Thứ Tư, 10 tháng 2, 2016

NHỮNG KỶ NIỆM VÀ TÂM TƯ VỀ TẾT

ĐÔNG LA
NHỮNG KỶ NIỆM VÀ TÂM TƯ VỀ TẾT

Niềm vui tết năm nay của tôi bị mẻ một miếng to, đơn giản là vì tôi bị bệnh. Bệnh vặt cảm cúm do trời lạnh đột ngột thôi nhưng triệu chứng rất khó chịu. Sau khi thực hiện ba mũi giáp công, từ tỏi nhà bếp, thuốc cảm, thuốc chống viêm, thuốc kháng sinh, sáng nay gần như đã hết khó chịu, cổ họng còn đau chút xíu thôi.
Nhưng với tôi thực ra từ khi 17 tuổi xa quê tới nay đâu có khi nào vui một cái tết trọn vẹn. Khi lấy vợ, có con, tức đã có một thế giới riêng, cần phải tổ chức tết cho con cái, rồi mình cũng vui theo các con, nhưng rõ ràng là lo tết, niềm vui vẫn không giống mình hưởng những cái tết của cha mẹ dành cho thời bé thơ. 11 năm nay thằng con lại xa nhà, tết lại trống vắng, mất vui già nửa. Buổi sáng hàng ngày (giờ VN) nó hay gọi điện về cho mẹ nó để giết thời gian, vì bên chỗ nó là chiều tan tầm, nó thường đang lái xe trên xa lộ về nhà. Gần trưa 30 kỳ này nó gọi, mẹ nói hỏi “Chuẩn bị đi ngủ hả?”, nó bảo “Con chuẩn bị đi làm, Tết có thằng VN xin nghỉ ăn Tết, con làm 3 ca luôn”. Ông con phải đi làm 3 ca trong ngày tết thì làm cha mẹ cũng khó mà vui tết trọn vẹn được.
Tóm lại với tôi chỉ có thời trẻ con là có niềm vui tết trọn vẹn, và chính tình cảm thực đó đã tạo cảm hứng cho tôi sáng tác được vài bài thơ về Tết.
          Nhớ lại có lần đàm đạo thơ văn với Nhà thơ Hoài Anh và bạn anh là ông “Lâm râu”. Cả hai người đều đã chết, anh Hoài Anh còn thì giờ đã chẵn 80 tuổi. Nếu nói cuộc đời có số mệnh thì quan hệ với anh Hoài Anh là một phần số mệnh của đời tôi. Sau khi cô Anh Thơ xác nhận tôi có khả năng làm thơ, cô xé một tờ lịch viết: “Thân gởi nhà phê bình trẻ Hoài Anh… có cậu này làm thơ khá, có bài này nhờ Hoài Anh đưa…”. Cô viết vậy vì anh Hoài Anh làm ở báo Văn nghệ TPHCM, cũng đã là một tên tuổi trong làng Văn. Sau đó bài thơ của tôi được đăng, đó chính là lần đầu tiên tôi được đăng báo nên vui không thể tả được. Hôm đi lấy nhuận bút, chị phát nhuận bút bảo anh Hoài Anh có nhắn rằng “ảnh” muốn gặp tôi. Tôi ra tìm gặp anh ngay, từ đó bắt đầu một tình bạn vong niên mấy chục năm. Anh hơn tôi gần 2 chục tuổi, nhưng rất quý trọng tôi, tính tôi thích ngồi một mình, tại quán cà phê trong khuôn viên tòa báo, anh đang ngồi bàn với đông người, thấy tôi đến là bỏ sang ngồi riêng với tôi. Lúc đầu chính tôi cũng thấy lạ, mãi sau mới hiểu. Số là trong một bài anh viết nhân sự kiện Nhà thơ lớn Chế Lan Viên mất, anh kể chính Chế Lan Viên đã đến tận báo gởi gắm tôi cho lãnh đạo báo (Nhà thơ Chim Trắng) và chính anh. Tôi nhớ sau lần đầu tiên Chế Lan Viên đọc chùm thơ dự thi của tôi tại nhà ông và ông cho giải ngay, ông còn đứng tên giới thiệu tôi vào Hội Nhà Văn TPHCM, ông bảo sẽ đến báo giới thiệu tôi. Tôi nghĩ ông nói chơi thế thôi, không ngờ, tận 3 năm sau khi ông mất (1989), thì qua bài anh Hoài Anh viết, tôi mới hiểu ông không nói chơi mà nói thật. Vợ con tôi cũng đã được gặp ông, ông cũng rất quý. Thằng con tôi cũng có chuyện không ngờ, khi lên cấp III lại học cùng lớp với thằng Đức, cháu ngoại của ông. Vì thế tôi có tình cảm sâu đậm thật với Nhà thơ Chế Lan Viên chứ không phải cái thói vớ vẩn “thấy kẻ sang bắt quàng làm họ” như bao kẻ nhỏ nhen trong giới văn chương từng nghĩ về tôi.
          Quay lại chuyện đàm đạo về thơ với anh Hoài Anh và ông “Lâm râu”. Ông “Lâm râu” khoái chí khoe một câu ông làm về cái chuyện va vào nhau thế nào đó mà tôi không nhớ.
          Tôi bảo:
          -Va thế ăn thua gì, em đây này, đi lang thang trong chiều, đêm xuống “va cả vào đêm” mà còn không biết đây này.
          Rồi tôi đọc:
          Ta lại một mình lang thang trên quê
          Va cả vào đêm đặc quánh
          Ông “Lâm râu” vỗ đùi: “Công nhận thơ mày hay!”, còn anh Hoài Anh chỉ tủm tỉm cười.
          Tôi nhắc lại chuyện này đơn giản là vì hai câu đó chính là hai câu mở đầu cho một bài thơ Tết của tôi.
          Dân gian thường nói “Tối như đêm ba mươi”, “Đêm ba mươi tối đen như mực”, đó là những ấn tượng giúp tôi có cái cảm giác đêm đặc quánh, có thể va vào được, và với con mắt nhà phê bình văn học thì “va vào đêm đặc quánh” chính là một sáng tạo ngôn ngữ.
          Bài thơ viết về kỷ niệm thời thơ bé đón Tết khi đất nước còn chiến tranh vô cùng nghèo khổ. Chính vì nghèo khổ nên Tết mới vui hơn, chỉ ngày tết những đứa trẻ mới có cơ hội được mặc áo mới, mới được ít nhiều ăn ngon. Tôi dùng chữ “cơ hội” vì là điều không chắc chắn, “ít nhiều” vì có đâu mà ăn nhiều. Với tôi ấn tượng về cái nghèo khổ chính là về cái lạnh, còn hơn cả về cái đói. Những câu thơ tôi sáng tác đầu tiên chính là viết về mẹ, về sự gian khổ của mẹ trong giá lạnh mùa đông, khi tôi đang là một cán bộ nghiên cứu của một viện Dược thuộc Bộ Y tế, chính vậy mới khiến cho nhà thơ Anh Thơ phải kêu lên là “Cháu có tài đấy cháu ạ”. Những câu thơ rất thật nhưng lại rất sống động, ấn tượng, “không giống ai”, khiến cho một nữ thi sĩ, đến nay hình như vẫn là duy nhất được Giải Hồ Chí Minh, khen tôi là có tài như trên, đã khuyến khích tôi vào con đường văn chương (vô tích sự), lại còn giới thiệu tôi đến với Chế Lan Viên nữa:

Ôi mùa Đông rét trụi cành xoan
Rét quăn mép chiếc lá chè thưa thớt
Rét làm đọng hơi mặt giếng khơi ngùn ngụt
Rét làm dài con đường ngắn ngủi trên quê

Những ấn tượng đó tôi cũng viết trong bài thơ về Tết nói trên:

Lại một mình trên con đường thân quen
Thấy lăn lóc đầy dấu chân một thời thơ bé
Dấu chân của thời không giày không dép
Bao năm rồi còn nằm đó lạnh run

              Cúi nhặt lên ủ ấm giữa lòng tay…

          Nếu không hiểu, không trải nghiệm, những nhà phê bình quen thói bắt bẻ dễ cho tôi là “làm văn”, “làm dáng chữ nghĩa”, làm sao thấy được dấu chân mấy chục năm trước, còn “Cúi nhặt lên ủ ấm giữa lòng tay”. Có điều cần phải phân biệt, sự sáng tạo chữ nghĩa nếu dựa trên một nền tảng của hiện thực, của cuộc sống tất sẽ có giá trị, còn không thì đúng chỉ là thứ văn chương sáo rỗng. Để viết được những câu thơ trên tôi đã phải trải qua cả một tuổi thơ đói rét. Hồi nhỏ, lũ trẻ con chúng tôi trong giá lạnh cắt da nhưng toàn phải đi chân đất, không có giày dép gì cả. Nên một đôi giầy ba ta bình thường luôn là mơ ước của tôi, mơ trong khi ngủ chứ không phải lúc thức, vì lúc thức thì chẳng dám mơ.
Trong một bài khác tôi cũng viết về cái lạnh:

Tuổi thơ con lăn lóc trong lam lũ nhọc nhằn
Những con chữ cũng bị đói lây trong giờ lên lớp
Ngón chân tím bầm suốt mấy mùa đông

Viết về Tết không thể không nhớ về ông bà, cha mẹ.

