BS Nguyễn Văn Thịnh lại gởi cho tôi nhờ đăng
một bài viết. Tôi đã gặp anh, thì ra anh cũng là một nhà văn, cùng sinh hoạt
với tôi trong Hội Nhà Văn TPHCM mà tôi không biết. Nghề viết nó bội bạc thế
đấy, không phải cứ có tài là nổi tiếng, cứ nổi tiếng là có tài. Chú bé Quang
Anh có chục tuổi, lần đầu dự cuộc thi hát quy mô, thắng giải gần như cả thế
giới người Việt biết. Tôi viết văn chẵn 30 năm, được quen thân, quen biết từ
Chế Lan Viên, Nguyễn Khải, Hữu Thỉnh… đến Nguyễn Quang Thiều. Nhưng vừa rồi
đi lấy nhuận bút, anh Nguyễn Chí Hiếu, TBT Báo VNTPHCM bảo: “Mới gặp Phạm
Minh Tuấn (Tác giả Bài ca không quên- ĐL) bảo cái thằng Đông La là thằng nào
mà viết bài về Lê Hiếu Đằng hay thế!”. Nghe người ta khen mà buồn!
Còn bài của anh Thịnh viết về cuốn Bên
thắng cuộc của thằng Huy Đức. Không còn hot nữa nhưng chuyện lịch sử là
chuyện của muôn đời nên tôi vẫn đăng, bạn nào quan tâm xin vô coi. (ĐL).
|
ĐỌC & NGẪM VỀ “BÊN THẮNG CUỘC”
Nguyễn
Văn Thịnh
Nhà
báo Huy Đức nói anh để 20 mươi năm thu thập tư liệu và 3 năm biên tập cho ra
được bộ sách “Bên thắng cuộc”. Có người khen đây là “cuốn sách hay nhất về lịch sử Việt Nam sau 1975”, nói về “những sự thật khốc liệt rất trung thực”,
là “kho tàng dữ liệu quý báu có thể làm
ngạc nhiên cả những chuyên viên theo dõi chính trị Việt Nam trong nhiều thập
niên qua”, là “công trình khảo cứu
lịch sử đặc sắc của một nhà báo có tay nghề lão luyện với lương tâm trong sáng”.
Cộng với dãy dài những nhân vật tiếng tăm đủ các tầm cỡ được ghi lời cảm ơn rất
là trân trọng như một sự đồng thuận hợp tác cho ra đời cuốn sách chứng tỏ người
viết rất sành sỏi nghề quảng cáo, nắm bắt đúng thị hiếu của người xem tin.
Là một cựu chiến binh, là chứng nhân suốt chặng đường lịch sử hơn 70 năm qua
từ Bắc vào Nam, tôi có một số ý tản mạn nảy ra khi đọc nó, có thể không giống
ai nhưng cũng chẳng theo ai.
Cuốn sách đầy đặc những
thông tin dài dòng luẩn quẩn không có gì là đáng “ngạc nhiên”, “đặc sắc” và
“khốc liệt” với những người theo dõi sát thời cuộc. Non nửa những thông tin ở
đây được rút tỉa ra từ báo chí, những tin tức chuyên ngành cập nhật và những
sách chính thống đã được lưu hành. Quá nửa là những tin tức “lượm lặt gần xa”,
đa phần “khẩu thiệt vô bằng” trúng trật khó phân, mà loại tin này thì gom nhặt
không biết thế nào cho đủ. Với một phóng viên xã hội có nhiều năm hành nghề làm
việc này không khó. Có điều là nó được gom lại in ra thành sách và tung lên
mạng trong bối cảnh xã hội lúc này, người hỷ hả hân hoan, người hoang mang lung
lạc.
Những thiếu
sót sai lầm của Đảng cầm quyền hầu như ai cũng biết trong sinh hoạt từ nội bộ
ra ngoài xã hội, được tổng kết trong các nghị quyết và công khai trên các
phương tiện truyền thông rộng hẹp. Suy cho cùng là từ trình độ lãnh đạo. Từ đó
để mất dần niềm tin gây nên tâm trạng bất bình trong một bộ phận không nhỏ đảng
viên và dân chúng.
Tuy nhiên nhân dân ta rất tốt và yêu nước, đã cùng với Đảng vượt qua mọi gian
khổ hy sinh giành lại Tổ quốc Việt Nam thống nhất, hòa bình, độc lập, tạo được
những đổi thay xã hội đáng kể tuy chưa xứng với tiềm năng công sức, có vị thế
quốc gia được tôn trọng như hôm nay. Nhưng đã đến lúc Đảng lãnh đạo nhận ra
rằng uy tín của Đảng đang giảm sút nghiêm trọng và sự tồn vong của Đảng tùy
thuộc vào tiến độ sửa chữa sai lầm lấy lại niềm tin, nói và làm nhất quán, xây
dựng nhà nước pháp quyền công khai minh bạch, chăm lo phòng thủ quốc gia, mở
rộng dân chủ, thật sự đẩy lùi tham nhũng, thu hẹp khoảng cách giữa giàu với
nghèo, thiết thực chăm lo sức dân bằng cách trả lại đúng giá trị giữa đồng
lương danh nghĩa và lương thực tế, bảo đảm phúc lợi xã hội như học hành, chữa
bệnh, việc làm…, nâng cao dần mức sống của nhân dân, tăng cường sức chiến đấu
xứng đáng với một Đảng có truyền thống cách mạng vẻ vang.
