Hôm nay tôi xin đăng lại cái truyện ngắn kể lại một trận đánh ác liệt
mà tôi trực tiếp tham gia, để tưởng nhớ những người bạn tôi đã hy sinh.
Chuyện thực 100%, chỉ thêm chút hư cấu cho nó thành văn vẻ.
Rất
mong các đệ tử của cô Hòa đọc cho cô nghe, có thể bằng khả năng siêu phàm cô
nhìn thấy quá khứ nhưng cô được nghe một chứng nhân sống từng trải qua cuộc
chiến như tôi kể, cô sẽ hiểu hơn những linh hồn liệt sĩ mà cô đã nhận sứ mệnh
của đấng cao xanh giúp họ đoàn tụ cùng gia đình, làm vơi bớt nỗi đau ở cả hai
cõi.
ĐÔNG LA
|
ĐÔNG
LA
Â
N N H Â N
(Truyện
ngắn)
Tưởng
nhớ Khu, Thinh
và
các đồng đội E5,QK Miền Đông
(ĐÔNG LA-Nguyễn Huy Hùng, chụp 1975)
Lại một tiết đầu đông cuối thu; trời đã lấm tấm
rét, dường như trên thinh không vời vợi có một cánh tay khổng lồ đang xắn từng
tảng không khí rét ngọt của mùa đông trộn vào cái ngôi nhà bao la, xanh thẳm,
trong văn vắt của mùa thu; như mọi lần, Huy lại lững thững trên con đường sau
làng. Anh thường chọn khoảng thời gian giao mùa này về quê, để cùng lúc có thể
gặp được cả hai: một mùa anh thích, một mùa anh thiếu.
Anh yêu mùa thu, cái mùa
có vẻ gì đó dịu dàng thanh khiết như tính cách của một thiếu phụ. Còn mùa đông?
Có lẽ, chính mùa đông mới là mùa để lại trong anh nhiều ấn tượng hơn cả. Anh
nhớ những buổi sáng co ro đi học trong không gian mù sương; anh nhớ cái cảm
giác ấm áp mà dường như chỉ trong giá rét lạnh căm ta mới nhận ra hết được ý
nghĩa của nó; và diện mạo của hạnh phúc, bất hạnh của một kiếp người như cũng
hiện ra rõ nét hơn. Thấm thoắt thời gian anh sống xa quê đã nhiều hơn cả ở quê
rồi! Anh biết mình chưa là gì, nhưng so với những người dân lam lũ trên quê, có
vẻ anh đã là một người thành đạt. Anh giống như một con đom đóm bị mất dạng
trong ánh điện phố thị chói lòa, nhưng lại tỏa sáng rực rỡ giữa đêm quê; khiến
anh về quê không phải để thăm quê, mà như đi gặp chính mình. Anh nhận ra mình
trong những tiếng xì xào, trong sự vồn vã chào hỏi: “Đẻ ra được đứa con như
bá đúng là nó mát, chứ cứ như bọn em đây nó rát lắm bà chị ạ !”. Có một bà già từng nói với mẹ anh thế. Riêng
anh, anh chẳng bao giờ thỏa mãn cả, anh đã có được những cái mà ngày xưa trong
mơ cũng không thấy, không hiểu sao vẫn thường xuyên âu lo và mệt mỏi; phải tại
cái tham vọng không cùng, hay tại cái nhịp sống đua chen quá căng thẳng nơi phố
thị? Chính những lúc ấy, hình ảnh những người dân quê chất phác lại hiện lên an
ủi anh, anh kính phục họ, bởi cuộc sống
của họ quá vất vả nhưng họ vẫn vui vẻ, nghị lực của họ cũng mới vững vàng làm
sao! Trong một đất nước có quá nhiều biến cố, chính từ những con người bình dị
ấy đã hợp thành cái sức mạnh vô địch làm nên bao kỳ tích, những người sẵn sàng
hy sinh tất cả, nhưng lại không quan tâm lắm đến việc sẽ được nhận lại cái gì!
Anh chợt nhớ đến bạn bè thuở thiếu thời, qua cuộc chiến khốc liệt, đứa còn đứa
mất... có đứa đến nấm mộ cũng không, thân thể có khi chỉ còn là một bó rễ cây
tại một cánh rừng lạnh ngắt nào đấy! Như vậy, chỉ mỗi việc anh còn được sống
thôi đã là may mắn quá rồi! Thế mà...
Cứ vừa đi vừa nghĩ, anh ra bờ sông
chọn một vạt cỏ êm, gần chiếc cầu bê tông, ngồi xuống. Vẫn còn kia cây đa cổ
thụ với những chạc ba khổng lồ có thể nằm trên đó được, từng bó râu nặng vẫn
lững lờ buông chấm mặt sông. Có điều, nó lại có vẻ rũ rượi, lá cứ héo úa, vàng
sậm; sau mỗi đợt gió chiều lăn tăn thổi, những chiếc lá quăn queo chao mình rơi
xuống lòng sông, trông như những giọt nước mắt. Người ta bảo, nó khóc một ông
già nên buồn mà sinh bệnh. Ông chính là người cuối cùng của một dòng họ, không
biết từ bao đời, đã trồng nên nó.
- Người ta bảo thế có phải không mẹ? Huy
về nhà hỏi mẹ.
- Ờ thì người ta có bảo thế.
- Nhưng ông ấy chết lâu chưa?
- Chẳng còn ai, nên không biết cúng
kiếc thế nào, cũng chẳng biết là đã 49 ngày chưa?
Anh chợt thấy nhói lên trong lồng ngực
và ngợp thở, phải thở dốc mấy cái mới bình tâm trở lại. Có phải trong cuộc mưu
sinh và rượt đuổi bao ảo ảnh phù du, anh đã trở thành một kẻ tệ hại rồi không?
***
Cuối năm 1972, sau đợt B52 đánh phá Hà
Nội, lớp học cấp III của Huy và Nhữ, sau kỳ thi đại học, tham gia đợt tuyển
quân. Riêng Nhữ được hoãn vì nhà chỉ còn một mình, người anh Nhữ mới hy sinh.
