ĐÔNG LA
NGUYÊN NGỌC VÀ GIẢI NOBEL VĂN
CHƯƠNG
CỦA BÀ ALEXEIVICH
Vừa
rồi Võ Khánh Linh có “khoe” tôi viết bài về Nguyên Ngọc: Ông
Nguyên Ngọc quảng bá cho nhà văn chống Nga được giải Nobel, có ý muốn tôi góp thêm tiếng nói. Nhưng chuyện Đại
hội Đảng “nóng” hơn nên hôm nay tôi mới coi. Còn Nguyên Ngọc, một chuyên gia chuyên
bầy trò, biết chắc chỉ là bổn cũ soạn lại thôi nhưng không thể không quan tâm.
Bởi với văn chương, chữ nghĩa, học thuật, có những điều nhố nhăng nếu không
phân tích thì những kẻ quấy rối dễ lừa mị được người đọc, biến những điều nhố
nhăng thành những giá trị cao siêu.
Về giải Nobel, gần đây tôi
có trả lời phỏng vấn của các bạn “cờ đỏ”, một tác phẩm dạng mua vui bình thường
thì không thể được giải, mà muốn được giải tác phẩm phải có tư tưởng. Thực tế
đúng là có những nhà văn đồng thời là nhà tư tưởng khi tác phẩm của họ chỉ ra
những căn bệnh của xã hội loài người và của chính nhân cách con người. Như nhà văn
Gabriel Garcia Marqueztư viết về “cái cô đơn” chẳng hạn. Marquez là trường hợp đặc biệt, dư luận cho
rằng ông là người đoạt giải Nobel trong số những giải Nobel. Ông được chọn trao
giải vì tài năng và chiều kích tác phẩm của ông chứ không phải vì quan điểm
chính trị, dù một nhà văn như ông tất phải có quan điểm chính trị. Có điều khác
thường ở chỗ ông từng làm phóng viên ở Cuba và thân thiết với Fidel Castro,
nghĩa là ông có quan điểm thân cộng, ngược với quan điểm thường lệch về phía
chống cộng của giải Nobel Văn chương và Hòa bình.
Như Giải Nobel Hòa bình năm
1973 là một giải buồn cười khi người được trao giải cùng với ông Lê Đức Thọ là
Kissinger, sau khi Hiệp định Paris được ký kết. Buồn
cười vì không có chiến thắng của quân đội VN trên các chiến trường và đặc biệt
là cuộc đối đầu lịch sử ngay trên bầu trời Thủ đô Hà Nội với không quân Mỹ, với
B52 trải thảm, thì không bao giờ có chuyện ông Kissinger, đại diện phía Mỹ, ký vào
bản Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Tại hai nước từng đứng đầu “phe” XHCN là Liên
Xô và Trung Quốc, người ta thường chọn những nhà văn có tư tưởng chống lại
chính quyền để trao giải Nobel.
Với
Liên Xô, Boris Pasternak, đoạt giải năm 1958, cuốn tiểu
thuyết quan trọng nhất của ông, Bác sĩ Zhivago, không được in ở Liên Xô;
Alekxandr Isayevich Solzhenitsyn, đoạt giải năm 1970, từng viết một bức
thư bày tỏ quan điểm chống lại chủ nghĩa Stalin, 7 – 1945, ông bị kết án tù 8
năm, khi Stalin mất, ông mới được phục hồi; Joseph
Brodsky, đoạt giải năm 1987, năm 1963 Brodsky bị
kết tội "ăn bám xã hội" và bị đi cải tạo 5 năm, năm 1972, ông lại bị
trục xuất, phải sang Viên, London và
cuối cùng là Hoa Kỳ.
Với Trung quốc, Cao Hành Kiện là nhà văn gốc Trung
đầu tiên đoạt giải Nobel năm 2000, Chính phủ Trung
Quốc từng coi ông là một phần tử chống đối và các tác phẩm của ông đã bị cấm
lưu hành từ năm 1986,
ông đã bỏ Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1989, năm 1988, ông sang Pháp sinh
sống và nhập quốc tịch Pháp từ 1998.
Có
sự thiên lệch như vậy đơn giản là vì Giải thưởng Nobel được lập theo di chúc của nhà phát
minh hóa học người Thụy Điển Alfred Nobel năm
1895. Mà Thụy Điển lại là một thành viên
của EU, quan điểm về nhân quyền trong các tác phẩm tất phải lựa chọn theo “giọng” Phương Tây.
***
Võ
Khánh Linh viết:
“Giải Nobel Văn học lần này một lần nữa được
lợi dụng cho động cơ chính trị khi Nguyên Ngọc đứng ra giới thiệu và quảng bá
cho Alexeivich. Nguyên Ngọc cho biết trong buổi nói chuyện ngày 13 tháng 1 năm
2016 rằng ông có quen biết và thậm chí thân thiết với Alexeivich, nên nhanh
chóng có bản thảo của bà từ rất lâu trước khi bà ta được giải Nobel Văn học.