Tất cả gom lại là như
thế, cần chi kể những chuyện dông dài kín hở từ cung đình tới phố phường quán
chợ phân tâm lòng người giống kiểu mô tả sống thế nào để sanh con? Mỗi lời nói
hay sự kiện đều có ngữ cảnh, bối cảnh riêng. Trích dẫn một lời nói hay dẫn
chứng một sự kiện phải tôn trọng đặc điểm ấy để người đọc hiểu đúng tinh thần
của người nói và bản chất của sự kiện. Báo Tuổi trẻ ngày thứ bảy 19/1/2013 có
bài “Không hố sâu thật sự” của nhà báo Lưu Đình Triều – người đồng nghiệp lớn
tuổi hơn, nói về chuyện Huy Đức dựa vào tình cảm bạn bè để khai thác và đưa tin
xuyên tạc về gia đình anh. Bao nhiêu nhân chứng “cộm” được nêu ra hoặc đã thành
người thiên cổ hoặc không biết nhà báo đó là ai! Giới viết lách hiểu rất rõ
rằng nếu Thủ tướng Võ Văn Kiệt muốn viết hồi ký thì cỡ Huy Đức chưa phải là
người ông nghĩ đến. Một chuyện nhỏ ấy đủ để người đọc đánh giá Huy Đức “rất
trung thực” và “lương tâm trong sáng” cỡ nào!
“Bên thắng cuộc” là ai?
Cần hiểu dứt khoát rõ ràng đây là nhân dân Việt Nam thắng thế lực ngoại bang xâm
lược. Một ngày tháng 5/1975, TBT Lê Duẩn trong chuyến đầu công du miền
Nam, buổi thăm bệnh viện Vì Dân (Thống Nhất ngày nay), gặp một nữ y tá tất tả
đi trên hành lang, ông dừng lại hỏi: - Đi đâu mà vội thế? - Em đi học chính
trị! - Học thấy thế nào? - Dạ, thấy rằng chúng em có tội vì đã hợp tác với quân
Mỹ xâm lược tổ quốc ta! Ông buồn, nói với các cán bộ tiếp quản: “ Các anh dạy
tào lao! Phải làm cho mọi người hiểu rằng đây là chiến thắng chung của toàn dân
tộc để ai cũng ngẩng đầu lên tự hào. Không lẫn lộn nhân dân với số người sống
bám vào ngoại bang chống lại sự nghiệp thống nhất độc lập của Tổ quốc ta”. Càng
không thể hiểu là “cộng sản thắng quốc gia” hay là “miền Bắc thắng miền Nam”.
Đó là thắng lợi của chính nghĩa chống phi nghĩa. Trong hoàn cảnh
chiến tranh quyết liệt lâu dài, ý nghĩa của cặp từ “cộng sản”, “quốc gia” đã bị
xuyên tạc và ngộ nhận. Mục đích đấu tranh của những người yêu nước chân chính
thời nào cũng nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc. Nếu những người cộng sản xa
rời mục tiêu ấy không thể tập hợp được quảng đại dân chúng ủng hộ mình. Những
ngày đầu dựng nước cam go, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Không giải phóng được dân tộc thì làm sao giải phóng được giai cấp”.
Thực tế nhân dân đã quay lưng lại với những ai ngộ nhận là “quốc gia” chỉ nhằm
mang lại lợi ích cá nhân hoặc một nhóm người. Nửa sau thập kỷ 1950, trong bối
cảnh điên cuồng tàn sát những người yêu nước lại muốn làm sạch mặt chính quyền,
trước thuộc hạ Ngô Đình Diệm nói câu nổi tiếng: “Phải giành lại chính nghĩa từ tay cộng sản!”. Chính nghĩa là nguyện
vọng độc lập dân tộc thống nhất non sông trải hàng thế kỷ những người Việt Nam
yêu nước trong bất kỳ hoàn cảnh nào luôn son sắt một lòng. Ngay cả nhân dân
Pháp và Mỹ cũng nhận ra cuộc chiến tranh ở Việt Nam do chính giới nước họ gây ra là
phi nghĩa và quyết liệt đòi rút ngay con em trong đội quân viễn chinh về nước!
Hồi ký của GS Trần Thanh Đạm kể rằng: Ngày đầu, trong đoàn Bộ giáo dục gặp gỡ
các thầy cô dạy trường Sư phạm văn khoa Sài Gòn. Sau khi nói về việc ổn định
trường sở và bước đi tiếp của nhà trường, hướng về giáo sư Nghiêm Toản – bậc
trưởng thượng trong làng sư phạm cả Bắc và Nam đều biết: “Thầy có ý kiến gì
không?”. Vị giáo sư Hán học uyên thâm khả kính lắc đầu từ tốn: “Tôi đã bỏ chính
nghĩa mà đi thì còn gì để nói!”. GS đã trong đoàn người di tản vào Nam
1954. Sau 1975, không ít nhà trí thức tâm huyết cũng rời bỏ đất nước ra đi, mỗi
người một tâm trạng nhưng lòng yêu tổ quốc Việt Nam vẫn khôn nguôi ngoai trong họ.
Kẻ sỹ Việt Nam
trong những thăng trầm của lịch sử dù đứng ở đâu luôn trăn trở với vận mạng của
đất nước và mang nặng một lòng riêng u ẩn. Câu hỏi lớn về Tổ quốc chưa có lời
giải nào trọn vẹn. Nhưng một điều chắc chắn là không bao giờ họ đối lập với dân
tộc của mình!