Một
đêm, chính tại chỗ mà Huy vừa ra ngồi đó, hai anh bạn cũng đã ngồi trò truyện
sau buổi khám sức khỏe:
- Có lẽ kỳ này mình cùng đi với Huy
thôi, Huy ạ.
-Thôi ở nhà đi học đại học. Học như mày thi làm
gì mà không đỗ. Có khi còn được ra nước ngoài nữa ấy chứ!
- Mình cũng chẳng có anh hùng gì đâu, nhưng
thấy các bạn đi hết, riêng mình được đi học, cứ cảm thấy hèn hèn, như là ăn
vụng một cái gì ấy!
- Mày đúng là lẩn thẩn. Không lẽ trong
chiến tranh cứ phải ra trận mới vinh quang thôi sao. Mày không nhớ thầy dậy lý
kể chuyện bác Trần Đại Nghĩa ở Viện Khoa học đấy à, bác ấy cải tiến vũ khí bắn
rơi B52 làm bọn phi công Mỹ chết khiếp! Công nhận là oách thật! Nếu không phải
đi bộ đội, tớ cũng muốn đi học để thành nhà khoa học như bác ấy.
- Ừ, thầy chủ nhiệm bảo Huy có tài
đấy, chỉ tại lười thôi, thầy bảo Huy có máu nghệ sĩ, lúc hứng lên thì học không
ai theo kịp. Kể không có chiến tranh, chúng mình cùng đi học với nhau thì vui
nhỉ? Mà tại sao lại có chiến tranh?
Huy im lặng. Lúc này anh chàng học
sinh không thể trả lời được câu hỏi quá hắc búa ấy. Mãi sau này, Huy cũng đã tự
hỏi và cũng đã tự trả lời nhiều lần. Anh thấy, chiến tranh thực chất là sản
phẩm của cái lòng tham. Những kẻ có sức mạnh dễ sinh lòng tham, khi thực hiện
cái lòng tham đó tất phải xâm phạm vào cuộc sống người khác. Và tệ hại nhất
người ta còn đưa ra một thứ triết lý về sức mạnh. Nó đề cao và biện minh
cho cái ác: bản chất của con người luôn muốn vươn tới cái siêu việt, vì thế,
tất phải giết chóc lẫn nhau để tranh đoạt! Chính vậy mới có kẻ như Hít-le từng
cho rằng, loài người sinh ra có giống thượng đẳng, giống hạ đẳng; và giống
thượng đẳng thì có quyền tiêu diệt và thống trị giống hạ đẳng! Không ngờ suốt
chiều dài thăm thẳm của lịch sử, loài người đã bị cuốn theo cái lòng tham ác
độc đó, các cuộc chiến to nhỏ đã nối nhau diễn ra và món khoái khẩu nhất của
chúng chính là máu, là thịt tươi!
Thấy Huy không trả lời, Nhữ lại tiếp:
- Để Huy đi một mình tớ cũng lo lắm. Thôi,
kỳ này cho tớ đi với nhé, cho vui!
- Mày buồn cười, lúc nào cũng cứ như
... chị tao ấy. Mà mày muốn đi thì phải hỏi thày mày chứ, rồi còn các chú ở xã
đội nữa.
- Các chú ở xã đội thì không lo, đang
tổng động viên mà, còn thầy tớ tớ cũng đã hỏi rồi. Đầu tiên tưởng ông già không
cho, không ngờ ông lại bảo, đến Hà Nội cũng còn bị bỏ bom, chiến tranh leo
thang thì dù có ở quê để tránh hòn tên mũi đạn cũng chưa chắc có tránh được, tớ
muốn đi thì đi!
Sau gần ba chục năm, cuộc nói chuyện
hôm nào vẫn còn hiển hiện trong ký ức Huy. Là người trong cuộc, chính anh vẫn
phải luôn ngạc nhiên mà tự hỏi rằng, không biết trên trái đất này có dân tộc
nào như vậy không, có một thời, thanh niên đã rủ nhau đi bộ đội, vào nơi đầu
rơi máu chảy cứ như đi trảy hội?!
***
Sau một năm huấn luyện tại vùng đồi
Quảng Ninh, đầu năm 74, đơn vị Huy và Nhữ vào chiến trường. Nửa năm đầu cả hai
đều được chọn trong số những người có học khá làm đội mẫu của Ban Quân huấn Quân
khu Miền Đông, đóng tại Chiến khu Đ. Công việc của họ vẫn là huấn luyện để diễn
tập minh họa trong những đợt chỉnh huấn.
Lúc đầu, bộ mặt ghớm ghiếc của chiến
trường chưa hiện ra trước những người lính trẻ. Mảnh đất “Gian lao mà anh
dũng” đã mang đến cho họ nhiều chuyện lạ; họ được biết nhiều loại trái cây
rừng như gùi, trường, và đặc biệt có
khu rừng toàn trái bòn bon trông như dâu
da ngoài Bắc…; họ cũng vô vàn thích
thú khi ban đêm được đội đèn đi săn cùng những bậc đàn anh kỳ cựu, rồi được
thưởng thức đủ loại thịt thú, từ heo, nai, mễn, cheo, rùa, kỳ đà đến cá sấu... Ban
ngày họ tập lại những bài tập đánh lấn, đánh công sự vững chắc, đánh binh
chủng hợp đồng,... Ban đêm, tòng teng đu đưa trên những cánh võng, dưới mái
lá trung quân; giữa nền đêm sâu thẳm, tĩnh lặng, họ nằm nghe tiếng sông Đồng
Nai rì rầm trò truyện cùng với những vách đá rêu phong, tiếng thú rừng thảng
thốt gọi bạn giữa đêm khuya... Thì ra,
giữa chiến trường không chỉ có ác liệt mà cũng nhiều thơ mộng lắm. Đó chính là
những lúc hiện về trong đáy sâu tâm khảm họ hình bóng của mẹ và những người
thân yêu, và bồi hồi hơn cả là những cô bạn gái! Dù tuổi 17, 18 ở thôn quê thời
ấy, hầu hết họ thường mới chỉ biết thập thò trước ngưỡng cửa của ngôi nhà tình
yêu, còn bao nhiêu bí mật huyền diệu, nguyên trinh vẫn được cất giấu rất kỹ
lưỡng phía sau những cánh cửa! Huy và Nhữ cũng có một người bạn gái cùng xóm
như thế. Họ chơi với nhau, học với nhau từ nhỏ. Nhưng khi người con gái đến
thời má thắm môi hồng, bộ ngực căng dần dưới lớp áo mỏng, với bản tính nhường
nhịn, Nhữ đã dần tự tách ra một khoảng cách, tạo điều kiện cho Huy gần Liên
Hơn.
