ĐÔNG LA
NHỮNG KHÚC QUANH CUỘC ĐỜI
(Truyện ngắn)
Cách đây hơn hai chục năm, số phận tôi cũng giống như
cô Vũ Thị Hòa hôm nay, nhưng không bị ác nghiệt như cô, bị con Thu Uyên và
bọn quan chức lợi dụng quyền lực đẩy cô vào tù, thậm chí còn muốn tiêu diệt
cô luôn vì những tham vọng đen tối, tôi chỉ bị bọn xấu cướp công, cướp việc
thôi. Thì ra với đa số, trình độ pháp luật ở nước ta, sau hai mươi năm, vẫn
dẫm chân tại chỗ. Người ta vẫn nghĩ mình có quyền thì kết tội ai cũng được.
Hồi ấy tôi đã chịu thất bại. Còn cô Hòa hôm nay, không phải kể công, nhưng
nếu không có tôi cô sẽ ra sao?
Hồi ấy, sau khi bị cướp công, tôi đã bị đẩy vào những
tình huống mà trí tuệ bị thử thách cao độ. Như học tiếng Nga có một tuần mà
phải thi đậu, nếu không sẽ bị thất nghiệp; hoặc bị giao cho cái việc mà hơn
20 năm cả ngành Nông dược VN, vì nó đã có những người bị chết hoặc bị thương,
mà vẫn chưa ai làm được. Rồi tôi đã vượt qua được tất cả. Giờ nghĩ lại vẫn
hãi và cảm thấy dường như đã có sự phù hộ của các đấng linh thiêng. Vì vậy,
tôi thấy hôm nay, từ chỗ hoàn toàn không quen cô Vũ Thị Hòa, tôi đã viết bảo
vệ cô cũng như có một sự xếp đặt vậy.
Tôi đã viết cái truyện ngắn này kể lại đôi nét chính
cuộc đời mình. Tôi đã đăng vài lần trước khi gặp cô Hòa nên những người quen
thân cô chắc chưa đọc nên muốn đăng lại. Trong số những comment ở dưới có TT
chính là Nguyễn Tường Hưng. Không ngờ với Hưng lại có chuyện như đã xảy ra.
Buồn thật!
8-11-2014
ĐÔNG LA
|
Từ tận đáy của những nỗi tuyệt vọng,
sự chông chênh của một cuộc sống bất định, bất an, thiếu thốn, tôi bất ngờ “đổi
đời” như có một sự huyền nhiệm. Đúng ra trò khoe mẽ cũng không hay ho gì nhưng trong
chuyện này cũng có nhiều chuyện đáng nói.
***
Tôi sinh tại một vùng quê, cũng gần Hà
Nội thôi, nhưng cứ thấy xa thăm thẳm. Bởi muốn về quê, phải đi qua những con đường
huyện, đường thôn chi chít những ổ gà, ổ trâu mà xe chạy trên đó không khác gì
chạy dưới ruộng. Quê tôi cũng có mấy ông làm to. Nghe nói tỉnh đã định sửa
đường mấy lần để các cụ về thăm quê cho đàng hoàng nhưng cứ chuẩn bị khởi công
thì các cụ lại chết! Sau mấy năm đi bộ đội, hòa bình về tôi được đi học, rồi
sinh sống luôn tại Sài Gòn; một mình ở Sài Gòn, không một người thân. Giờ nghĩ
lại thấy có chút gì đó phiêu lưu. Tất nhiên không phải như những trò mạo hiểm
mà chính là sự phiêu lưu trên con đườnng đi tìm thành công ở cõi đời này. Đã có
những lần người này người nọ nói, kể ra tôi là con một ông to; kể ra tôi khôn
ngoan… Tôi sẽ được… Nhưng tôi không có những cái đó. Cha tôi là nông dân, ông
là y sĩ nhưng cũng là y sĩ nông dân. Đời ông không để lại cho con cái của cải
gì, ông chỉ để lại cho tôi cái tính “Mình làm đúng thì không sợ thằng nào hết”.
Có thể ông đúng ở một xã hội thôn quê đơn giản. Nhưng cuộc sống ở đô thị với dằng
dịt mối quan hệ không như thế. Nó cần có một nghệ thuật sống. Tôi rất biết
nhưng lại không có. Bởi người ta sinh ra trên đời luôn mang trong mình dòng máu
của cha ông, cái cốt cách của một vùng đất mà tuổi thơ ta đã lớn lên.
Sau khi tốt nghiệp, tôi cũng được chọn
trong số những người đỗ đầu các chuyên ngành về làm việc tại một viện nghiên
cứu về Dược của Bộ Y tế.
Vừa ra trường, được một nơi sang trọng
đến rước ngay, được làm công việc yêu thích, là một điều chỉ có trong giấc mơ
của sinh viên. Tôi thực sự hạnh phúc. Ở nơi này, vốn là những hãng bào chế của
chế độ cũ, từ hội trường lớn, các phòng thí nghiệm lấp loáng những dụng cụ thủy
tinh, thư viện, đến các phòng ăn, phòng tắm… tất cả, tất cả đều sang trọng,
sáng choang. Tôi thầm nghĩ, mình khỏe mạnh, đầu óc không đến nỗi tồi, cha là
chiến sĩ giải phóng Điện Biên, mình thì giải phóng Sài Gòn, còn điều gì phải lo
nữa, cứ làm việc cho tốt là tiến lên thôi…
Bây giờ nghĩ lại mà buồn cười. Tôi nhớ
đến bạn bè trong lớp thuở nào. Sau hơn chục năm ra trường, đứa làm quan, đứa
không, đứa làm chuyên môn, đứa không, đứa giàu, đứa nghèo, đứa hạnh phúc, đứa
bất hạnh … Nhưng có điều lạ, không phải cứ tài năng, cứ thông minh, học giỏi,
đức độ hơn thì thành đạt hơn; nhưng cũng không phải cứ ngu dốt, cứ đểu cáng,
gian manh, lừa lọc thì được… Như có một sự mầu nhiệm, huyền linh trong cõi sống
này. Cả cõi sống như một bàn cờ vĩ đại.