Học giả Hoàng Xuân Hãn
tổng kết: lịch sử ngàn năm dựng nước của dân tộc ta có 14 cuộc chiến tranh bảo
vệ tổ quốc, trong đó chỉ có hai cuộc chiến tranh giải phóng là thời Lê Lợi
chống quân xâm lược nhà Minh và thời Hồ Chí Minh chống quân xâm lược Pháp và
Mỹ. Phát động người người đồng lòng đứng lên chống lại khi giặc đã vào ở nhà
mình, sân trước vườn sau nó chiếm, ai chống lại thì nó giết, ai xuôi chịu thì
nó tha mà phải làm theo ý nó, có người được nó ưu ái tin dùng, sinh chuyện anh
em một nhà đố kỵ lẫn nhau tan đàn xảy nghé! Giặc kia lại đến từ các quốc gia
lớn, giàu và văn minh, càng ở lâu càng sinh lắm chuyện. Đuổi được nó đi không
là chuyện dễ, phải có lòng yêu nước nồng nàn và chấp nhận mọi gian khổ hy sinh.
Nhưng khi giặc bỏ chạy rồi vẫn còn lắm chuyện rối rắm phức tạp anh em hòa hợp
không dễ một sớm một chiều. Cuộc chiến tranh giải phóng vừa qua diễn ra như thế
dù là do nhân dân ta đứng lên đoàn kết chiến đấu tự giải phóng cho mình. Nói “miền
Bắc giải phóng miền Nam”
là xúc phạm tới lòng yêu nước truyền thống Việt Nam. Dân tộc ta đã đau đớn chịu
đựng cuộc nội chiến phân tranh Trịnh-Nguyễn kéo dài hơn 200 năm. Sáu lần quân
Trịnh và một lần quân Nguyễn vượt sông Gianh đều phải rút về. Nhân lúc ở Đàng
Trong chúa Nguyễn thoái, quân Tây Sơn nổi lên, ở Đàng Ngoài chúa Trịnh suy,
Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc phò Lê diệt Trịnh, xong rồi lại rút ngay về Phú Xuân
chỉ mang theo công chúa Ngọc Hân. Đến khi quân Thanh kéo vào dày xéo lên nửa
phần phía Bắc của Tổ quốc thiêng liêng thì mọi người dân Việt không phân biệt
Nam-Bắc, xóa bỏ mọi xích mích tị hiềm đoàn kết nhau lại. Nguyễn Huệ chỉ một
trận hành binh thần tốc “đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”.
Tướng giặc Tôn Sỹ Nghị nhảy lên ngựa không yên bỏ mặc 20 vạn quan quân tháo
chạy! Sông Hồng ngập đầy xác giặc như cá chết trôi! Giang sơn nước Việt thâu về
một mối.
Sâu xa mà nói, cuộc
kháng chiến chống xâm lược phương tây lần này khởi đầu từ năm 1858 khi quân
Pháp nổ súng đánh chiếm thành Đà Nẵng và bùng lên thành cao trào khi Phan Thanh
Giản lừa vua phản dân ký hàng ước 1862 (Nhâm Tuất) bán đứng ba tỉnh miền Đông
và tiếp đó năm 1867 (Đinh Mão) qua lời tuyên cáo đầu hàng nhục nhã với một dân
tộc ba lần đại phá quân xâm lược Nguyên-Mông: “Người Phú-lang-sa có chiến thuyền to chở đầy quân và võ trang bằng đại
bác. Không người nào có thể chống lại. Mình còn ngốc khi mình đánh lại người
Phú-lang-sa bằng võ khí. Các quan văn cũng như các võ tướng hãy bẻ gãy giáo
gươm và giao thành trì khỏi chống lại”, cống nạp nốt ba tỉnh miền Tây, biến
lục tỉnh Nam kỳ thành thuộc
địa của Pháp, mở đầu quá trình Việt Nam mất nước! Phong trào toàn dân
đánh giặc giữ nước khởi từ địa đầu phía nam này lan ra cả nước và chưa bao giờ
tắt. Thế chiến II nổ ra, nước Pháp phản bội Đồng minh đầu hàng phát xít Đức và
Nhật. Năm 1945, nhân dân Việt Nam nhất tề đứng lên giành lại độc lập và thực
hành quyền dân tộc tự quyết. Được người Mỹ đồng tình, Pháp đưa quân tái chiếm
Việt Nam, lần thứ hai miền Nam lại nổ
tiếng súng đầu kháng Pháp. Không ít trí thức Nam kỳ vứt bỏ “làng tây” như Thái
Văn Lung, Nguyễn Ngọc Nhựt, Phạm Ngọc Thạch, Phạm Ngọc Thuần, Phạm Ngọc Thảo...