Đêm đêm, đung đưa trên cánh võng,
thỉnh thoảng nỗi nhớ Liên cồn cào, da diết lại tràn ngập lòng Huy; trong xa
cách, người bạn gái hiện lên mới đẹp và hiền dịu xiết bao! Anh cũng có một buổi
chiều chia tay giống như bao chàng lính trẻ khác. Chiều ấy, cũng chỗ cây cầu, anh
ngồi đợi Liên. Ở vị trí ấy, mặt trời đỏ ối trước khi khuất dần sau đường chân
trời, len lỏi như giăng mắc ở các cành đa. Cả một khoảng trời rực lên một phông
ánh sáng đã được hơi nước tán sắc thành mầu cam sậm, vô vàn tia hồi quang muôn
hồng ngàn tía dệt nên trên đó những dải nan quạt. Lúc đó, Liên đến với anh, tóc
bay bay, rực sáng, trông Liên không phải đi mà như lướt trên mặt đất; không
phải từ một ngõ nhỏ ra mà như trên tận chín tầng trời buớc xuống, bằng chính
những bậc thang ánh sáng!... Nhưng thực sự giữa hai người mới chuyển từ giai
đoạn xưng hô “mày, tao” trẻ con sang gọi tên chứ chưa một lần nói đến chữ yêu.
Trước khi xa nhau, không thể không nói, nên Huy đã ngập ngừng:
- Kỳ này tôi đi bộ đội, Liên có buồn
không?
- Liên không buồn... chỉ... nhớ thôi.
- Thế... Liên nhớ ai?
- Hỏi thế mà cũng hỏi, ghét ghê!
- Liên ơi, hôm nay tôi muốn nói với
Liên... một chuyện... quan trọng đấy.
- Huy nói đi... không sao đâu!
- Ờ... tôi muốn nói là... là tôi...
mai đi bộ đội đấy!
- Thì... Liên biết rồi mà.
- À, đúng rồi, tôi muốn nói là... Liên
ở nhà đi học tiếp nhé. Nhớ bao giờ đi lấy chồng đừng quên tôi.
- Ứ... Liên sẽ không đi lấy chồng đâu!
Cứ thế, như bao đôi trai gái thẹn
thùng khác, điều muốn nói Huy vẫn chưa nói được. Hồi nhỏ, chí choé cấu véo nhau thật tự nhiên, nhưng
lúc chia tay, một cái nắm tay vẫn ngại. Đọc tiểu thuyết thấy chỗ nào nói đến
chữ hôn là đánh dấu thật kỹ, thỉnh thoảng lại dở ra đọc đi đọc lại; trong những
đêm trằn trọc, ngọn lửa bản năng cháy bùng lên mãnh liệt trong cơ thể trẻ trung
của những chàng trai, những “vùng cấm” trên thân thể người thiếu nữ thực sự là
thiên đường bí mật; thế nhưng trước người yêu, rất ít trai làng dám khám phá, ngay
cả việc đơn giản nhất là thực hiện một cái hôn thôi! Để rồi, sẽ lại nuối tiếc cả
một đời. Cái hôn ở thôn quê thời ấy vẫn là một điều “hệ trọng”. Giữa cánh rừng
thăm thẳm, Huy cũng thấy tiếc nuối, nếu mai đây, giả dụ trong cuộc chiến này
mình mất đi, hóa ra cái hôn mặt ngang mũi dọc thế nào vẫn chưa biết! Khỉ thật!
Huy thấy người bạn gái thật hiền, chẳng khác gì cô Tấm trong câu chuyện cổ, nhưng
cô Tấm của Huy không nón thúng quai thao, áo dài tứ thân, chỉ áo gụ, cổ trái
tim thôi... Bất chợt, những vần thơ không biết ở đâu bỗng chốc hiện về. Anh
liền đốt vội chiếc đèn dầu mà lính Miền Đông thường tự tạo bằng chai dầu muỗi,
lấy giấy bút cặm cụi viết:
Những hạt mưa mang theo mầu đêm
Rơi êm đềm trên tán cây, vạt cỏ
Những hạt mưa đều đều như nhịp thở
Làm trào lên nỗi nhớ đêm nay!
Ở nơi em mưa có đang bay?
Để mát lành vây quanh giường em ngủ...
Huy chợt giật nẩy người khi giọng Nhữ
bất ngờ vang lên:
- Ông tướng làm thơ hả, nhớ nàng rồi
phải không? Vừa nói Nhữ vừa giật tờ giấy trong tay Huy - Đưa tớ đọc thử xem
sao?
- Thơ tớ chỉ là thơ con cóc thôi, cậu
thấy đấy, hồi đi học toàn xơi ngỗng môn văn, thỉnh thoảng lắm mới được điểm
năm.
Nhưng đọc xong, Nhữ lại reo lên:
- Ô! Thơ Huy cứ như thơ của nhà thơ
chính hiệu ấy. Hay thật! Nhưng sao trời đang sáng trăng vằng vặc thế này mà lại
nói là trời mưa?
- Mày không thấy người ta bảo nhà văn
nói láo nhà báo nói phét à? Sáng tác thì phải bịa chứ! Tao viết về nỗi nhớ, nỗi
nhớ tức là phải buồn, vì thế phải nói trong khung cảnh trời mưa sẽ hợp hơn. Đấy,
tao nghĩ như thế đấy.