Còn tôi, có thành đạt không? Tôi không
biết. Tôi đã có được những cái mà ngày xưa trong mơ cũng không có, nhưng còn
quá nhiều chuyện lẽ ra phải khác. Người ta bảo ông Trời cũng so đo tính toán lắm,
lại còn bảo có luật bù trừ nữa!
Sau một thời gian về viện, một hôm, vào
thời kỳ mà ở viện đã bắt đầu có những chuyện lộn xộn, anh bạn cùng lớp tên T.
đến chơi. Một cuộc gặp gỡ khó quên. Chính từ nó, một nửa con người tôi vẫn đang
lịm ngủ bỗng trỗi dậy, đã trộn thêm không biết bao nhiêu phức tạp vào cuộc đời
vốn đã rất phức tạp của tôi. Nhưng đến giờ tôi cũng không biết như vậy là tốt
hay xấu nữa. T. rủ:
- Tao có bà đồng hương là nhà thơ nổi
tiếng(1), bà cũng có một đứa con gái. Nhà gần đây. Tao với mày sang chơi đi.
Tuổi đôi mươi, nghe thấy có con gái là
mắt sáng như sao rồi. Tôi đi ngay. Nhà bà chỉ cách khu tập thể tôi ở có mấy trăm
mét, trong một hẻm nhỏ yên tĩnh, một trệt, một lầu. Tôi thấy ban-công được phủ
kín một giàn thiên lý; bờ giậu ngoài cửa sổ phòng khách có treo mấy chậu kiểng
nhỏ gì đó, luôn túa xuống những cọng dài, từng khúc, từng khúc lại mọc ra một
chùm lá thanh mảnh mềm mại. Bà trạc tuổi mẹ tôi, khoảng 60, tiếp chúng tôi rất
niềm nở, có quan tâm đến tâm lý người đối thoại. Bà nói, bà muốn tôi thường xuyên
đi lại nhà bà vì nhà neo người. Bà còn hứa sẽ làm mối cho tôi một cô giáo trẻ
đẹp lắm. Tôi ngồi ngắm nhìn một giá sách nhỏ để riêng những tác phẩm của bà,
không ngờ từ lâu đã tồn tại một Hội Nhà văn và đã có biết bao tác phẩm chào đời.
Vốn chỉ thích học Tự nhiên, tôi thực sự chỉ biết nước Việt Nam
mình có vài nhà văn, nhà thơ, mà do phải học môn văn trong trường, tôi mới biết
đến mà thôi. Không biết mọi người có vô tâm với văn chương như tôi không nhỉ?
Nhưng tôi biết một cách chắc chắn rằng, bạn bè cùng học, giới kỹ thuật rất ít
đọc sách văn chương; nếu có, họ chỉ đọc loại văn chương của những tên tuổi mà
tầm tư tưởng đủ sức chinh phục họ.
Chiều ấy, tôi đã tìm mua một tờ Văn nghệ
xem văn chương như thế nào. Tôi đã đọc hoàn toàn hồn nhiên, không bị ràng buộc
bởi bất cứ một quy tắc nào mà những cây bút ít tài lại khệnh khạng, thời gian
đã đắp điếm thêm cho bao hư danh, đã đặt ra cho nghệ thuật; và thấy rất khó
đọc. Có một vẻ gì đó lê thê và khô cứng.
Tôi nghĩ đến những bài thơ đầu tay của
mình. Thực ra tôi cũng đã có làm thơ. Thật lạ, từ một người không bao giờ quan
tâm đến văn chương, thế mà tự dưng lại đi làm thơ. Đó chính là kết quả của mối
tình đầu. Tôi đã mang sang đưa cho nhà thơ xem. Đọc xong bà nói:
- Hình như cháu cũng có năng khiếu. Nhưng
thơ cháu chưa được. Thơ bây giờ phải thực, phải tình cảm, sâu sắc và đặc biệt
là không được giống ai.
Đó có lẽ là bài học thơ ca đầu tiên và
duy nhất của tôi. Đến bây giờ thì tôi hiểu thơ ca không phải chỉ có thế. Nhưng
hồi ấy nó đã giúp tôi nhiều trong việc làm ra các bài có thể đăng báo được. Lúc
đầu nghe bà nói tôi tự ái. Không định làm nhà thơ mà cũng tự ái. Đêm ấy tôi cắn
bút. Thơ thực thì dễ, tình cảm cũng dễ, còn sâu sắc thì mông lung lắm biết thế
nào. Cứ viết về mẹ là chắc ăn nhất. Để “không giống ai”, tôi nghĩ mình sẽ chỉ
viết ra những cái chính mắt mình nhìn thấy, những tâm tư của chính mình, và tôi
đặt bút viết về hình ảnh mẹ tôi gánh lúa, một công việc nặng nhọc nhất và cũng
là đặc trưng nhất của những bà mẹ nông dân:
Tuột quai dép dẫm hòn sỏi nhỏ
Xót xa nhớ về bóng mẹ đường dài
Nắng đốt mặt đường đất bốc hơi
Chân đất vai gầy oằn gánh nặng…
Đêm thoáng lạnh trùm chiếc chăn nhẹ
Nhớ gió Bấc khô thổi rụng lá xoan
vàng
Mẹ ơi nếp da dầy chân mẹ!
Đã bao nhiêu rồi vết nứt nẻ dọc
ngang?
Cứ thế, không khó khăn lắm, sau một lúc
thì tôi làm xong bài thơ. Nhưng có phải là thơ? Có hay không?... thì quả thật
tôi không biết.