kiên quyết đứng về phía nhân dân giữ gìn tổ quốc. Ông Lưu Văn Lang (1880-1969)
mà giới trí thức Nam kỳ tôn
kính như người anh cả, đã từ chối lời mời đứng ra thành lập chính phủ đầu tiên
tái lập Nam
kỳ với lời khảng khái: “Tôi đã quá già để
làm tay sai!”. Sau hiệp định Genève 1954, những người yêu nước miền Nam lại đứng
lên đấu tranh tự bảo vệ mình và đòi hòa bình thống nhất nước nhà tiêu biểu như
Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát... Người Mỹ từ can thiệp đến dấn chân ngày càng
sâu, cuối cùng nhảy vào thay thế hoàn toàn quân Pháp. Để thích nghi với hoàn
cảnh thế giới mới, người Mỹ không áp dụng “Chủ nghĩa thực dân cũ” như người
Pháp (dùng quân đội và bộ máy thống trị ngoại bang) mà thay thế bằng “Chủ nghĩa
thực dân mới” (tổ chức quân đội và chính quyền tay sai thông qua viện trợ quân
sự và kinh tế). Người Việt Nam
không dễ bị mắc lừa. Người Mỹ buộc phải tiến hành cuộc “Chiến tranh cục bộ” với
gần 600 ngàn lính GI (quân chính phủ liên bang) và lính Đồng minh. Nhân dân
Nam-Bắc càng một lòng kề vai sát cánh bảo vệ tổ quốc chống xâm lăng. Kết cục là
quân Mỹ “rút lui trong danh dự” bằng
cách “thay màu da những xác chết” để kết thúc bằng cuộc tháo chạy tán loạn chưa
từng thấy trong lịch sử chống ngoại xâm của người Việt Nam. Đó là chiến thắng
của tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, cốt lõi của truyền thống
Đại Việt mới có thể tồn tại qua bao biến cố thăng trầm.
Đã nói chuyện lịch sử
phải công bằng, nghiêm túc và không thể bỏ qua điều kiện lịch sử cụ thể của nó.
Chiến thắng 30/4/75 không là cuộc vui vẻ xuống đường của những người từ rừng
hối hả kéo nhau về xuôi vượt bưng biền, lội kênh, băng lộ, lên ngồi nhờ vắt vẻo
trên xe đò chạy thẳng vào dinh Độc Lập nhận sự đầu hàng. Bao nhiêu chuyện phát
sinh sau đó ở cả hai phía, nó như hai mặt của một trang giấy mà nhà báo Huy Đức
chỉ lật ngược cho mọi người xem mặt trái. Chiến tranh tất nhiên sinh ra những mối hận
thù, càng lâu càng chồng chất. Một đội quân lớn tinh binh tinh nhuệ được trang
bị vũ khí, kỹ thuật tối tân tự tan rã chỉ trong một ngày, hàng triệu tướng lĩnh
quan quân tản vào trong dân chúng khắp chợ cùng quê. Trải ba chục năm liền đối
đầu sống mái mà không có cuộc “tắm máu” thậm chí
chỉ là những cuộc trả thù lẻ tẻ đã chứng tỏ tính chính nghĩa của người chiến
thắng. Suy cho cùng cũng là “chiến thắng đặc biệt của tình cảm dân tộc
Việt Nam”.
Có nỗi vui mừng nào hơn thế nữa? Hãy nhìn qua bên kia biên giới tây-nam
với họa diệt chủng xảy ra cùng thời điểm ấy? Và hãy xem lại trang sử thế
giới không xa – thời Thế chiến II (1939-1945). Chỉ sau bốn năm, quân kháng
chiến lưu vong theo quân Đồng minh tiến về giải phóng nước Pháp khỏi sự chiếm
đóng của phát xít Đức trong không khí hằn thù bạo lực: Toàn bộ chính phủ Vichy bị lôi ra trước pháp
đình. Án nặng nhất tuyên cho những kẻ cầm đầu như Thống chế Pétain, mặc
dù đã từng là người hùng của nước Pháp trong thế chiến thứ nhất (tuy nhiên vì
đã quá già nên bị đày ra đảo cho tới chết), viên Thủ tướng Laval, nhà văn Bonnard
– Tổng trưởng Giáo dục… đều bị treo cổ trước đám đông dân chúng, mãi mãi là vết
nhơ trong lịch sử dòng dõi Gaulois. Các phần tử từng cộng tác với chính quyền
Đức khủng bố những người kháng chiến kể cả số gái chuyên làm trò giải trí cho
quân phát xít đã bị những người du kích hành quyết ngay trên đường phố! Ai
cũng biết quân giải phóng Việt Nam
do Đảng Cộng sản tổ chức, chỉ huy nhưng những chiến sỹ giải phóng được nhân dân
các vùng bị chiếm đóng vui mở rộng lòng như đón những đứa con xa mẹ từng chịu
bao gian lao anh dũng chiến thắng trở về. Khác hẳn cảnh khi quân đội Mỹ giàu có
hùng hổ từ các chiến hạm Thái Bình Dương ào ạt đổ bộ lên chiếm đảo Okinawa, đã
có hàng trăm ngàn người kể cả binh sỹ và thường dân Nhật mổ bụng tự sát bởi lo
sợ bị trả thù. Khi quân Đồng minh đặt chân lên kinh đô Tokyo, hàng ngàn phụ nữ tự nguyện phô thân đủ
kiểu trước Hoàng thành, khuyến dụ kẻ chiến thắng không cho xúc phạm tới Nhật
hoàng. Sau này người Nhật có nhiều Mỹ lai một phần là thế.
