn
phát cựu thời hoa” là nói rõ “ hoa thời cũ lại nở” và “Đào hoa y
cựu tiếu đông phong” cũng vậy:“Hoa đào lại cười với gió đông như cũ”.
Ngược lại, câu thơ của Nguyễn Khuyến “Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái”
là câu không cụ thể, nên dù ý tác giả thế nào, độc giả vẫn có quyền hiểu từ sự khơi gợi của văn bản. Vì vậy, hiểu theo
Trần Mạnh Hảo: “hoa cũ lại nở” cũng được, mà theo Nguyễn Lộc: “hoa nở
từ năm ngoái khô đi còn lại” cũng được. Nhưng hiểu theo Nguyễn Lộc sẽ hay
hơn, là tôn vinh Nguyễn Khuyến hơn, vì không cho nhà thơ sao chép ý thơ người
trước. Ý thơ như vậy cũng phù hợp hơn, bởi Nguyễn Khuyến không phải vịnh hoa
khô mà vịnh mùa thu, không phải một mùa thu vui tươi hoa nở rực rỡ mà là một
mùa thu buồn, mùa thu của “trúc lơ phơ”, của “gió hắt hiu”, mùa
thu để mặc bóng trăng ra vào song cửa... Trong cái khung cảnh ấy, hình ảnh dấu
vết chùm hoa nở từ năm trước khô đi còn vương lại sẽ tương hợp hơn so với ý chùm hoa mới nở tươi hơn hớn. Còn ý Trần
Mạnh Hảo cho sau một năm mưa dập gió dồn làm gì có loại hoa nào còn lại được
cũng phải xem lại. Có thể chúng không còn nguyên vẹn, chứ sau một năm làm sao
xóa sạch mọi dấu tích được, mà hoa trong thơ cũng chỉ hoa tượng trưng, đâu biết
loại hoa nào, ở quê ai chẳng thấy những giàn mướp, những giậu mùng tơi khô
quắt, còn lại rất lâu theo thời gian.
Trần Mạnh Hảo cũng phê phán giáo sư Hoàng Như Mai đã sai lầm khi ông cho bài “Tràng
giang”của Huy Cận là ảnh hưởng thơ tượng
trưng của Rimbaud và Verlaine. Riêng tôi, khi đọc xong bài phê phán, đã
không ngờ rằng giáo sư lão thành Hoàng Như Mai lại có phương pháp phê bình tiên
tiến thế, tức là ông đã phê bình bằng con mắt của thi pháp, hơn hẳn phương pháp
phê bình của Trần Mạnh Hảo, vốn luôn coi một cách “vo viên” là, thơ chỉ có hai
loại hay và dở, mọi phương thức thể hiện là vô nghĩa. Phương pháp phê
bình của Trần Mạnh Hảo cũng như thói quen phê bình của nhiều người từ trước tới
nay thường nghiêng về phía “cảm xúc sáng tạo”, thực chất chỉ là việc nhặt
ra những câu thơ hay, ý hay, rồi bình, rồi tán. Phương pháp này có thể làm người
này người nọ thích, nhưng thực chất lại rất ít giá trị trong việc phân tích
khám phá bản chất của sự sáng tạo, định danh được sự sáng tạo. Mà chỉ với sự
phân tích khám phá như vậy, nhà phê bình mới định giá chính xác được tác phẩm,
tác phẩm phê bình sẽ có ý nghĩa hơn đối với sự phát triển của văn học. Nhiều
giải thưởng văn học được lựa chọn không từ sự thẩm định khoa học như vậy, đã
gây ra tranh cãi, và những ban giám khảo cũng không tài nào bảo vệ được. Thực
chất Trần Mạnh Hảo chưa hiểu thi pháp thơ tượng trưng nên mới phê phán
Hoàng Như Mai như vậy. Thi pháp tượng trưng, khi sử dụng những biểu
tượng để biểu đạt, đã coi mọi tính chất của vật thể có sự tương giao, nên có
thể dùng cái này để chỉ cái kia, tính
chất cái này thể hiện cho cái kia. Vậy, Hoàng Như Mai nói “cách dùng từ
của Huy Cận trong bài Tràng Giang” ảnh hưởng thơ tượng trưng là rất
đúng. Như “buồn điệp điệp”: chữ điệp thường chỉ dùng để tả sự lặp
lại kiểu “núi non trùng diệp” hay “điệp khúc”, tức là có ý nghĩa
về số lượng, nhưng Huy Cận lại dùng làm
trạng từ chỉ tâm trạng. Cách dùng “Sâu chót vót”, “Nước song song”
cũng có sự biến đổi tương tự như vậy. Cũng nên hiểu rõ, Hoàng Như Mai chỉ nói
Huy Cận ảnh hưởng thơ tượng trưng ở “cách dùng từ”, để tăng “khả
năng khêu gợi” thôi.