Sáng sớm hôm sau, tôi sang đưa bài thơ
mới làm cho nhà thơ coi. Tâm trạng hồi hộp như chờ đợi một kết quả thi cử. Không
ngờ bà nói:
- Bài này ai làm đây?
- Cháu làm đó cô.
- Cô không tin là cháu đấy. Cháu có tài
đấy cháu ạ, mày viết hay lắm. Nhưng còn phải thế này… thế này… Bây giờ cháu làm
tiếp mười bài nữa và phải nghĩ ra một cái bút danh.
Tôi nghĩ đến quê mình. Ngay đến cả cái
huyện to tướng cũng không bao giờ thấy tên trên báo, huống hồ cái làng bé tí ti
kia. Tôi nói:
- Quê cháu là một nơi khỉ ho cò gáy.
Cháu muốn tên làng cháu được in trên báo. Nó là ĐÔNG LA.
Bà nói:
- Tên nghe ngồ ngộ. Thôi cũng được, không
lẫn với người khác.
Tôi ra về, bụng mừng lắm, lâng lâng như
một kẻ vừa được đặt chân lên ngưỡng cửa của một khu vườn hứa hẹn nhiều hoa thơm,
trái lạ. Tôi nhớ đến hồi ở ký-túc-xá, dù không chú ý các khoa xã hội, nhưng tôi
cũng đã để ý đến những người ở khoa văn có tác phẩm được đăng, đã thấy ở họ có
một cái gì đó hay hay, huyền bí. Tôi đâu biết chính cái hay hay huyền bí ấy,
khi người ta “dính” vào có thể bị nghiện như chơi, như nghiện một thứ thuốc
phiện mạnh nhất. Nó có thể làm rạng danh một con người, nhưng cũng có thể quật
ngã một con người. Làng tôi có một anh chàng dáng người tiền sử; da đen; trán
thấp; mũi ngắn và hếch; môi thâm; cổ to và ngắn… không hiểu do
duyên cớ nào tự dưng muốn trở thành nhà thơ. Anh chàng một năm đi đóng gạch mấy
tháng để chuẩn bị “cơ sở vật chất”, bỏ vợ để toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp. Đêm
đêm, trong ngôi nhà như một túp lều, vách trát bùn, mái rạ, trong bản hòa tấu
râm ran, miên man của ếch, của chão chuộc, của sọt sành… anh chàng làm những
bài vè trong quầng sáng tù mù của ngọn đèn dầu sạm muội khói. Tất nhiên là
không thành công. Dù không chỉ một lần, với chiếc xe đạp cọc cạch, anh chàng đã
vượt qua cả chặng đường dài 60km lên Kinh đô, đã gặp được những nhà thơ hàng
đầu nhưng vẫn không thể vượt qua được cửa ải của chữ nghĩa. Anh ta làm đến khi
bị tâm thần thì thôi. Mỗi khi có máy bay bay qua làng anh ta ra giữa sân chửi:
- Đả đảo bất công! Chúng bay không dìm
được ông đâu!...
Thế mà bây giờ tôi cũng làm thơ. Đang
là kỹ sư, làm công việc nghiên cứu ngon lành, lại đi làm thơ. Không biết rồi
tôi có bị thơ “vật” cho như anh chàng cùng làng kia không?
Tất nhiên, đầu óc tôi không thể đồng
hạng với anh chàng thôn quê không thi nổi tốt nghiệp cấp 1 ấy được. Nhưng độ “điên
khùng” thì chưa chắc ai hơn ai. Tôi làm một lèo mấy chục bài chứ không phải chỉ
mười bài. Một hôm, khi đã đọc hết mấy chục bài của tôi, nữ thi sĩ già đã nói
với tôi một cách trang trọng:
- Cháu ạ, cô đã gặp và đào tạo được nhiều
nhà thơ trẻ. Có người bây giờ còn nổi tiếng hơn cả cô. Nhưng cô thấy cháu là
thông minh nhất. Có lỗi, người ta phải hàng tháng, hàng năm mới sửa, mới thay
đổi được. Còn cháu thì làm được ngay. Có lẽ mày rồi sẽ “hậu sinh khả úy” đấy
cháu ạ.
Đến lúc này thì không phải là chuyện
chơi nữa rồi. Mặc dù không biết nhà thơ nhận xét mình có đúng không, nhưng bất chợt,
tôi cảm thấy mình như được giao một sứ mệnh cao cả, thiêng liêng. Chưa hề được
đăng một chữ nào mà tôi thấy mình như đã nổi tiếng lắm. Từ đó, giống như anh
chàng cùng làng ngày nào, đêm đêm, tại căn phòng 14 m2, không cánh cửa sổ, mưa
gió hắt đầy nhà mà tôi không cảm thấy gì, tôi chong đèn làm thơ. Ban ngày thì
vẫn đi làm bình thường nhưng chủ yếu để lĩnh lương chứ không ôm mộng thành tiến
sĩ nữa. Dù đã có một thời, cứ thấy hình ảnh những người mặc áo choàng trắng
trong phòng thí nghiệm, lòng tôi lại dậy lên những xốn xang. Nhưng khi bước vào
thực tế, tôi đã bị thất vọng, tôi ngạc nhiên khi thấy trong lĩnh vực nghiên cứu
khoa học uyên thâm này người ta cũng đấu đá, tranh giành nhau!
Sau đó, sự nghiệp văn chương của tôi
có tiến triển. Mà hình như tôi cũng có thông minh thật. Chỉ sau một thời gian rất
ngắn, không chỉ làm thơ, tôi còn viết truyện ngắn, viết phê bình nữa. Những bài
viết đã khiến không ít người ngạc nhiên. Có người hỏi, tại sao tôi là kỹ sư lại
viết được như thế? Tôi không trả lời. Thế những người không là gì viết thì sao?