Trước đó, năm 1945, khi mới giành được chính
quyền, Cụ Hồ mời cụ Huỳnh Thúc Kháng từ miền Trung ra Hà Nội. Vừa đặt chân tới
thủ đô, cụ Huỳnh tuyên bố: “Cụ Chủ tịch thuộc hàng con cháu, tôi sẽ khuyên
Cụ nước ta không thể đi theo con đường cộng sản!”. Chỉ sau một đêm thày trò
bên nhau rủ rỉ, lấy đại sự quốc gia dân tộc làm trọng, cụ Hồ đã thuyết phục
được và cụ Huỳnh là người hợp tác tích cực và tâm đắc nhất với cụ Hồ cho tới
trọn đời. Cụ Huỳnh – vị đại trí thức từng vào tù ra khám vì dám cổ vũ phong
trào “cự sưu kháng thuế”, từng là nhà báo cương trực tiếng tăm, là bạn tâm giao
với cụ Sào Nam, cùng với các cụ Trần Cao Vân, Phan Châu Trinh được mệnh danh là
“nhóm tam hùng” của đất Quảng Nam… lung lạc cụ đâu có dễ! Nhân dân ta không hề
ân hận vì đã tin đảng Cộng sản, một lòng với Đảng vượt qua mọi thử thách chông
gai hoàn thành sự nghiệp hòa bình thống nhất đất nước và đang đồng hành với
Đảng trên con đường xây dựng một quốc gia thống nhất độc lập trong một xã hội
dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Trái lại nếu Đảng cầm quyền
không giữ trọn được niềm tin với dân với nước thì chẳng những sẽ chỉ là rất ân
hận mà còn mang tội với bao lớp tiền bối tiền nhân. Cụ Hồ nói: “Một người
tốt chưa hẳn sẽ tốt mãi nếu không luôn biết sửa mình. Một tổ chức mạnh chưa hẳn
sẽ mạnh mãi nếu không còn được lòng dân”. Tin rằng những lớp người kế tục
mãi mãi ghi nhớ lời dạy của người sáng
lập luôn biết sửa mình để giữ được lòng dân. Người xưa dạy: “Dân vi quý – Xã tắc thứ
chi – Quân vi khinh”. Lịch sử quốc gia nào cũng trải nhiều triều vua nhưng chỉ
một dân tộc trường tồn trong lòng Tổ quốc.
Không chỉ một Huy Đức từng đưa cuộc nội chiến
Hoa Kỳ (1862-1865)
ra
làm tấm gương soi. Trước hết đem cuộc chiến chống phân ly Nam-Bắc của
nước Mỹ so với cuộc chiến trường kỳ chống xâm lăng của dân tộc ta 1945-1975
thật chẳng hợp chút nào, bởi lẽ về bản chất hai cuộc chiến ấy khác nhau hoàn
toàn. Ở Mỹ là cuộc nội chiến thật sự chống sự ly khai đất nước. Chúa cứu thế Mỹ
Abraham Lincoln nói: “Một gia đình bị
chia rẽ thì không thể đứng vững được. Một chính phủ không thể mãi mãi một nửa
là tự do và một nửa kia là nô lệ. Tôi không muốn cho Liên bang tan rã. Tôi cũng
không muốn cho gia đình sụp đổ. Nhưng tôi muốn cho nó chấm dứt chia rẽ”.
Thắng lợi của người Bắc Mỹ là thắng lợi
của tư tưởng tự do tiến bộ với tư tưởng bảo thủ duy trì nô lệ mà trên cơ sở đó
cả Bắc và Nam Mỹ đều có cơ hội vươn lên mạnh mẽ. Khác hẳn cuộc chiến tranh giải
phóng của chúng ta. Sự thật lịch sử là nếu không có đội quân viễn chinh xâm
lược Pháp thì không thể có cái gọi là “quân đội quốc gia” của phế đế–quốc
trưởng bù nhìn Bảo Đại. Và nếu không có bàn tay của phù thủy Mỹ thì cũng không
thể có cái gọi là “chính phủ” và “quân lực Việt Nam cộng hòa”. Bản chất của đội
quân vong bản ấy đã được Nguyễn Văn Thiệu – viên Tổng tư lệnh tối cao của nó lộ
ra trong giờ phút chót: “Người Mỹ đưa
viện trợ nhiều thì chúng tôi đánh nhiều, còn đưa ít thì chúng tôi đánh ít. Nếu
Hoa kỳ không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng,
một năm mà chỉ sau ba giờ chúng tôi sẽ rời khỏi dinh Độc lập”! và được viên
tướng bốn sao Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên phụ họa: “Chúng ta không có trách nhiệm về cuộc chiến tranh này. Trách nhiệm
chiến đấu ở đây là người Mỹ. Chính sách đó do họ đề ra. Chúng ta chỉ làm theo
họ mà thôi!”. Những người tưởng rằng mình chiến đấu thật sự vì lý tưởng
quốc gia không khỏi xót lòng cay đắng đã lầm lỡ nhập vào một đội quân thật đấy
mà giả đấy! Cái chết ấm ức của ai chỉ là cái “gan” của kẻ võ biền chứ không thể
là cái “dũng” của người tướng “tuẫn tiết” như tấm gương “vị quốc vong thân” của
các đấng tiên liệt Võ Duy Ninh, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Trương Định…
Trái lại từ khi Chủ tịch
Hồ Chí Minh phát lời “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh nước
Việt Nam mới thì trên đất nước này chỉ có một đội quân thật sự từ nhân dân mà
ra, vì nhân dân mà chiến đấu duy nhất. Đội quân khởi đầu từ những chiến sỹ tự
vệ hợp thành các đội du kích, trưởng thành Đoàn Vệ quốc quân, Đoàn Giải phóng
quân và Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay, đi từ thắng lợi phòng vệ buổi đầu
tới thắng lợi cuối cùng là “đánh cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào”, non sông nước
Việt một lần nữa sạch sành sanh bóng quân xâm lược! Không ít chiến sỹ của đội
quân trung thành yêu nước ấy đã ngã xuống trên mọi miền của tổ quốc, xứng đáng
được ghi công và tôn vinh đời đời như những anh hùng liệt sỹ.