- Ừ, thầy dạy văn cũng bảo, muốn sáng
tác phải có năng khiếu chứ không phải cứ học giỏi môn văn là được đâu. Mà Huy
đâu phải học dốt văn, chỉ cái tội lười không thuộc thơ văn để lấy dẫn chứng khi
làm bài thôi.
- Đúng thế thật! Tao không bao giờ
thuộc nổi thơ văn trong sách giáo khoa mày ạ!
***
Thời gian thơ mộng đối với những người
lính trẻ qua nhanh, cuối năm 74, bộ mặt chiến tranh thực sự hiện ra với đầy đủ
sự hung tợn, ác liệt của nó. Lúc này, tại Quân khu bộ, những người lính cơ quan
cũng được tổng động viên, một trung đoàn được thành lập để bổ sung cho Cánh
quân hướng Đông. Cuộc Tổng tấn công vĩ đại chưa từng có trong lịch sử dân tộc
sắp bắt đầu! Huy và Nhữ vẫn được ở cùng nhau trong một trung đội thuộc C2, D74,
E5, Quân khu Miền Đông.
Sau nhiều năm, những hình ảnh của một
thời gian khổ, khốc liệt nhưng hào hùng ấy, tuy không còn mạch lạc nhưng luôn
khắc sâu những ấn tượng trong ký ức Huy. Những buổi chuyển quân vai chảy máu
khi phải vác những quả đạn to như con lợn nhỡ; mùa mưa đất đỏ bám theo mỗi bước
đi nặng trịch như đeo hai quả chùy; dốc cao trơn nhẫy, bàn chân phồng rộp, bỏng
rát, tứa máu, còn luôn bị trượt khỏi dép, đạp lên những hòn sỏi, buốt thấu đến
tận tim óc! Những đêm đào công sự sỏi trắng, sỏi đỏ chặt như nêm, cuốc chim tóe
lửa, không gì thất vọng cho bằng phía dưới lại hiện ra lù lù cái lưng tảng đá
xám ngoét như lưng con voi; giờ G đã sắp điểm mà phải bắt đầu đào lại. Những
lúc như vậy, bên Huy lúc nào cũng có Nhữ đỡ đần, thằng bạn răng hơi vổ, da hơi
đen, tính tình chu đáo như một bà chị cả, nhưng lại khỏe mạnh chắc nịch như một
tay lực điền chính hiệu. Hồi đi học, dù điểm thi thường là cao hơn Huy nhưng
Nhữ lại rất phục Huy, bởi Nhữ biết là Huy có tài. Huy ít học bài, nhưng những
bài toán khó nhất cả lớp không ai giải được, thì người lên giải sẽ lại chính là
Huy, cái thằng bạn khác người, thất thường, lầm lì, mắt xếch, vóc dáng có phần
hơi ẻo lả. Một trong những lý do có vẻ ngây ngô khiến Nhữ xung phong đi bộ đội
là để được ở bên giúp Huy, vì Nhữ thấy tính Huy không hợp với chiến tranh. Chiến
tranh cần sự cẩn trọng, chu đáo, kiên trì, kịp thời...; chiến tranh không mang
tâm hồn nghệ sĩ; nó không có chỗ cho sự tùy hứng. Viên đạn ra khỏi nòng súng
bay rất nhanh và thẳng, cứ thế xuyên qua mục tiêu, nó không biết xúc động!
Giờ đây, trong tất cả những hình ảnh
xa vợi, hỗn độn, nhòa nhạt của quá khứ, thì trong ký ức Huy, trận đánh đầu
tiên, hình bóng thằng bạn thân yêu, luôn hiển hiện rõ nét hơn tất cả.
***
Trận ấy, đơn vị của Huy và Nhữ được
giao nhiệm vụ dùng 1 tấn bộc phá giật đổ cây cầu La Ngà bắc qua sông Đồng Nai
trên một tuyến giao thông quan trọng, rồi trụ lại chốt chặn, cắt đường chi viện
của Sư 18 địch, để quân ta tiến hành chắc thắng những trận đánh phía Phương
Lâm, Định Quán. Với những người lính binh nhất 19 tuổi như bọn anh thì chỉ hiểu
được láng máng như vậy.
Đêm ấy, hai đại đội, C2 của Huy và Nhữ
và C1 thuộc D74, tiếp cận ấp La Ngà, mỗi đại đội một bên
đường, hỗ trợ cho một trung đội đặc công thủy chuyển khối bộc phá tiếp cận mục
tiêu; giờ G điểm hỏa, các bộ phận sẽ xông lên đột ấp, xây chốt...
Từ nơi đóng quân bên một khe suối, hành
quân qua những khu rẫy chuối, đu đủ trĩu quả, những rừng mía bạt ngàn, đoàn
quân rồng rắn nhấp nhô, súng đạn đầy mình, lầm lũi đi trong ánh hoàng hôn. Đến
một rẫy mía ở bìa ấp đơn vị dừng lại.
Mọi người để nguyên ba lô ngả lưng, chờ
đợi. Lúc này, Huy đã tự hỏi, không biết
rồi sau trận đánh này trở về sẽ thiếu ai, số đó có mình không? Nếu có, không
biết mặt mũi cái chết sẽ như thế nào? Những người bạn cũng đang im lặng, đang
trầm tư như anh kia, trước trận đánh đầu tiên này, không biết họ đang nghĩ gì?
Sau này, Huy đã được xem nhiều phim ảnh chiến tranh, với con mắt của người từng
tham chiến, anh thấy nhiều phim, người lính chỉ như là những mô hình để thực
hiện các ý đồ của đạo diễn: hoặc hớn hở coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, hoặc
mặt đằng đằng sát khí coi quân địch như cỏ rác. Không, không phải! Người lính
trong chiến trận không phải như vậy! Không phải ai cũng là anh hùng, ai cũng là
gỗ đá! Trước khi là lính, họ đều là, hoặc những chàng trai nông dân cù mì, đa
cảm, hiền từ, hoặc những chàng học sinh lém lỉnh; trước mỗi trận đánh, bản năng
sinh tồn trỗi dậy, không người lính nào không nghĩ đến cái chết; không ai không
sợ chết; họ rất hiểu giá trị của cuộc sống, hiểu nỗi đau để lại khi mình mất đi;
họ lo lắng cho mẹ, cho những người thân yêu... Nhưng bên cạnh đó, họ cũng lại
là những chiến sĩ được giáo dục; có ý thức rất rõ về trách nhiệm, nghĩa vụ... Tất
cả, tất cả những tình cảm, những tâm trạng, những nghĩ suy ấy đã trộn lại trong
đầu óc họ, tạo nên một trạng thái bồi hồi, náo nức, cùng những âu lo, phấp
phỏng... thật khó diễn tả.