Nhưng để lại ấn tượng sâu đậm nhất vẫn là bài thơ đầu tiên được đăng báo. Tôi
ngẩn ngơ mất mấy ngày. Kể hiểu được điều, đăng một bài thơ sẽ có bao nhiêu người
đọc nó, có một ai đồng cảm không? Có lẽ người ta sẽ không mất công xúc động quá
như thế! Nhưng chính cái phép “thắng lợi tinh thần” ấy lại là một thuộc tính
của con người, chính nó đã giúp người ta đứng vững trong cuộc đời có quá nhiều
nỗi buồn và lắm tai ương này!
Thế rồi, qua nhà thơ, tôi đã có một cuộc
gặp gỡ quan trọng. Cuộc gặp gỡ có ảnh hưởng dài lâu đến chí hướng, đến cuộc
sống tinh thần và tình cảm của tôi.
Một lần bà nói:
- Cháu ạ, nếu cháu được gặp ông Chế (2),
được ông ấy giúp cho thì tốt. Nhưng gặp được ông ấy cũng khó, ông ấy tự kiêu mà
cũng bận lắm.
Nghẫm nghĩ một lát bà bày mưu:
- Bây giờ cô sẽ đưa cho cháu một chai
rượu thuốc mang lên biếu ông ấy. Nhưng cháu cứ làm quen với cô Thường (3) trước
đã. Cô sẽ viết giấy nhờ cô ấy đọc góp ý cái truyện ngắn mới đăng của cháu. Rồi
từ từ có dịp thì đưa thơ cho ông ấy đọc. Nếu ông ấy mà bảo “được” thì mày nhất
định sẽ thành danh.
Tôi mừng lắm. Được gặp một trong mấy
nhà thơ lớn của đất nước là một điều bất ngờ lớn đối với tôi. Hồi nhỏ, dù ghét cay,
ghét đắng môn văn nhưng không hiểu sao tôi vẫn nhớ và yêu mến thơ ông. Một sự
yêu mến hồn nhiên. Tôi còn trẻ, còn tò mò, cứ biết được mặt ông cũng là tốt rồi.
Thế rồi tôi đã đến nhà ông, được gặp
ông như gặp một nhân vật của truyện cổ tích. Nhưng mãi đến dịp Hội Nhà văn Tp HCM
tổ chức một cuộc thi thơ mà ông được mời chấm chung khảo, tôi mới nhờ được cô
Thường đưa thơ của tôi cho ông coi. Sáng đó bà đã nói với ông:
-Anh Hoan (tên ông) ơi, cậu này cũng
có làm thơ, cậu ấy có chùm dự thi đây này, anh coi giúp xem.
- Ông (ông thường gọi tôi vậy, còn tôi
gọi ông là “chú” xưng “cháu”) cũng có làm thơ à? - Rồi sau khi đọc xong, ông
reo lên: - Ô, ông làm được đấy, ông sẽ được giải đấy!
Tôi ngạc nhiên đến độ không còn biết
đến vui mừng nữa vì không hiểu “được giải” nghĩa là thế nào? Sao ông lại cho giải
ngay tại nhà ông? Rồi ông tiếp: “Tôi có thể cho ông giải cao nhất cũng được,
nhưng ông chưa có lực khéo người ta giết ông đấy! Thôi, tôi cho ông đứng đầu
giải 3!” Nói xong, ông còn vào trong buồng, bê ra một chồng vở khổ lớn ra khoe
với tôi một cách hồn nhiên như khoe một người bạn tâm giao vậy:
- Ông biết tôi làm thơ như thế nào không?
Khi nào nghĩ ra được một câu hay tôi chép vào quyển đầu này, khi nào có tứ sẽ
phác thảo vào cuốn thứ hai, tôi đánh mục lục đàng hoàng để hoàn thiện dần.
Từ đó, như một quà tặng của số phận,
tôi được trở thành một người quen thân với gia đình và được ông dành cho nhiều ưu
ái. Tôi được nói chuyện với ông rất nhiều lần. Không hiểu sao tôi lại rất nhớ
câu ông tâm sự:
- Sao bây giờ tôi ngại gặp mặt con người
quá ông ạ. Tôi chỉ thích gần cây cối thôi. Vì thế tôi mới chuyển nhà lên tận
đây.
Không biết, đây có phải là dấu hiệu mệt
mỏi của một cơ thể đã về già hay là sự mệt mỏi của một cuộc đời đã trải qua biết
bao sự phức tạp của những mối quan hệ giữa con người với con người?...
Rồi cho đến một hôm, viện tôi chọn ra
một đội tuyển để đi thực tập ở nước ngoài, trên dây chuyền tổng hợp Tetracyclin
bằng vi sinh. Tôi cũng được chọn. Dù sao tôi vẫn làm tốt công việc ở viện.
Chúng tôi được đi học ngoại ngữ. Nhưng thật oái oăm, đúng lúc này lại có một
cuộc thi truyện ngắn. Thế là vừa học ngoại ngữ tôi vừa cắm cúi viết một truyện.