Lịch sử Mỹ thừa nhận
rằng Tổng Thống A. Lincoln lệnh cho quy tập 7.000 binh sỹ chết trận của cả hai
bên thắng bại đều được đưa vào chôn xen kẽ trong cùng một khu mộ có tấm bia đề
“Nơi đây là chỗ nằm xuống của tất cả những người vì nước Mỹ” tại Nghĩa trang
quốc gia Arlington, là điều thế gian chưa từng thấy xưa nay. Đó là việc làm hàm
chứa ý nghĩa chính trị lớn xuất phát từ nội tình nước Mỹ đang cần thiết cất bỏ
đi gánh nặng của ý muốn phục thù đặng an dân, ổn định xã hội nhanh chóng hướng
đến việc phát triển đất nước. Nói rằng xuất phát từ tính nhân văn – nhân bản
thì tại sao sau đó những “đồng bào nổi loạn” ở miền Nam vẫn bị tước quyền bàu
cử và những người Cộng hòa cấp tiến vẫn bằng mọi cách khống chế những kẻ chiến
bại ngoan cố và dùng cả vũ lực khi cần? Trải một thời gian dài hai miền nước Mỹ
mới chung nhịp thở và đồng bước song hành. Đặc biệt một trăm năm sau (1968),
hậu duệ những người Phi nô lệ mới hoàn toàn được hưởng mọi quyền công dân bình
đẳng với người da trắng đúng lúc nước Mỹ đang rất cần có lính quân dịch đưa
sang Việt Nam!
Và thêm 20 năm nữa (1988) với những người cầm đầu phe ly khai mới được ân xá về
tội lỗi của họ.
Huy Đức khai thác cả những tiểu tiết vụn vặt
trong các sự kiện như là cải tạo và những trại tập trung, vượt biên, nạn kiều…
có nhằm để khuấy động lên những cảm xúc bi thương uất hận? Thật sự đó là nỗi
đau khôn nguôi với từng cá nhân, gia đình và cũng là trang sử buồn của đất nước. Tuy nhiên
có điều tránh được và cũng có điều khó tránh. Không thể phủ nhận rằng
cuộc cách mạng nào cũng nhân danh sự công bằng bác ái nhưng bị kích động cực
đoan hoặc vì tư thù hay vụ lợi đã xảy ra không ít điều bất nhẫn, làm mờ đi cái
thiện căn của nó và hằn sâu những hận thù. May thay lịch sử chỉ diễn ra
có một lần!
Nếu như lấy mốc
30/4/1975 để phân định lịch sử Việt Nam hiện đại thì trước đó là vô cùng “khốc
liệt” và sau đó là vô cùng “phức tạp”. Không thể có sự vô tư và công bằng nếu
chỉ nêu ra những lầm lỗi chủ quan một bề mà không xem xét tổng thế những sự
kiện khách quan đưa tới. Rõ ràng là cả hai miền Nam-Bắc trước đó đều sống nhờ
vào nguồn viện trợ “vô tư, phong phú, toàn diện” của các nước lớn bỗng bị cắt
phăng tất tần tật cũng chỉ trong có một ngày! Trong khi những hành động phục
thù như “chuyển lửa về quê hương” diễn ra từ mọi phía! Tiếng súng của cuộc
chiến tranh bản chất là “khủng bố” của những kẻ phản bội đã bắn vào lưng chiến
sỹ ta khi đang hướng vào trận chiến quyết định cuối cùng và tiếp đó lại rộ lên
ở cả hai đầu đất nước! Song hành với chính sách kích động nhân tâm vượt biên và
cấm vận nghiệt ngã kéo dài hàng chục năm càng làm cho dân tình khốn đốn, có lúc
tưởng như là bế tắc. Tất cả đều có người Mỹ làm chỗ dựa. Trong tình cảnh ấy có
ai nghĩ rằng Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội “bình thường hóa quan hệ” với Mỹ ngay từ
năm 1978 chỉ là sự lừa dối nhau thôi. Đô đốc Elmo R. Zumvalt người từng là tư
lệnh Hải quân Mỹ ở Việt Nam
cùng hai con trai đều tham chiến ở Việt Nam. Trung tá James Zumvalt – tác
giả cuốn sách nổi tiếng “Chân trần chí thép” nói thật lòng
rằng: Dù cuộc chiến đã kết thúc nhưng suốt nhiều năm sau đó ông vẫn mang nặng
những định kiến hận thù sâu xa với đối phương. Cho đến năm 1994, khi cùng cha
qua Việt Nam, trong đầu ông
vẫn “luôn có một niềm tin xác quyết rằng
trong chiến tranh Việt Nam
lực lượng phi nghĩa đã chiến thắng phe chính nghĩa”! Những phút đầu tiếp
xúc với những người từng là thù địch, trong ông “cơn giận giữ không ngừng dâng lên và nghĩ rằng lẽ ra họ không được đứng
trước mặt tôi với tư cách là người chiến thắng – bởi đó chỉ là số phận, định
mệnh chống lại chúng tôi mà thôi”. Dù rằng cha ông đã nhận ra sai lầm sớm
hơn khi đứa con trai cả của ông bị chết vì nhiễm chất độc dioxin trong thuốc
diệt cỏ mà chính ông là người ra lệnh làm việc đó. Cuộc tìm hiểu kiên trì gần
20 năm, James qua lại Việt Nam hơn 50 lần, tiếp xúc với gần 200 nhân chứng là
du kích địa phương, bộ đội chủ lực, từ sỹ quan chỉ huy chiến thuật đến các
tướng lĩnh tầm cao chiến lược, thường dân là nạn nhân chiến cuộc… Cái nhìn về
cuộc kháng chiến của người Việt Nam, về con người Việt Nam với ông đã hoàn toàn
thay đổi: “Thật không may cho người Việt
Nam, đất nước họ đã bị nước Mỹ chọn để dựng chiến tuyến chống cộng sản”
và khẳng định: “Việt Nam chưa bao giờ là mối đe dọa với nước Mỹ. Họ đơn giản chỉ muốn
chúng ta trở về nhà”! Đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với một nhà báo
nước ngoài khi cuộc chiến ở lúc gay go nhất: “Chúng tôi không muốn là người chiến thắng. Chúng tôi không muốn là anh
hùng. Chúng tôi chỉ muốn điều duy nhất là họ (quân xâm lược Mỹ) cút ngay khỏi
đây thôi”! Phải mất không ít thời gian lên thác xuống gềnh mới gạt bỏ được
những rào cản để có được thời điểm thích hợp thể hiện nhu cầu bình thường hóa
quan hệ của cả hai bên.