Rồi giờ G đã điểm, một ánh chớp bỗng nháng lên
chói gắt, sáng lóa cả một vùng; một tiếng nổ long trời lở đất, như ngàn vạn
tiếng sét được bó lại đồng loạt gầm lên; nước, đất đá dưới sông Đồng Nai được
ném lên rào rào. Trong thế bất ngờ, và trạng thái kích động bởi tiếng nổ, các
mũi nhanh chóng đột ấp. Huy cố bám theo đội hình. Lần đầu tiên vào một ấp miền Nam
cũng nhiều lạ lẫm, rất nhiều cây cối lúp xúp, Huy chỉ nhận ra được cây chuối, cây
mít quen thuộc. Bàn chân, hai ống chân bị
dây thép gai và gai mắc cỡ cào
tứa máu, hai đầu gối húc vào những tảng đá nằm phục trong bóng tối sưng vù, vậy
mà Huy không cảm thấy đau đớn gì. Hình như tất cả ý thức được huy động hết vào
cái công việc cấp bách, hệ trọng, hiểm nguy, nên những cảm giác đau đớn thông
thường bị lấn át hết cả, và các đầu dây thần kinh cảm giác cũng quên mất nhiệm vụ của mình! Đến các vị trí
xung yếu: những ngã ba, đỉnh dốc, ụ đất, lùm cây... đơn vị dàn quân; cứ một tổ
ba ba, lính mới lính cũ kèm nhau, chung một hầm. Tổ của Huy ngoài Huy ra còn có
Phẩm và Dũng. Phẩm quê ở Tiên Lữ, da đen trũi, hồi ở nhà chuyên đóng gạch, người
chắc nịch như con gấu; còn Dũng là tiểu đội trưởng, một cựu binh dân Long An, từng
là du kích, đánh nhau rất chì, nhưng rất hay chửi thề. Bọn Huy rất may là tìm
được một căn hầm rất kiên cố có sẵn của dân, nó lại được một cây mít cổ thụ lúc
nào cũng như khom lưng che chở cho. Tổ của Nhữ ở bên cạnh, cách hầm Huy vài
chục mét.
Ngay sau tiếng nổ, như con thú đang
ngủ say bị đánh thức bất ngờ, bọn địch đóng ở lô cốt hai bên cầu bừng tỉnh và
lập tức nã đạn. Súng đạn các cỡ thi nhau gầm lên loạn xạ, xé không khí chiu
chíu, vạch những đường đạn đỏ lừ, loằng nhoằng đan nhau, rạch nát màn đêm. Nhưng
giữa khoảng đen bao la, chúng không thể biết đâu là mục tiêu, nên cũng chỉ bắn
hú họa, và cũng không thể đổ đạn vô tội vạ mãi được. Không gian lại trở lại im
lặng, nhưng là cái im lặng đã được kéo căng ra như sợi dây đàn, cái im lặng
trước một trận động đất, trước một cơn bão!
Sáng ra, như vừa ăn sáng, cà phê cà
pháo đàng hoàng xong, pháo địch từ bốn hướng bắt đầu khạc đạn. Một trận đánh
nhỏ đầu chiến dịch chẳng khác gì đụng vào tổ ong, tất cả các cụm pháo ở vùng
xung quanh như Định Quán, Túc Trưng, Gia Kiệm, cây số 125... bu lại, rót pháo
như giội nước; cái ấp nhỏ rung lên bần bật như một hòn đất bị vồ nện. Căn hầm
Huy nằm bên những căn nhà lợp mái tôn, pháo đụng nổ ngay trên mái. Tiếng pháo
nổ gần rắn đanh, đinh tai nhức óc, áp suất cao như dứt da dứt thịt, trộn với
tiếng những mái tôn bị đập như trăm ngàn phèng la cùng gầm lên ù tai, lộng óc. Những
tấm tôn bị dứt xé bay lên trời lả tả như những tàn giấy, rơi xuống xoang xoảng,
xoang xoảng! Không khí khét lẹt mùi thuốc súng trộn với mùi nhựa cây cháy, căn
hầm chao đảo như một tổ chim trước giông bão...
Pháo ngừng, bọn bộ binh lập tức tấn
công. Chiếc cầu không sập, hình như do bộc phá được điểm hỏa trong tình trạng
thả trôi nên nổ không chính xác. Một bộ phận bọn Sư đoàn 18 bên kia sông cứ
từng đợt, từng đợt tràn qua cầu đánh nhau với tiểu đoàn của Huy, hòng đoạt lại
cái ấp. Qua cửa hầm, Huy nghe thấy phía ngoài lộ tiếng xe ô tô và tiếng bọn
lính hô hét, chửi thề nhộn nhạo, anh cũng nhìn thấy thấp thoáng bọn chúng đầu
cát-ket, lưng ba lô, quân phục xám xanh, tay cầm súng, băng đạn quấn đầy mình, từ
trên xe nhảy xuống. Bọn địch mà anh đã được biết từ vô vàn thông tin thực sự là
như thế ư? Biết là chúng cũng thuộc giống người như mình nhưng anh vẫn cảm thấy
có cái gì đó rất khác biệt, cứ như một loại sinh vật nào đấy rất nguy hiểm mà
bọn anh cần phải tiêu diệt ngay, nếu không, chính chúng cũng đang hùng hổ lùng
sục bọn anh để tìm diệt...