Được biết, Nguyên Ngọc đã dịch cuốn sách “Chiến tranh không có khuôn mặt phụ
nữ” của Alexeivich từ năm 1987, nhưng sau đó, do không có tiếng vang, Nguyên
Ngọc không hề để tâm đến bà nữa, mà hoàn toàn chỉ dịch các tác phẩm của Milan
Kundera – một nhà văn lớn và nổi tiếng khác cũng có xu hướng bài Cộng Sản. Như
vậy, Nguyên Ngọc không dịch tác phẩm văn học chỉ vì nó hay mà vì ông thấy ở các
nhà văn đó có các yếu tố giúp ông ta tuyên truyền chính trị (cũng như các học
giả trong hội đồng trao giải Nobel Văn học)”;
“Tiếp sau đó, Nguyên Ngọc phân tích về nội
dung mà Alexeivich muốn truyền tải trong tiểu thuyết của bà. Cho dù bà ta viết
về cái gì, dù là phụ nữ hay trẻ em trong chiến tranh, thì vẫn để lên án Chủ
nghĩa Cộng Sản và nước Nga Xô Viết toàn trị. Bà gọi thẳng đó là cái ác”;
Xin
mọi người nhớ cho Nguyên Ngọc từng là một Đảng viên Cộng sản, Bí thư Đảng Đoàn
Hội Nhà Văn VN, chỉ vì có những quan điểm và hành động sai trái, đã bị phê
phán, bị thất sủng, bị mất chức, nên mới thoái hóa trở thành một người có tư
tưởng chống đối như trên.
Còn bà Alexeivich, vì chưa đọc trực tiếp tác phẩm
của bà tôi không thể bình luận qua cách đọc đầy chủ quan, sai trái của người
khác được, nhưng qua những phát biểu cụ thể về chính trị thì tôi hoàn toàn có thể có
ý kiến về quan điểm chính trị của bà ta. Chỉ với câu nói: “Ở phía Đông (châu Âu) người ta "đã lừa gạt người dân 70 năm trời
và sau đó lấy đi thêm 20 năm nữa". Vấn đề này làm cho ở Nga và Belarus
"sinh ra những con người rất hung hăng, rất nguy hiểm cho thế giới"”,
bà ta đã chứng tỏ không khách quan, quan điểm chính trị đầy tính chủ quan,
thiên lệch, sai trái. Thực tế, hai cuộc chiến tranh thế giới khủng khiếp đã xảy
ra; một do tham vọng phân chia lại thuộc địa của các nước thực dân, đế quốc;
hai là sự phục thù của Chủ nghĩa Phát-xít chứ hoàn toàn không phải do tư tưởng
XHCN. Vì vậy Nguyên Ngọc hoàn toàn sai trái khi viết về bà Alexeivich, theo Võ Khánh Linh:
“Nguyên Ngọc cho biết bà Alexeivich khẳng
định rằng khi ai đó muốn mang một thứ chủ nghĩa, một thứ lý tưởng áp đặt lên
một xã hội nào đó thì đó là điều ác, và tai họa trên thế giới đều đến từ những
ảo tưởng tốt đẹp về một thế giới không có người ác, không phân biệt giai cấp,
như Chủ nghĩa Cộng Sản. Và đó là ảo tưởng, một thứ ảo tưởng muốn thay đổi thế
giới bằng chiến tranh và bạo lực. Vậy thì, rốt cuộc Alexeivich hay Nguyên Ngọc
đều đang công kích vào Chủ nghĩa Cộng Sản, quy kết cho Chủ nghĩa Cộng Sản đã
tạo ra bất hạnh cho thế giới dù rao giảng lời tốt đẹp”.
***
Trong vụ Nguyên Ngọc “quậy” lần này lại thêm một lần ông ta
thể hiện quan điểm về lịch sử, cũng lại liên quan đến khả năng dịch thuật và mục
tiêu “truyền bá tư tưởng” của ông ta! Xin thống kê lại mấy vụ:
Nguyên
Ngọc từng là chủ trò trao giải Phan Châu Trinh cho Nhà Sử học Keith W.Taylor,
một Cựu Chiến Binh Mỹ tại Việt Nam, mà các nhà báo thuộc Câu Lạc Bộ Kháng Chiến
TPHCM cho rằng không thỏa đáng.