Cũng chẳng phải lấy ở đâu xa cho mất công mà viết ngay về những ngang tai trái
mắt ở viện mình. Bây giờ thì mới biết là thậm ngu, vì tự dưng lại đi phê bình
người chọn mình đi nước ngoài và bênh vực một người về hưu! Chẳng có ai lại
ngược đời như thế cả. Nhưng lúc ấy thì tôi không nghĩ thế. Tôi cứ nghĩ mình
viết đúng thì không làm sao cả. Mà hơn nữa, đã dám nhận một sứ mệnh cao cả thì
còn phải tính toán gì nữa! Viết xong, tôi liền gửi báo và sau một tuần thì được
đăng. Không ngờ, chuyến ra quân văn xuôi lần này cũng rầm rộ lắm. Đài thành
phố, đài Trung ương dồn dập đọc truyện của tôi. Về khu tập thể, tôi thấy suy
nghĩ của mình cứ oang oang phát trên đài. Với tâm trạng của một người đang bay
trên tầu vũ trụ, tôi núp ngoài cánh cửa nhà người ta nghe nhờ (vì tôi chưa sắm
được đài). Hàng xóm xôn xao, cơ quan xôn xao, cả ngành xôn xao, mãi tít mù ngoài
Bắc quê tôi cũng xôn xao. Mọi người ở các xí nghiệp đổ xô đi mua tờ báo. Tôi
nhận được thư cha tôi chúc mừng: “Thấy rất mừng là con đã trở thành một nhà văn
khá giỏi”. Tôi còn biết, một lần ông nói với cán bộ xã: “Chúng mày thì là cái
chó gì, tao đây này, tao còn là bố nhà văn đây này!”. Thật tội nghiệp ông. Bởi
đúng ra tôi chỉ là một đứa con vô tích sự. Cho đến lúc ông mất, tôi chưa báo
hiếu được một điều gì. Đây chính là nỗi ân hận lớn nhất của cuộc đời tôi.
Còn đối với lãnh đạo viện, truyện ngắn
của tôi như một đòn sấm sét. Một nhân vật phải về hưu để “thế mạng” cho cả một
ê-kíp, trấn an dư luận (kiểu Tào Tháo mượn đầu quan coi lương trấn an quân lính).
Còn tôi, tất nhiên là không được đi nước ngoài với một lý do thật giản dị, “để
đến lần sau”! Cái lần không bao giờ có!
Thế là chính từ đây, cuộc đời tôi
đã bị đẩy tới một khúc quanh. Cả phòng tôi đi nước ngoài hết chỉ còn lại độc
một mình tôi. Rồi tôi bị cho nghỉ 70% lương, rồi không lương, là hợp lý lắm!
Chua chát thay, văn với chả thơ!
Lúc này, nhà thơ nữ già đã về Bắc. Tuổi
già của bà không chịu nổi nỗi cô đơn ở nơi đây. Bà viết một thư muốn tôi chính
thức là con của bà, ra Hà Nội ở, rồi sẽ thừa kế toàn bộ tài sản vật chất cũng
như tác phẩm của bà. Tiếc là tôi đã làm buồn lòng bà vì tôi đã có vợ và đứa con
trai, với tôi không có gì sánh được với nó. Tôi thì thế nào cũng được, nhưng vợ
con tôi sống quen ở Sài Gòn, làm sao có thể ở Hà Nội? Còn nhà thơ lớn kia thì
thật đau đớn, ông đã mất! Trong một lần khám bệnh, bác sĩ đã phát hiện ra khối
u ác trong phổi ông!
Thế là không còn gì nữa. Tôi đã đột ngột
từ biệt văn chương như lúc đầu đột ngột đến với nó. Tôi không hối hận gì cả,
chỉ thấy trào lên một niềm căm giận, mình có làm điều gì sai đâu? Tôi không biết
là mình đã thực hiện một sự phiêu lưu. Làm một việc cần đến sức mạnh mà trong
tay lại không có gì cả. Chiều chiều, tuyệt vọng nằm gác tay lên trán, tôi nghĩ
kế sinh nhai. Tôi có thể chịu được mọi gian khổ, nhưng còn thằng con nhỏ đầu
lòng mới sinh của tôi, tôi đau đớn khi sinh nó ra trên đời mà lại để nó khổ.
Tôi không thể đi đạp xích lô, đi vá xe đạp, vì lỡ là nhà thơ, là kỹ sư rồi! Tôi
vùng dậy, đi gõ cửa tất cả các nơi có dính dáng đến hóa, đến dược. Nhưng người
lớn họ quen nhau hết ráo. Với tai tiếng chuyện viết báo của tôi thì Sài Gòn cũng
nhỏ thôi. Không một nơi nào dám nhận tôi vì đều được báo trước: Nó là nhà văn
đấy! Cơ quan làm ăn mà lại đi nhận một thằng nhà văn tọc mạch là toi ngay mọi
chuyện! Một tối! ngồi xem ti-vi nhờ, diễn vở kịch bộ đội ta đánh sân bay Tân
Sơn Nhất, tôi ứa nước mắt, chửi đổng: “Đ.mẹ! Bố mày cũng từng đánh nhau ở Định
Quán, La Ngà, Xuân Lộc, chôn không biết bao thằng bạn 19 tuổi chết tươi; bây
giờ phải chịu nhục thế này à?! Còn mấy thằng cơ hội thì lại vênh vang, được trọng
dụng; lại còn nước ngoài với nước trong tu nghiệp nữa! Đời thật chó má!” Sáng
sau, tôi hầm hầm đến cơ quan, gặp viện trưởng:
- Các ông mà không cho tôi đi làm là
tôi lại viết nữa đấy!
- Anh thông cảm, hiện tại phòng anh đã
đi hết rồi, còn có một mình anh thì làm được việc gì?
- Các ông thật bất công. Các ông đã không
cho tôi đi nước ngoài thì phải xếp việc cho tôi chứ. Không lẽ ở viện này chỉ có
phòng “Tổng hợp hữu cơ” thôi sao?
- Thôi được rồi, anh cứ về đi. Tôi sẽ
bàn bạc với ban giám đốc. Có thể sẽ xếp anh làm tại phòng “Hợp chất thiên nhiên”.