Nhưng đây chỉ là những cảm nghĩ của
Huy trong trận đánh đầu tiên. Còn sau giải phóng, khi thấy bàn thờ của gia đình
bên nơi đóng quân ở Biên Hòa, để hai tấm hình thờ hai cha con ở hai phía trận
tuyến, anh đã hoàn toàn nghĩ khác. Rồi khi chuyện với Liên ở quê gãy đổ, đem lòng
yêu một người con gái Sài Gòn có gương mặt hao hao gương mặt của Đức Mẹ, anh
hoàn toàn không quan tâm đến chuyện cô có hai chú ruột, một đại úy, một linh
mục tuyên úy thuộc quân lực VNCH. Vì nghĩ rằng, số phận của mỗi con người thật
nhỏ bé, chỉ như một hạt bụi bị cuốn đi bởi con lốc cuộc đời mà thôi. Nếu anh sinh ra ở miền Nam , biết đâu
cũng có thể trở thành một người lính Ngụy! Còn trong trận chiến đầu tiên, trước
giây phút sinh tử, một mất một còn, làm sao anh có thể nghĩ một cách “nhân văn”
như vậy được, chỉ có một ý chí tiêu diệt lẫn nhau mà thôi!...
Khi bọn địch tới gần, những căn hầm
quân ta ở gần lộ đã phát hỏa. Huy chỉ nhận ra tiếng AR15 của địch nổ đanh gọn
và nhanh hơn, còn tiếng AK nổ trầm hơn và âm vang hơn, có sức uy hiếp hơn; còn
tất cả là một mớ âm thanh của B40, B41, M79, pháo, cối... hỗn loạn trộn vào
nhau, chát chúa, rú rít, gầm gào, nghiền nát sự yên tĩnh của không gian và tâm
trạng con người.
Tại hầm Huy, Dũng có kinh nghiệm nên ở
cửa hầm cảnh giới. Lúc này, không gì làm những người lính mới bình tâm cho bằng
khi được ở bên cạnh những bậc đàn anh dày dạn trận mạc. Hai người chuẩn bị sẵn
sàng ở dưới, được lệnh của Dũng sẽ đội hầm đánh địch. Một toán quân địch đang
lò dò tiến đến phía hầm của Huy. Tuy rất tỉnh táo nhưng trước giây phút lần đầu
giáp mặt với quân thù, với cái chết, cơ thể những người lính mới tự nhiên run
bắn lên, không sao kìm lại được, bản năng sinh tồn mạnh hơn nhiều lần lý trí, nghe
nói có người còn “tè”cả ra quần nữa. Bọn địch đã tới tầm bắn, Dũng hét:
- Phẩm đâu, lên bắn B40 ngay!
Phẩm lóng ngóng mang B40 lên mặt hầm, nhưng
cứ loay hoay mãi.
- Bắn ngay vào tụi núp ở gốc hồng xiêm kia!
Phẩm vẫn chưa bắn mà lại gọi Huy:
- Huy ơi, lấy tao ít giẻ đút lỗ tai, mày!
Trong tình trạng căng thẳng như vậy mà Huy còn
phải bật cười, vội xé miếng vải lau súng ngoi lên hầm đưa cho Phẩm. Đang ở dưới
được đất che chở, lên trên trống trải, Huy bỗng thấy sống lưng lạnh toát, anh
chợt hiểu cái mà người ta gọi “hở sườn” là như thế nào, và cái tâm trạng
mình là mục tiêu bị ngắm bắn là như thế nào.
Dũng văng tục:
- Đ.má! Lẹ lên! Nó liệng cho trái lựu
đạn chết ráo trọi bây giờ!
Phẩm chưa kịp bắn, còn Huy, như phản
xạ tức thời sau lời giục giã của Dũng, liền nghiến răng bóp cò khẩu AK, báng
súng thụi vào vai anh, nòng giật ngược lên trời, cả băng đạn đuổi chim cò hết! Lập
tức Huy cảm thấy đầy phấn khích, mấy tay cựu binh nói đúng thật, khi súng đã
gầm lên trong tay rồi thì đếch còn sợ gì nữa! Nhưng anh lại thấy Dũng văng tục:
- Đ,má! Bắn gì kỳ vậy? Hết đạn, rồi
bắn bằng gì?
Đúng là trong tình trạng hồi hộp, bao
nhiêu bài học điểm xạ “pằng pằng” hai phát một quên béng đi mất. Nhưng có điều
đặc biệt nghiêm trọng là, khi đánh phục kích mà bắn không trúng ngay loạt đạn
đầu sẽ chẳng khác gì “lạy ông tôi ở bụi này”! Bọn địch phát hiện ra ngay
mục tiêu, lập tức bắn rát rạt, hai luồng đạn đan chéo cánh sẻ ghìm đầu bọn Huy
xuống. Tình thế thật nguy kịch, không biết xử trí ra sao, tính mạng ngàn cân
treo sợi tóc. Một suy nghĩ rất nhanh lóe lên trong đầu Huy, không lẽ mình lại
chết vô duyên ngay phút khởi đầu thế này sao? Bao công lao sinh dưỡng của mẹ
cha, bao năm tháng học hành, bao ước mơ... rồi bao ngày tháng tập luyện kỳ công
nữa, không lẽ bị cắt ngang đơn giản thế sao? Sinh mạng con người trong chiến
tranh sao quá mong manh!... Bỗng một tiếng nổ gầm lên, súng địch im bặt, bọn
Huy cũng định thần lại bắn bồi thêm ngay, hất bọn địch xuống dưới con dốc. Lúc
này Huy mới nhìn sang phía hầm Nhữ, thấy khẩu B41 trên vai thằng bạn còn bốc
khói, còn nó thì toe toét, không biết do cười hay tại hàm răng của nó hơi bị
mất trật tự nhô ra! Mẹ kiếp! Mày chỉ chậm tí ti là tao toi rồi! Lần đầu tiên
anh cũng hiểu được “chia lửa” ở chiến trường là như thế nào, và tình
đồng đội không chỉ là tình bạn thông thường mà còn hàm chứa những ý nghĩa
thiêng liêng! Phía trước mặt, Huy thấy rõ một cái đùi của một thằng lính bị
tiện đứt, mặt cắt của nó lùi xùi gân trắng nhởn, nhớp nhúa thịt máu đỏ lòm, quần
áo còn bốc cháy loang lổ.