Tất nhiên những sai lầm
không nhỏ kéo dài trong việc quản lý kinh tế, tổ chức xã hội… càng làm cho
những khó khăn thêm chồng chất nặng nề hơn mà nạn nhân của nó không phân biệt
bất kỳ ai đang sống trên mảnh đất chưa nguôi khói bom và nhiễm đầy hóa chất
này. Ai đó nói rằng sau 30 tháng Tư “hàng triệu người sung sướng thì cũng có
hàng triệu người đau khổ” (!) là quay lưng lại với những người từng che chở cưu
mang họ khi còn trứng nước. Hòa bình đến với mọi nhà. Ngoài những ông quan mới,
nhân dân cả nước không trừ ai vẫn trong cảnh khốn khó trăm bề bởi đủ thứ di họa
của chiến tranh đặc biệt là nhân dân vùng căn cứ kháng chiến và những người
từng hết lòng khi đất nước gian lao. Nước Mỹ thời sau nội chiến từng lâm vào
cảnh: “Toàn bộ cuộc sống chỉ là làm thế nào để khỏi chết”! Từ lời gợi ý của TBT
Nguyễn Văn Linh: “Mỗi người hãy tự cứu lấy mình!” ta có thể suy ra bối cảnh xã
hội Việt Nam
lúc đó ra sao? Một Đại tá nguyên là sỹ quan an ninh quân đội Sài Gòn, sau 12
năm cải tạo được trở về kể chuyện như sau: “Ngày ra trại cùng lúc được trả
quyền công dân nghĩa là hai bên bình đẳng. Chúng tôi tới chào ban quản giáo. Dù
sao ở lâu thì cũng có chút tình, thay mặt anh em tôi tỏ lời cảm ơn và nói thật
rằng: Đời sống của anh em chúng tôi so với trước đây thì quá khổ là lẽ tất
nhiên rồi nhưng so với các anh thì chưa chắc ai khổ hơn ai! Anh trưởng trại đáp
nửa chơi nửa thật rằng: Rất mong cấp trên sớm giải quyết xong chuyện này cho
chúng tôi được thoát nợ! Thực ra thì các anh tù trong còn chúng tôi tù ngoài mà
lại còn phải lo bao nhiêu là trách nhiệm”.