Còn nhiều vấn đề khác có thể bàn luận, nhưng khuôn khổ một
bài viết không thể thực hiện được, tôi chỉ bàn sâu những điều thuộc tri thức cơ
bản, bởi cho rằng, muốn việc phê bình có khả năng “chỉ lối đưa đường”,
khác với kiểu phê bình tếu táo hoặc rùm beng quảng cáo, thì phải có một nền
tảng vững chắc mới làm được. Tiếc là sự cao vọng của Trần Mạnh Hảo lại được xây
trên một cái nền không chắc chắn, nên một việc làm, cần phải thận trọng nhất,
chính xác nhất, là phê phán sách giáo khoa, cũng lại có quá nhiều sai sót không
thể chấp nhận. Khi tranh luận ai cũng phải tự tin vào mình, nhưng với Trần Mạnh
Hảo, do sự chủ quan quá đáng, coi suy nghĩ của mình là tuyệt đối đúng, nên sự
phê phán đã không còn mang tính khoa học nữa, mà có quá nhiều thái độ quá
khích, khi cho: PGS Nguyễn Lộc: “bịa ra”, “xuyên tạc văn bản”; GS
Hoàng Như Mai: “áp đặt tùy tiện”; PGS TS Lê Ngọc Trà: “ấu trĩ”, “sai
trái quá ư hệ trọng”; TS Huỳnh Như Phương: “suy diễn bạt mạng”; PGS
TS Trần Hữu Tá: “hết sức ấm ớ”… Ai cũng biết sách giáo khoa là soạn
chứ có ai nói sáng tác sách giáo khoa bao giờ đâu, mà soạn tất
phải có thu thập lắp ghép. Theo tôi đó là việc làm có trách nhiệm, bởi sách
giáo khoa là hệ trọng, cần phải lấy tinh hoa của nhiều người hợp lại, không nên
chủ quan giảng riêng theo ý mình, vậy mà Trần Mạnh Hảo cho việc đó là việc “đạo
văn”, là một hành động ăn cắp “trắng trợn”. Người viết bài này cũng
từng có thái độ gay gắt, từng mắng Trần Đăng Khoa là “xấc láo” khi Khoa
gọi Nguyễn Du, người được liệt vào hàng tiên tổ về nghề thơ, là “ông ấy”.
Nhưng tự thấy cũng chỉ nên tỏ thái độ trước những thái độ.
Điều cuối tôi muốn nói, Trần Mạnh Hảo không nên phê phán
mang tính quy kết kiểu: “phủ nhận cha ông”, rồi: “phủ nhận văn học
cách mạng” đối với những nhận xét những mặt còn hạn chế của văn học cổ, văn
học kháng chiến. Đúng sai có thể bàn. Tiếc là nhiều chỗ tác giả đã phê phán không vì sự đúng sai mà phê
phán chỉ vì muốn phê phán, đến nỗi xảy ra trường hợp, vì muốn chứng tỏ tinh thần
bảo vệ văn học cách mạng, tác giả đã phê
phán luôn ý kiến: “Do chiến tranh kéo dài, do nhận thức của văn nghệ sĩ cũng
như của lãnh đạo còn hạn chế nên văn học cũng còn nhiều mặt yếu…” mà
không biết rằng, người biên soạn đã trích từ Văn kiện của Đảng và Nhà
nước bàn về văn hóa (Nxb Sự thật, H, 1970, tr. 82)!
Bình Thạnh
Tết năm 2000