Ngày đầu hình như địch cũng mới chỉ
thăm dò, sự giành giật chốt còn chưa ác liệt. Cả tiểu đoàn chỉ vài người bị
thương nhẹ. Chiều ấy, bọn Huy ăn bữa cơm đầu tiên trên trận địa, mỗi người được
anh nuôi chia cho một nắm cơm, Huy ngồi nhai mà thấy như miệng mình nhai rơm.
Đêm xuống, trận đánh tạm nghỉ, không biết
những trận giữ chốt khác có giải lao thế không? Chiến tranh với những người
lính đã có một ngày kinh nghiệm không còn quá bí hiểm nữa.
Sáng sau, mới tinh mơ, mắt còn cay xè
sau một đêm chập chờn thức ngủ, Huy ngạc nhiên khi thấy Nhữ đã khệ nệ bưng sang
hầm anh một nồi to, toe toét:
-Tớ tóm được một con gà bị thương, nấu
một nồi mì tôm đây này, cố ăn đi mấy tướng, lấy sức mà đánh nhau!
Không hiểu mì miếc, nồi niêu xoong
chảo, củi lửa nó lấy đâu ra, mà lúc này Huy mới để ý, không biết dân ấp có được
sơ tán trước không mà mấy căn nhà gần hầm Huy không có ai cả. Huy nói với Nhữ:
-Thôi mày về hầm đi, kẻo pháo nó lại
bắn đến ngay bây giờ đấy!
Quả thực, khi bọn Huy chưa ăn hết nồi
mì tôm, mà miệng đắng nghét khô khốc cũng chẳng nuốt nhiều được, pháo địch lại bắt
đầu dội đến, dữ dội hơn, ác liệt hơn ngày đầu. Cứ sau khi pháo ngừng là bọn bộ
binh lại xông lên. Quân ta, có công sự nên đánh trả quyết liệt, hắt chúng xuống
dễ dàng. Những quả B40, B41 có sức uy hiếp rất lớn, cứ nện cho một phát, có mấy
thằng bị thương vong là chúng lui ngay. Nhưng không vì thế mà trận chiến kém ác
liệt. Đạn, pháo vãi như trấu không thể không trúng mục tiêu. Một người trung
đội trưởng đã bị thương rất nặng, một mảnh pháo xuyên qua ngực, qua cả khuỷu
tay anh. Hai thằng khiêng anh về tuyến sau kể “thấy rơi ra cả một miếng gan!”
Huy nghĩ chắc máu đông chứ gan rơi ra thì làm sao mà còn sống được! Ai cũng
tưởng anh không qua khỏi, nhưng thực tế đến nay anh vẫn còn sống. Người ta bảo
trong chiến trường có sự linh ứng ngược, người bị thương tưởng chết thì hay
sống, ngược lại, người tưởng sống lại hay bị chết!
Khoảng 10 giờ trưa, thấy một đợt pháo
vừa bắn tiếng có vẻ trầm hơn, Dũng liền nói:
-Tụi nó bắn pháo khoan đó, tụi bây! Cứ
khi nào tiếng đề-pa nghe gọn là nó bắn về hướng mình đó!
Quả thực, phải kinh nghiệm như Dũng
mới nhận ra được vậy, còn Huy chỉ cảm thấy duy nhất một cảm giác y như bị nhốt
bên trong một thùng phuy mà bên ngoài có người quại búa tạ vào. Rất may căn hầm
anh núp dưới cây mít to, pháo đụng là nổ ngay trên cây, nên không việc gì. Đến
khi một đợt pháo dài tưởng vô tận vừa ngừng, bọn anh chợt thấy đại đội trưởng
Bảy lù lù ở cửa hầm quát:
- Mang cuốc xẻng sang moi hầm thằng
Nhữ ngay!
Giời ơi! Huy nấc lên, bật dậy. Anh Lộc
y tá đã có mặt. Căn hầm bị san phẳng y như người ta vừa bốc mộ lấp đất lại. Không
lẽ dưới mặt đất câm lặng kia đang có ba sinh mạng, lại còn có cả thằng bạn chí
thiết của mình nữa! Nhữ ơi! Chúng mày đang ra sao?!
Mọi người khẩn trương moi hầm. Đất, cát,
những cây gỗ, những tấm ván lót hầm được kéo lên. Một cái đầu, tóc đen nhẫy, nhòe
nhoẹt máu trộn đất, hiện ra. Đại trưởng kêu lên:
- Moi mũi
cho nó thở!
Mọi người nhận ra Khuê và chỉ thấy
“phì” một cái rồi thôi; Khuê đã bất tỉnh, nhưng còn thoi thóp. Sau này, vốn có
tính tò mò, Huy đã hỏi Khuê là thấy thế nào trong cái lúc bị chôn sống ấy? Không
ngờ, câu trả lời của Khuê thật đơn giản: “Không thấy gì cả”! Thì ra, cái
chết đến với người trong cuộc không kinh khủng quá như những người chứng kiến! Hai
người xốc nách Khuê mang lên đặt bên cây vú sữa để anh y tá làm những việc cấp
cứu. Moi được một lúc nữa thì tìm được Thái, người nhỏ bé, đã khá tuổi, hàm
răng như nhuộm đen, quê Thái Bình. Anh bị một mảnh pháo nhỏ xuyên qua chỗ mang
tai và đã hy sinh! Còn lại mình thằng bạn của Huy. Làm sao mày sống nổi dưới vô
vàn mảnh pháo khoan như thuốn kia? Nếu không bị thương thì cũng làm sao mà thở
được? Tự dưng tay chân Huy bủn rủn, luống cuống, nên anh được thay ngay. Rồi
Nhữ cũng đã được tìm thấy. Một cây đà đè ngang ngực làm gẫy tay và xương sườn
Nhữ; máu trào ra cả mũi và miệng; giữa trán một mảnh pháo khoan xuyên qua để
lại một vết thương chỉ nhỏ như hạt đậu, nhưng nó vẫn đủ sức giết chết Nhữ ngay!