Huy Đức khéo chắp nối
những sự kiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử khác nhau cố ý làm lệch
lạc cái nhìn của người đọc và làm giảm đi ý nghĩa to lớn rất đáng tự hào của
toàn dân tộc. Anh ví “cuộc chiến được gọi là giải phóng đã mở mắt cho người dân
miền Bắc” hoặc là: “Nói miền Bắc giải phóng miền Nam
nhưng thực ra là miền Nam
đã giải phóng cho miền Bắc”! Một cách chơi chữ để chuyện nọ xọ chuyện kia lẫn
lộn! Trong khi tổ chức chiến tranh và xây dựng kinh tế là hai lĩnh vực trái
chiều nhau dù rằng mục đích cuộc chiến tranh giải phóng là để có hòa bình ổn
định đặng mà xây dựng. Đặc biệt ở Việt Nam việc xây dựng một xã hội hoàn
toàn mới lạ cùng những quy luật riêng của nó phụ thuộc không ít vào biến động
của thế giới, đúng sai thế nào hậu hồi phân giải! Chẳng hạn như chuyện “một đất
nước hai chế độ” cũng xảy ra trong hoàn cảnh thế giới đã có nhiều thay đổi và
có lẽ chỉ Trung Quốc mới dám làm và hậu hồi ra sao còn phải chờ xem. Ngày
30/4/1975, khi người con gái TBT Lê Duẩn chạy về báo tin cho cha, thấy ông một
mình ngồi lặng trong phòng đang ứa trào ra nước mắt! Trong nỗi vui đến bàng
hoàng của toàn dân tộc, Huy Đức đế vào: Giá như không có sự kiện ngày 19/4/1974
(ngày quân Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa) thì coi như chiến
thắng này là trọn vẹn kể từ khi hoàng đế Gia Long mở mang bờ cõi! Nhà báo Huy
Đức có cố tình quên đi lịch sử?! Đúng là chín đời chúa Nguyễn có công mở mang
bờ cõi. Nhưng đến lúc sa cơ, sau khi dẫn mấy vạn quân Xiêm về dày xéo phương
nam nơi tổ tiên mình mở mang bờ cõi, bị
Nguyễn Huệ đánh cho tan tác, lãnh chúa Nguyễn Ánh đã giao đứa con 5 tuổi cho
viên giám mục tây Bá-đa-lộc (Pigneau de Béhaine) làm đại diện cho mình qua cầu
viện Pháp hoàng, ký bản giao ước năm 1787 đại lược rằng: Để đổi lấy vũ khí và viện binh, Chúa lưu
vong cắt đứt Hội An và đảo Côn lôn cho Pháp kèm theo lời hứa sẽ là nguồn cung
cấp binh lính và lương thực khi nước Pháp cần qua đánh ở phương đông, đồng thời
để cho nước Pháp độc quyền ra vào buôn bán và hàng năm nộp cống vật là một
chiếc tàu như Pháp đã cho! Nếu như không có chuyện vua Louis XVI và
hoàng hậu Maria Antoinnette cùng đám bảo hoàng bị cách mạng Pháp 1789 treo cổ,
thỏa ước trên được thực thi thì như một sử gia Pháp nhận định: “Có lẽ nước
Pháp đã hoàn thành cuộc bảo hộ ở An Nam từ 100 năm trước, khiến cho về sau khỏi
phải dùng đến sự chiến tranh mới xong công việc”! Đến đời Tự Đức và các vua kế nghiệp phát triển thảo ước của
tổ vương xưa bằng những hiệp ước 1862, 1874, 1884 đã dần để mất nước! Việt Nam bị xóa tên
trên bản đồ thế giới! Người ta chỉ còn biết đến một vùng lãnh thổ Đông Pháp nằm
giữa biển Ấn Độ–Trung Hoa mang cái tên Indochine (Đông Dương) lạ lẫm. Trải hàng
thế kỷ với xương máu của bao nhiêu thế hệ con Lạc cháu Hồng mới từng bước thu
hồi lại giang sơn để quốc danh Việt Nam được sáng ngời lên. Còn chuyện
mấy hòn đảo giữa trùng khơi xảy ra trong điều kiện lịch sử rất là đặc biệt. Để
đáp lại tuyên bố của Quốc vụ viện nước CHND Trung Hoa về hải phận, trong công
hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày 14/9/1958 nói rõ ràng: “Triệt để tôn trọng
hải phận 12 hải lý của Trung Hoa trong mọi quan hệ với nước CHND Trung Hoa trên
mặt bể”, tuyệt nhiên không có từ nào công nhận quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
thuộc lãnh thổ Trung Hoa. Và ngay khi kết thúc chiến tranh, TBT Lê Duẩn qua
Trung Quốc để cảm ơn sự giúp đỡ to lớn hữu hiệu của người anh em, cũng đề cập
ngay tới việc thu hồi quần đảo Hoàng Sa. Rất là nhất quán! Những ai theo dõi
thời cuộc đều hiểu rằng những quốc gia có biển đảo đều xảy ra sự tranh chấp do
lịch sử đẻ ra và cũng chỉ lịch sử giải quyết được thôi. Chẳng lẽ đó gọi là “tay
nghề lão luyện” của một nhà báo?!
Ngay trang đầu, Huy Đức
mượn câu: “Suy cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh bên nào thắng thì nhân dân
đều bại!” của một nhà thơ như tiêu chí của tập sách này? Thực ra đó là cách nói
“nhái ý” của một nhà văn phương tây cách nay đã hai thế kỷ: “Không có cuộc
chiến tranh nào gọi là chiến thắng với các bà mẹ mất con!”. Tuy nhiên trong
chiều dài lịch sử nhân loại vẫn diễn ra những cuộc chiến tranh và sự xả thân
cao thượng vì nghĩa lớn vẫn sáng ngời lên càng làm vững nền tảng đạo đức con
người để không thành con vật!
Huy Đức không phải là
“nhà báo nổi tiếng” nhưng anh được trong giới biết tiếng giỏi dùng nghề kiếm
tiền. Tuy nhiên “chơi dao sắc có ngày đứt tay”. Ai cũng biết Hà Tĩnh quê hương
Huy Đức là một xứ nổi tiếng nghèo mà cũng nổi tiếng thời nào cũng có văn nhân
hào kiệt và phong trào chống ngoại xâm cực kỳ oanh liệt cả nước tự hào. Hẳn
nhiên trong đó cũng có sự đóng góp của bà con thân tộc dòng họ Trương của anh.
Khi mượn lời thơ của người đồng nghiệp Đỗ Trung Quân, Huy Đức nhằm ý khác mà
xem ra nó vận chính vào anh:
“Những đứa con tự nhận mình trong sạch
đang nói về quê mẹ
của mình
như kẻ ngoại nhân!”
Đã đăng trên Tuần
báo Văn nghệ TPHCM
Số 244 thứ năm ngày 07
tháng
3 năm 2013
(Có bổ sung chỉnh sửa)