Cũng may, ông viện trưởng là người mới
ở trên xuống, thay cho ông viện trưởng già về hưu, không có “ân oán giang hồ”
gì với tôi. Có điều, ông không “mạnh” lắm, tính ông nhu nhược. Đối thủ chính
của tôi là nhóm ông viện phó thì có thực quyền, thực chất. Trong đó, có một bà
còn ghét tôi hơn cả kẻ thù. Tôi không hiều tại sao, vì thực ra chưa bao giờ tôi
đụng chạm tới bà ta. Bà ta cũng là dân khoa học, cũng là phó tiến sĩ, trưởng
một phòng nghiên cứu khác. Có thể do bà ta ganh với bà trưởng phòng và phòng
“Nghiên cứu trung tâm” của chúng tôi chăng? Bà này còn có bà chị ruột mới lên
thứ trưởng, nên rất “mạnh”. Nhưng người lớn họ cũng khôn lắm. Họ rất hiểu “già
néo đứt dây, chó cùng cắn giận”. Biết đâu, tôi điên lên, lại tương cho một quả
lựu đạn là toi đời! Hơn nữa, đúng lúc này, bộ lại mới giao cho viện một công
trình cực kỳ khó mà cả viện chưa có một ai dám nhận: Chiết xuất thuốc chống ung
thư Vinblastin từ cây dừa cạn.
Thế là tôi lại được đi làm. Khi trong
lòng thanh thản trở lại, lần đầu tiên tôi hiểu được giá trị của những hành vi,
của những cách ứng xử, của nghệ thuật sống trong cuộc đời; mà trước đây tôi chỉ
biết đến có khả năng chuyên môn. Từ một kẻ thất nghiệp tôi lại được trở thành
người quan trọng. Tôi đã nhận đề tài với tâm trạng của một người cưỡi trên lưng
hổ và một lời thề không dính đến văn chương nữa. Phải đứng trước bờ vực chông
chênh của sự tồn tại, người ta mới nhận ra được sự vô nghĩa của những hư danh.
Văn chương với tôi lúc này thực sự là trò vô tích sự. Tôi cũng đã thấy trong
cái đền đài nghệ thuật thiêng liêng ấy cũng có lắm chuyện.
Tôi đã nhận trọng trách chủ nhiệm đề
tài và dốc toàn bộ tâm sức vào làm việc với cung cách của một thủ lĩnh, đứng đầu
một nhóm mười đứa, cả dược sĩ, cả kỹ sư bách khoa phụ trách máy và kỹ sư hóa
phụ trách khâu phân tích, làm sắc ký.
Với dược liệu là cây dừa cạn, chúng tôi
tiến hành quy trình qua nhiều giai đoạn phức tạp. Từ việc chiết xuất, cô đặc,
loại tạp, đến việc phân lập hoạt chất với một tỷ lệ vô cùng nhỏ trong alkaloid
toàn phần bằng phương pháp sắc ký cột. Chỉ sau ít tháng, nhóm chúng tôi đã làm
ra được mấy gam loại thuốc cực kỳ quý và đắt này (Giá thị trường thế giới hàng
triệu USD một ký). Chuyên gia của Pháp, của Ý đã đến thăm nơi làm việc của nhóm
chúng tôi. Tôi có nhiều triển vọng được đi Pháp tham quan, học hỏi thêm.
Trước một kỳ phép, tôi phải trình bầy
toàn bộ quy trình chiết xuất trước hội đồng khoa học của viện. Như một sự báo
công, một sự khẳng định, chứng tỏ năng lực của một người được quay lại làm việc,
tôi say sưa trình bầy tất cả mọi chuyện. Một lần nữa, tôi lại mắc sai lầm. Một
người từng trải, khôn ngoan, không hành động như thế. Muốn tồn tại, người ta
phải luôn giữ dịt lấy những bảo bối.
Tôi đã mang theo về kỳ nghỉ phép một
niềm vui của một người vừa làm được một công việc quan trọng và quay lại cơ quan
với hy vọng tràn trề, chuẩn bị triển khai quy trình với một quy mô lớn. Không
ngờ…
Ngay hôm đầu đi làm trở lại, ông trưởng
phòng tổ chức tìm gặp tôi. Ông này cũng bộ đội chuyển ngành, không đến nỗi xấu.
Ông nói:
- Bà Mận mới lên viện trưởng thay ông
An. Bà ấy có ý định cho ông nghỉ làm đề tài đấy. Bà ấy bảo ông không hòa đồng
với anh chị em. Ông cũng để cho công nhân làm bể mất cái bình cầu quý 20 lít
nữa… Có lẽ ông lại nghỉ một thời gian, chứ bây giờ không biết xếp vào đâu. Nếu
ông kiếm được cơ quan nào nhận nên chuyển đi.
Tôi bàng hoàng, không tin ở đôi tai mình
nữa. Có lẽ nào lại có một sự vô lý đến như thế?!
Nhưng tôi biết làm sao được khi bà ấy
bây giờ đã làm viện trưởng, chị bà ấy lại làm thứ trưởng. Lẽ phải thuộc về tôi
nhưng chân lý luôn thuộc về kẻ mạnh, đi kiện tôi sẽ thắng nhưng sẽ phải tiêu
tốn cả cuộc đời mất. Tôi chỉ có duy nhất một thứ vũ khí, đó là những bí mật của
công việc, thì lại trao cho kẻ thù mất rồi! Làm sao người ta có thể để tôi làm
tiếp để rồi sẽ được đi Pháp, đi Ý?!
Thế là lần thứ hai, tôi lại thất nghiệp!