Thế là hết! Một nỗi trống vắng mênh mông dâng ngập lòng Huy. Ý muốn được trả
thù cũng cuồn cuộn dâng lên!
Trận ấy, vì không giật đổ được cây cầu,
tiểu đoàn của Huy đã phải trả giá bằng trận đánh giữ chốt khốc liệt, các anh đã
chặn địch không phải bằng việc cắt đường giao thông mà bằng chính tính mạng của
mình. Nhiệm vụ đã hoàn thành, nhưng đơn vị thương vong gần hết. Có điều, mọi
người không ngờ rằng, đi đánh sập cầu mà lại giữ được cầu, không hoàn thành
trọn vẹn nhiệm vụ nhưng lại làm nên một chiến công ngoài dự tính! Bởi sau đó
chiến dịch phát triển quá nhanh, thế trận thay đổi, chính chiếc cầu lại làm
nhiệm vụ nối liền một trục đường tiến công của đại quân ta đánh Long Khánh,
trận đánh ác liệt nhất, mở cánh cửa máu tiến về Sài Gòn!
Sau đó, bọn Huy đã chôn Nhữ và đồng
đội tại một bìa rừng. Đêm lạnh, xác mấy người co quắp lại. Bọn Huy đã vào nhà
dân lục tìm dầu nóng để bóp, nhưng không biết lại lấy nhầm dầu 777, nên cái mùi
dầu này còn ám ảnh anh mãi đến tận hôm nay. Huy để Nhữ nằm gối đầu về phía Nam để
lúc nào Nhữ cũng có thể nhìn được về quê hương
mình. Ngoài lọ penexilin để tên tuổi, Huy cũng đẽo cho Nhữ một tấm bia
gỗ.
Thế đó, với Huy, chiến trường thực sự
chỉ có mấy tháng cuối cùng của cuộc chiến như vậy, trận đánh thực sự ác liệt
cũng chỉ có trận đầu tiên ấy. Nó chỉ như một ví dụ về chiến tranh đối với cuộc
đời anh, thế nhưng vẫn cho anh thấy toàn bộ sự tàn khốc của nó, sự mong manh
của tính mạng con người trước đạn bom, sự sợ hãi của con người khi đối diện với
cái chết, sự đớn đau trước những mất mát hy sinh... và cuối cùng, nó cũng cho
anh biết được thế nào là niềm vui chiến thắng! Cái niềm vui không giống với bất
cứ niềm vui nào, nó lớn lao hơn tất thảy, cao cả hơn tất thảy, bởi nó được đổi không
phải bằng bất cứ thứ bạc vàng châu báu nào, mà bằng một thứ còn quý giá hơn vô
vàn lần: đó là máu, là chính sự sống!
***
Sau đó, hòa bình về, sau khi thi xong
vào đại học, Huy mới về quê. Đó là những
khoảnh khắc hạnh phúc nhất của cuộc đời anh. Sự gặp mặt vui mừng hơn
nhiều lần sau xa cách, sự sống quý giá hơn vô vàn lần sau trải qua chết chóc, những
người lính trẻ về quê thực sự như những người anh hùng!
Huy đã đến thăm cha Nhữ. Anh chàng đã
mang nguyên vẹn niềm vui và cả cái tuổi trẻ nông nổi đến gặp ông, mà không biết
rằng, nỗi đau của người cha mất đứa con độc nhất, nỗi đau tuyệt diệt của một
dòng họ, cuồn cuộn dâng lên trong lòng ông. Anh chàng còn ngu ngốc tỏ ra hãnh
diện, như là một ân nhân, bởi là người đã chứng kiến cái chết của con ông, đã
mai táng chu đáo cho con ông, rồi lại còn mang về giao lại cho ông bao kỷ vật
nữa! Anh chàng cũng còn hứa hươu vượn nhiều điều với người cha tội nghiệp, mà
sau này, cuộc sống trong hòa bình không phải chỉ có mầu hồng như anh chàng
tưởng, anh chàng đã không thực hiện được điều gì. Ngay tình yêu với cô bạn cùng
xóm xinh đẹp kia, trong gian khổ hy sinh, trong xa cách, tưởng như như bất tử, nhưng
anh chàng lại thấy là “không hợp” giữa cuộc sống bon chen nơi phố xá. Nếu cưới
Liên, chỉ mỗi việc lo “chuyển hộ khẩu” thôi, cũng đã đủ làm cho Huy khiếp vía
rồi. Chia tay Liên Huy cũng tiếc, nhưng đành vậy. Tồi tệ hơn nữa là, những lần
về quê Huy lại ngại không đến thăm cha Nhữ, với cái cớ, đã không giúp được gì
thì thôi, đến gặp chỉ gợi thêm trong ông những đau khổ... Chỉ khi khá thành
đạt, suy nghĩ cũng chín chắn hơn, anh chàng định làm một điều gì đó có ý nghĩa
cho ông cụ, thì ông đã chết! Chua xót
thay!
Nhữ ơi, tao đã trả ơn mày như thế đấy!
Thằng bạn suốt đời chỉ biết nhường nhịn, cả tình yêu, cả sự nghiệp,... và cả
mạng sống nữa. Như bao người lính trẻ khác, mày chưa nhận được tí ti gì của
cuộc sống, mà cuộc sống hôm nay tồn tại được chính từ những cái chết của chúng
mày! Cái điều quá cũ mòn ấy ai cũng biết, nhưng hành động để đáp trả thì không
phải ai cũng nghĩ đến. Bây giờ, tao đã vác trên mình một khuôn mặt thành đạt. Sự
thành đạt quyến rũ lắm, mày không biết đâu, nhưng để có nó cũng khó khăn lắm, nên
nhiều người đã vì nó mà phải trả mọi giá, kể cả lương tâm mình! Thằng bạn của
mày, tuy chưa đánh mất lương tâm, nhưng từ lâu có phải tao cũng đã là một kẻ vô
tâm, một kẻ tham lam, ích kỷ rồi không?
Bình
Thạnh
Ngày
giỗ thứ chín của cha
13-5(âm lịch)1999
Sửa
chút ít 22-12-2008