Trên TuanVietNam, 25/11/2013, Nguyên
Ngọc viết: “Ở Pháp, một số các nhà sử học
nổi tiếng đã lập ra một tổ chức gọi tắt là CVUH (Comité de vigilance face à
l’usage public de l’histoire), có thể dịch là Ủy ban cảnh giác đối với việc đưa
lịch sử ra sử dụng trong công chúng. Các nhà sử học uyên thâm ấy cảnh giác với
việc chính quyền đương thời nhào nặn lịch sử để làm công cụ tuyên truyền cho
những lợi ích chính trị…Tôi nghĩ một sự cảnh giác thật hiền minh như vậy cũng
rất cần ở ta”.
Tôi
đã viết việc bên ngoài người ta nhả ra chữ nào Nguyên Ngọc vồ ngay lấy chỉ
chứng tỏ cái dốt của ông ta. Với các nước thực dân, đế quốc đi xâm lược phi
nghĩa, bọn bán nước phi nghĩa thì mới cần “nhào
nặn lịch sử”, còn với VN ta chỉ có một lịch sử oai hùng chống ngoại xâm,
giành lại nền độc lập, thì cần gì phải “nhào
nặn lịch sử” mà cần đến cái “cảnh
giác hiền minh”?
Việc Nguyên Ngọc từng tâng bốc mấy tác phẩm “phản lịch sử” không
chỉ chứng tỏ quan điểm sai trái về lịch sử của Nguyên Ngọc mà còn làm cho mấy
ông, bà tác giả mơ về giải Nobel, nên họ đã nhiệt thành noi theo việc chống
chính quyền của mấy tác giả trên thế giới từng đoạt giải Nobel, và như chính bà
Alexeivich ngày hôm nay!
***
Về dịch thuật, trước đây vì trình độ ngoại ngữ nói chung ở ta còn kém nên người ta thường chú ý tác phẩm dịch là hay hay dở chứ ít ai
chú ý đến chuyện dịch đúng sai. Mãi gần đây khi trình độ ngoại ngữ khá hơn,
nhiều người Việt định cư ở nước ngoài, chuyện dịch đúng sai mới được chú ý và cũng
đã có nổ ra những cuộc tranh cãi.
Tôi
không giỏi ngoại ngữ nhưng tôi thấy trước những vấn đề liên quan đến học thuật,
thì ngoài trình độ ngoại ngữ, người dịch cần phải có một nền tảng tri thức để
dịch cho đúng cũng quan trọng không kém. Như một đứa trẻ dù thông thạo tiếng mẹ
đẻ đến mấy cũng không thể hiểu nổi những trang học thuật viết bằng chính tiếng
mẹ đẻ.
Tình
trạng ngoại ngữ của Nguyên Ngọc với văn hóa cấp II cũng y như một đứa trẻ bản
xứ vậy. Nên Nguyên Ngọc đã dịch sai tùm lum. Thật e ngại khi lần này cũng lại chính
Nguyên Ngọc “đã trổ tài” dịch cuốn “Chiến tranh không có khuôn mặt phụ nữ” của
Alexeivich ngay từ năm 1987.
Vì
chưa đọc cuốn đó nên tôi không biết Nguyên Ngọc dịch ra sao. Vậy xin nhắc lại
vài ví dụ về khả năng dịch thuật của Nguyên Ngọc.
Nhà
phê bình Pháp Barthes viết cuốn Le Degré zéro de l'écriture suivi de Nouveaux essais critiques. Barthes
dùng l'écriture để thể hiện
sự dấn thân của nhà văn, ông cho sự không tỏ thái độ là “độ không” (Le Degré zero). Nên “độ
không” ở đây là thái độ trung tính, là sự vô cảm chứ không phải “độ không của lối viết”. Cụm từ “độ không của lối viết” hoàn toàn vô
nghĩa nên Nguyên Ngọc đã dịch như vậy là hoàn toàn sai, là chưa hiểu bài!
Nguyên Ngọc cũng dịch câu của Kundera la
sagesse de l’ambigui là “sự
hiền minh của tính nước đôi”. L’ambigui là sự
mơ hồ mà sự mơ hồ thì hoàn toàn không phải là nước đôi. Sự mơ hồ chỉ cái chưa
rõ ràng, còn nước đôi chỉ sự lưỡng lự giữa hai cái. Mà đã “nước đôi” thì hoàn toàn không thể “hiền minh” được. Làm dáng chữ nghĩa đúng đọc đã ghê, lại còn làm
dáng sai nữa thì đọc đúng là thấy gai cả người! Milan Kundera cho khi dân số
thế giới tăng thì trọng lượng của cái tôi, của đời sống nội tâm ngày càng nhẹ
đi, nên ông đã đặt nhan đề một cuốn sách của ông là L'Insoutenable légèreté de l'être. Vì
vậy L'Insoutenable légèreté nghĩa
là cái “sự nhẹ không thể chịu nổi”,
thể hiện sự e ngại về sự biến mất cái tôi trong thế giới hiện đại mà con người
ngày một sống chen chúc hơn. Vậy mà Nguyên Ngọc đã dịch là Nhẹ bồng cái kiếp nhân sinh. Nhẹ bồng (bồng trong phiêu bồng)
chỉ sự phiêu du nhẹ nhàng, ngược với cái sự
nhẹ không chịu nổi nói trên!