Tôi đã khóc khi đột ngột bị dứt ra khỏi công việc đang làm dở dang và cũng mới
tìm lại được niềm say mê quý giá từng đánh mất. Tôi lại được nghỉ ở nhà để mà
lại vắt tay lên trán kiếm kế sinh nhai, kiếm một công việc xứng với cái danh
tiếng (không biết có không) của mình. Đã khó lại còn sĩ và thế mới khổ! Có biết
bao hy vọng, thất vọng, luân phiên trào lên rồi lịm đi, bóp nghẹt tim tôi…
Từ đó, cuộc đời còn tiếp tục giáng cho
tôi những đòn chí mạng nữa. Nhưng tôi không chết đói mà chỉ gầy thôi. Tôi đã từ
bỏ tất cả xin đi Liên xô, thực chất là đi buôn xuyên quốc gia một chuyến kiếm
tiền, nhưng sau sáu, bảy tháng, không chịu nổi cảnh xô bồ, chụp giật, tôi đã chịu
phạt bỏ về. Tưởng đã cùng đường. Phải đến khi cha tôi mất, sau một giỗ, thì như
người ta thường nói, tôi ĐÃ ĐỔI ĐỜI!
Do sự đổi mới của nhà nước đã mở ra cho
tất cả mọi người những cơ hội để tìm đến sự thành đạt hay do cha tôi phù hộ?
Tôi không trả lời được. Tôi không mê tín, nhưng thật khó phủ nhận sự linh
thiêng!
Cái chết của cha tôi thật kỳ lạ! Như
một sự sắp xếp tai ác của định mệnh, ông chết vào đúng hôm tôi bay từ Liên Xô về
Sài Gòn. Ông đã để lại một niềm tiếc thương vô bờ cho dân làng. Bởi bình thường
ông hiền như đất và là một bác sĩ làng rất có uy tín. Có đứa trẻ là con nuôi
ông vì đã được ông cứu sống. Cả đời ông không màng tới một điều gì, tiền tài,
danh vọng… Ông chữa bệnh không lấy tiền. Nhưng ông lại muốn tôi đạt được một
cái gì đó để làm vẻ vang dòng họ!
Từ Sài Gòn, tôi muốn bay ngay về với
cha, nhưng không tiền, đành cắn răng ngồi trên con tầu ì ạch nặng nhọc. Tôi đã gặp
lại cha khi người đã bị dìm sâu dưới một khoảnh đất nghĩa địa ngập ngụa bùn nước.
Tôi đau đớn khóc và thầm nghĩ, ông còn khỏe lắm, mới 69 tuổi! Đêm đêm tôi không
ngủ được. Trong ngôi nhà cổ hoang vu, mênh mông, giăng kín những dải vải trắng,
từng đàn dơi bay phần phật phần phật và tiếng con mèo rền rĩ khóc! Tôi ân hận
khôn nguôi vì chưa làm vui được tuổi già ông!
*
* *
Sau giỗ đầu cha tôi, mọi chuyện hoàn
toàn thay đổi. Tôi không cần đến viện viếc gì nữa vì tôi đã là một ông chủ. Tôi
đã đến với nền kinh tế thị trường như một người lính ra trận. Tôi đã chiến đấu bằng
tất cả trí tuệ, bằng cả nỗi đau. Tôi đã dấn thân vào một cuộc cạnh tranh vô tư,
mà sự ngu dốt, ích kỷ, đố kỵ, gian manh không được bao cấp. Và, cuộc đời không
còn thử thách nữa, tôi đã được trả công. Dường như mỗi bước đi của tôi trong
công việc như có một sự dẫn dắt của thần linh, cái công việc mà tôi đã tự tạo
ra được từ chính những công trình nghiên cứu của mình. Tôi cũng đã tạo ra được
một thị trường rộng khắp nước. Nhờ nó, tôi đã giúp cho nhiều người có việc làm,
có người trở nên giầu có. Vừa rồi tôi có về quê cải táng cha… Tôi đã xây mộ cha
và ông nội theo kiểu nghĩa trang công giáo ở Long An, quê vợ tôi, mà ở quê chưa
có, và làm một bữa tiệc đông vui rất nhiều người tham dự. Nhưng cha ơi!
Ở nơi chín suối cha có biết chăng?
*
* *
Giờ đây, khi đã trà dư tửu hậu, tôi bỗng
lại nhớ đến văn chương, nhớ đến một thời gian khó và những kỷ niệm. Thì ra văn
chương không phải là tất cả cũng không phải không là gì cả. Tôi phải trở lại
với nó để tìm sự cân bằng. Không hiểu sao bây giờ, khi không còn một điều gì
nữa khiến tôi phải lo lắng về miếng cơm, manh áo, nhưng trong lòng vẫn không một
giây yên ổn. Phải chăng, lòng tham của con người cũng có sức hành hạ người ta,
làm điêu đứng người ta, không kém những nỗi bất hạnh, tuyệt vọng?
TPHCM
Viết nhân ngày giỗ thứ 5 của cha
13-5-1995
Anonymous • 2 năm trước
Bài thơ về mẹ của bạn làm mình ứa
nước mắt đấy.Còn qua câu chuyện đời bạn mình thấy bạn là người có tài,chắc là
thông minh nữa.Bạn làm gì nữa đi,đừng thỏa mãn với cuộc đời sớm nhé.Mong được
nghe đến bạn nhiều lần nữa.
ĐÔNG LA • 2 năm trước
Bạn đúng là người có tâm và hiểu
biết. Cảm ơn bạn.
Giuse Lê Thắng • 2 năm trước
Rất xúc động bác ĐL ạ. Người ta
thường nói "nghiệp văn chương", với bác có lẽ văn chương đã vận vào
rồi và như là cái nghiệp với đầy đủ ý nghĩa của nó. Bác đã từng là người giàu
có nhưng lại không mãi chạy theo tham vọng giàu có mà lại đi tìm sự cân bằng
trong đời sống cá nhân và mối tương đồng xã hội quả là khác biệt, hiếm có.
Hiểu về con người, hoàn cảnh của bác ắt sẽ có nhiều người yêu mến hơn. Thậm chí những kẻ mà bác thường gọi là rắn rết, tai trâu...cũng sẽ phải ngộ ra cái sự phi lý khi họ vào nhà bác để phá phách, "phun nọc độc", nếu...
Như bác luôn tâm niệm về linh sản mà người cha của bác để lại là “Mình làm đúng thì không sợ thằng nào hết”. Bác đã làm đúng, thậm chí rất đúng, nhưng...
Sự thật như thuốc đắng, tuy giã tật nhưng khó uống, những góp ý của bác đều trên cơ sở những viện dẫn chứng minh khoa học và tri thức, người đồng cảm khi chia sẻ sẽ có thể vỗ đùi một cách vô thức mà buột miệng la lên rằng "Hay! có lý!"... nhưng những kẻ bị bác phê phán thì lại khác. Họ sẽ "không đau vì quá đau" mà tìm mọi cách để trả thù, không đủ tri thức để trả thù thì họ sẽ trả thù vặt như bác thấy: "phun nọc độc" vào nhà bác, giá như trong cách nói của bác...
Tôi vẫn có niềm tin rằng kẻ cướp của giết người vẫn có cơ hội hoàn lương nếu cho họ cơ hội để ăn năn, hối cải. Tất nhiên chúng ta còn phải xem thái độ của họ có thiện chí, thiệt tâm không đã...
Những cái từ dừng lại ở trên: "nếu", "nhưng" hay "giá như" là những từ dùng để bày tỏ sự nuối tiếc về cái đã qua, sự nóng nảy đôi khi làm hỏng đi những điều lớn lao hơn mà mình khó nhọc chắt chiu... Hy vọng, bác ĐL sẽ kìm chế được như bác từng chiêm nghiệm cuộc đời mình, kiểm soát được như kiểm soát chính hơi thở của mình... thì tốt biết bao!
Vài lời tri giao với bác.
Giuse Lê Thắng
Hiểu về con người, hoàn cảnh của bác ắt sẽ có nhiều người yêu mến hơn. Thậm chí những kẻ mà bác thường gọi là rắn rết, tai trâu...cũng sẽ phải ngộ ra cái sự phi lý khi họ vào nhà bác để phá phách, "phun nọc độc", nếu...
Như bác luôn tâm niệm về linh sản mà người cha của bác để lại là “Mình làm đúng thì không sợ thằng nào hết”. Bác đã làm đúng, thậm chí rất đúng, nhưng...
Sự thật như thuốc đắng, tuy giã tật nhưng khó uống, những góp ý của bác đều trên cơ sở những viện dẫn chứng minh khoa học và tri thức, người đồng cảm khi chia sẻ sẽ có thể vỗ đùi một cách vô thức mà buột miệng la lên rằng "Hay! có lý!"... nhưng những kẻ bị bác phê phán thì lại khác. Họ sẽ "không đau vì quá đau" mà tìm mọi cách để trả thù, không đủ tri thức để trả thù thì họ sẽ trả thù vặt như bác thấy: "phun nọc độc" vào nhà bác, giá như trong cách nói của bác...
Tôi vẫn có niềm tin rằng kẻ cướp của giết người vẫn có cơ hội hoàn lương nếu cho họ cơ hội để ăn năn, hối cải. Tất nhiên chúng ta còn phải xem thái độ của họ có thiện chí, thiệt tâm không đã...
Những cái từ dừng lại ở trên: "nếu", "nhưng" hay "giá như" là những từ dùng để bày tỏ sự nuối tiếc về cái đã qua, sự nóng nảy đôi khi làm hỏng đi những điều lớn lao hơn mà mình khó nhọc chắt chiu... Hy vọng, bác ĐL sẽ kìm chế được như bác từng chiêm nghiệm cuộc đời mình, kiểm soát được như kiểm soát chính hơi thở của mình... thì tốt biết bao!
Vài lời tri giao với bác.
Giuse Lê Thắng
ĐÔNG LA • 2 năm trước
Đọc mấy chữ của bạn mà tôi đang khóc
đấy
ĐÔNG LA • 2 năm trước
Cái truyện này thì tôi hoàn toàn là tôi.
TT • 2 năm trước
Truyện đọc hay!
Anh Đông La sửa lại 2 chỗ lỗi đánh máy nhé:
1. "Bởi người ta sinh ra trên đời luôn mang trong mình máu của (máu) cha ông,"
2. "Cháu ạ, nếu cháu được (gặo) ông Chế"
Vì anh viết giống như kiểu hồi ký, nên cho em hỏi không biết nhân vật Tôi trong truyện này có phải là chính Anh không?
Và một người đã trải qua bao gian nan như thế thì lòng cũng nên được yên ổn chứ nhỉ? :). Cho dù phải đấu tranh với cái xấu mà lòng mình vẫn cứ yên ổn được. Vì yên ổn hay không cũng là do mình thôi mà Anh.
Anh Đông La sửa lại 2 chỗ lỗi đánh máy nhé:
1. "Bởi người ta sinh ra trên đời luôn mang trong mình máu của (máu) cha ông,"
2. "Cháu ạ, nếu cháu được (gặo) ông Chế"
Vì anh viết giống như kiểu hồi ký, nên cho em hỏi không biết nhân vật Tôi trong truyện này có phải là chính Anh không?
Và một người đã trải qua bao gian nan như thế thì lòng cũng nên được yên ổn chứ nhỉ? :). Cho dù phải đấu tranh với cái xấu mà lòng mình vẫn cứ yên ổn được. Vì yên ổn hay không cũng là do mình thôi mà Anh.
Lamda • 2 năm trước
Thực ra với cuộc đời phải chịu những
thăng trầm khá cay đắng vì cái "nghiệp hư danh văn chương" này chính Đông
La phải là người ghét chế độ này mới phải chứ nhỉ? Thế mà anh lại không, ngược
lại còn ca ngợi. Phải chăng chính trí tuệ và bản lĩnh đã giúp ĐL đứng vững cũng
đồng thời giúp anh nhận biết và phân biệt được đâu là lẽ phải cần hướng tới.