***
Trong
bài Chính
ủy Nguyên Ngọc trên VietNam.net,
Phạm Xuân Nguyên từng viết:
“Nguyên Ngọc ngày càng nhận thức sâu hơn, khác hơn về
thực tại… trở thành nhà tư tưởng Nguyên Ngọc, hơn thế, nhà tư tưởng hành động”;
“…khác với những người làm tư tưởng từ chính trị. Ông đã từ văn hóa nghệ thuật
đến văn hóa tư tưởng… Ông có một cơ bản tiếng Pháp vững, và trên hết là một
lòng say mê đọc và truyền bá tri thức nhân loại cho đồng bào mình”.
Nếu có
trình độ để hiểu như tôi phân tích ở trên sẽ thấy những lời tâng bốc của Nguyên
thật buồn cười, vì Nguyên Ngọc không chỉ không có tư tưởng gì mà còn không đủ
trí để hiểu những vấn đề mang tính tư tưởng. Vì không hiểu nên Nguyên Ngọc kỳ
công dịch tác phẩm của Barthes để truyền bá tư tưởng của ông, rồi cũng lại kỳ
công dịch tác phẩm của Kundera, một người có tư tưởng ngược với Barthes.
Barthes
coi trọng tác phẩm dấn thân, phê phán sự vô cảm, cho là số không, nghĩa là coi
trọng ý thức cống hiến. Còn Kundera coi Hiện
tượng học làm cơ sở triết lý cho văn chương. Husserl là người sáng
lập ra Hiện tượng học mô tả sự tự sinh của ý thức, hướng về đối tượng nào đó (ý
hướng tính), rồi ban bố cho nó ý nghĩa. Không có duy tâm hay duy vật mà chỉ có
trạng thái nối liền liên khách chủ thể (Relation sujet-objet) mà Husserl
gọi là sự suy tư về chính chủ thể suy tư.
Chủ nghĩa Hiện sinh ra đời đã chịu ảnh hưởng nhiều từ Hiện tượng học. Đó là một
chủ nghĩa đề cao cái tôi, cái hiện sống, cho con người không phải chịu ràng
buộc bởi tự nhiên cũng như xã hội. Có thời thanh niên ở một số nước phương Tây đua
nhau sống theo bản năng, tự nhiên chủ nghĩa, lũ lượt kéo nhau lên rừng sống bằng
rau trái, tự nhiên khỏa thân, tự do chung chạ v.v… Sau nữa, Chủ nghĩa Thực dụng
ra đời cũng dựa trên cái Tôi “Không
có cái gì gọi là chân lý khách quan mà chỉ có chân lý của cái tôi. Chỉ có cái
gì có lợi cho tôi sẽ là chân lý”! Vì vậy nói tư tưởng Kundera ngược với
Barthes là vì thế, và nói Nguyên Ngọc “đếch
biết gì” cũng vì thế!
***
Chính
vì Nguyên Ngọc mê (mụ) Kundera nên đã luôn ủng hộ, ca ngợi những tác giả, tác
phẩm đề cao cái tôi chủ quan, bất chấp sự cực đoan, lập dị, lộn ngược, thậm chí
phản động. Trong một bài trả lời phỏng vấn cũng trên VietNam.Net, Nguyên Ngọc viết:
“Dân chủ không phải là cái đem cho, dân chủ
đem cho thì không phải là dân chủ, dân chủ là giúp cho người ta vùng lên tự
giải phóng. Hơn ở đâu hết, trong giáo dục điều ấy càng rõ và thiết yếu”.
Tôi
đã viết, một người luôn phản bác sự “chính trị hóa” giáo dục vậy mà ở đây khi
bàn về giáo dục Nguyên Ngọc cũng lại tranh thủ tuyên truyền chính trị cho con
đường “đấu tranh cho dân chủ” của
mình, chẳng khác gì ông ta đã đi gieo mầm phản loạn độc hại, nguy hiểm trong
tâm trí trong sáng của các em học sinh.
Nguyên
Ngọc là người luôn kiếm cớ để thực hiện mục đích chống đối thì kỳ này, chuyện
bà Alexeivich được giải Nobel Văn chương, Nguyên Ngọc mau mắn tổ chức buổi tọa
đàm tất cũng chỉ vì mục đích đó mà thôi. Rất cần nhiều bài viết chỉ ra sự sai trái như
bài của Võ Khánh Linh.
2-2-2016
ĐÔNG LA