(Cha mẹ tôi)
Cả tuổi thơ, người tôi ở gần nhiều nhất là mẹ, người thứ hai là ông nội chứ không phải cha tôi vì cha tôi luôn bận “công tác”. Ông là y sĩ, trưởng trạm Y tế xã, là người có bằng cấp tây y đầu tiên ở quê tôi. Ông thường bảo: “Bác sĩ thì là cái đếch gì, tại tao già chứ học thêm vài năm là thành bác sĩ chứ có gì đâu”. Hồi nhỏ tôi thấy người ta thường gọi ông là “BS Xuất”, bệnh gì cũng gọi, ông chữa tất, nặng quá thì chuyển lên “tuyến trên”, có khi vừa về đến nhà là lại có người gọi. Chữa bệnh cứu người như một sứ mệnh, ông không bao giờ từ chối, nhưng tôi thấy ông hay chửi tục một câu rồi mới đi: “Tiên sư nó! Bố vừa về đã gọi rồi!”. Ông một tay xách một cái túi nhựa nhỏ đựng hộp ống và kim tiêm (tôi còn giữ), tay kia cầm cái xoong nhỏ có cán để luộc ống và kim tiêm khử trùng. Hầu như ông chữa bệnh cho tất cả mọi người trong xã, không "ăn tiền" như bây giờ, chỉ khi nhà người ta có cỗ thì hay mời ông, có những trường hợp đặc biệt ông được coi như là ân nhân cứu mạng. Như thằng Mạnh “Yêng”, gọi thế vì nó con bà Yêng cùng xóm tôi. Khi mẹ nó sinh, nó bị ngạt, tím tái hết cả rồi, cha tôi hôm đó bận hay do thế nào đó mà không có mặt kịp thời. Khi người ta gọi được ông đến ông đã kiên trì cứu sống được nó. Chính bà ngoại nó, chứ không phải mẹ nó như tôi vẫn tưởng, đã làm lễ mang ra nhà tôi, xin cho nó làm con nuôi chính thức và xin được đặt trùng tên với thằng Mạnh em ruột tôi. Thằng Mạnh này giờ đã là Phó Bí thư thường trực huyện tôi. Thằng Mạnh em ruột tôi nói “Nó to thứ hai huyện mình. Đi đường không đội mũ bị công an bắt cứ gọi cho chú Mạnh!”. Ông anh tôi cũng mới cho tôi biết thêm chính thằng cháu con ông trưởng họ tôi, cũng từng bị bệnh nặng thuộc “diện” cha tôi cứu sống.
Vì thế tôi luôn tự hào về cha tôi, có ý thức học hành vì noi gương ông. Ông hay nói với mẹ tôi: “Thằng Hùng nó thông minh giống tôi”. Nhưng thực tế mẹ tôi không biết chữ nhưng về sự thông minh thì chưa biết ai hơn ai, còn tính nết tôi lại giống ông nội nhiều hơn chứ không phải cha tôi. Tôi giống ông tôi ở chỗ cái gì cũng biết làm. Cha tôi ngoài công việc y sĩ ông không giỏi, không chăm làm một điều gì. Tôi nói với thằng con “Mày đúng là giống ông nội mày, còn tao giống ông nội tao”. Tôi cũng có dáng khòng khòng của ông nội, có người bảo tướng quý đấy, tướng của nhà tư tưởng đấy! Thời ông tôi chuyện học hành quá hiếm, chỉ được học ông giáo làng thôi, nhưng ông tôi học giỏi nhất nên được ông giáo gả con gái cho, đó chính là bà nội tôi. Ông tôi là người thường nhưng lại rất có uy ở vùng quê tôi, chính là người đã đứng ra bảo vệ nhà thờ họ nên nó còn đến ngày hôm nay khi mà thời “Cải cách” người ta đã tính phá đi hết cả.
Vì vậy tôi cũng luôn tự hào về ông nội tôi. Tôi hay nhớ chuyện ông tôi làm món ăn, nhất là ngày tết giã giò, thái nem, gói bánh. Ông thường để dành một phần để cúng giỗ vợ, tức bà nội tôi, ngày 14 tháng giêng, cũng chính là ngày cưới “chạy tang” của cha mẹ tôi. Kỷ niệm tết thời nhỏ không thể không nhớ chuyện “ăn đụng” thịt, mấy nhà chung nhau một con lợn. Giờ thấy chuyện sát sinh ghê ghê nhưng hồi nhỏ, đêm mấy nhà chung nhau mổ lợn chính là niềm trông đợi, là niềm vui, là không khí tết. Tiếng giã giò từ mấy chục năm trước vẫn luôn vang trong ký ức tôi và còn vang lên cả trong thơ tôi nữa. Tôi đã viết:

Cúi nhặt lên ủ ấm giữa lòng tay
                   Nghe vọng lại cái háo hức những ngày nào mong Tết
                   Vọng lại tiếng giã giò ngày nào “cục quyếch”
                   Bóng ông lầm rầm trước bàn thờ Tổ trầm tư        

                   Chưa kịp dạy con khấn vái cha đã ra đi
                   Giỗ Tết về chỉ biết gọi cha bằng những lời im lặng
Những sợi khói hương có bắc được nhịp cầu
                                        giữa hai bờ cách biệt ?
                   Cha đã mất rồi hồn cha có còn không?
          ***
          Tết nhất không chỉ là chuyện vui mà còn gắn bó với tâm linh, không thể có Tết mà không có chuyện cúng Tết. Câu hỏi linh hồn có còn không là câu hỏi đến cả nền khoa học cũng không trả lời dứt khoát được. Nhưng đến nay qua những chứng cớ của hiện tượng ngoại cảm xuất hiện ở VN đã giúp tôi khẳng định có thế giới của linh hồn, có cõi tâm linh, nhưng nó cụ thể như thế nào thì không biết đến bao giờ người ta mới có thể tường tận được, dù các tôn giáo đã tồn tại từ mấy ngàn năm, dù nhiều nhân vật có khả năng siêu phàm từng xuất hiện trong toàn bộ lịch sử của thế giới, và tôi trong chính những ngày hôm nay đây cũng đã tròn hai năm chứng kiến một người như thế. Đó chính là cô Vũ Thị Hòa.
Vì vậy trong ngày Tết tôi không thể không nhắc lại mấy chuyện ấn tượng nhất trong năm qua liên quan đến thế giới tâm linh mà cô Vũ Thị Hòa đã thể hiện khả năng siêu phàm của mình. Đó là chuyện tìm hài cốt một liệt sĩ dưới chân tường một ngôi nhà ở Củ Chi trước sự chứng kiến của tôi và nhiều người, cô nói trước sâu 1m8, vật chứng là cái răng vàng và cái bút máy “kim tinh”, những mảnh quần áo và những mẩu xương còn lại. Tất cả đã được tìm thấy đúng như cô nói. Chuyện thứ hai là chuyện cô dẫn một chủ nợ đi bắt sống kẻ trốn nợ, đã biệt tăm tích mấy năm, ở ngay giữa rừng sâu! Vợ tôi sau khi nghe tôi kể bảo “Bộ Công an mà tin cô, trọng dụng cô phá án thì đỡ tốn biết bao công sức”. Có điều tôi băn khoăn, khả năng của cô có phải là vô hạn không, hay chỉ tùy trường hợp thôi? Chuyện thứ ba còn đặc biệt hơn vì là chuyện tìm mộ thất lạc của chính bà nội tôi. Vật chứng là chiếc hũ gốm mà thằng thầy đểu người Tầu, ông nội tôi nhờ nó yểm bùa “hóa hung thành cát”, nhưng nó lại lừa ông nội tôi, bí mật bỏ theo tiền xu lỗ vuông một chiếc đinh bọc giấy “trang kim” để yểm nhà tôi “độc đinh” rồi tuyệt tự luôn. Cô cũng nói sao thì đào lên đúng như vậy.
Lại nói chuyện “mổ lợn”, trước tết, ông BS Thành cũng nhắn tin, tôi phải chụp đưa lên để bọn xấu không nghĩ tôi xạo để tuyên truyền trục lợi:

          Trước nữa Hường cũng nhắn tin cho tôi. Tôi bảo giờ mọi chuyện về cô tốt đẹp rồi, tôi hoàn thành sứ mệnh rồi. Những ngày lễ, tết, những lúc vui vẻ, nhiều người có thể phụ giúp cho cô tốt hơn tôi, tôi không gặp cô nữa cũng được. Hường nói chuyện, mà chính cô cũng đã nói với mọi người trong đó có tôi, là giờ cô hay đi “công tác”, nhà nước trọng dụng cô rồi, rước cô đi bằng xe có gắn dấu hiệu “gặp công an cũng không sợ” rồi;

giờ cô sáng như ban ngày rồi, vậy mà, nguyên văn Hường viết: “anh lại hết duyên với cô thì em tiếc lắm ạ!” Tôi viết giữa tôi và cô có quá nhiều chuyện ân nghĩa chuyện hết duyên cũng là khó.
          Đúng như thế, mấy ngày sau cô gọi:
          -Anh Đông La ra ngoài này đi, em sắp đi làm từ thiện ở vùng cao đấy.
          -Thôi cô ạ, em mới đi Bắc hai lần liền.
          -Vậy mồng 8 Tết anh phải ra đấy.
          -Em ngại quá, cô cứ ưu ái quá sợ người ta ganh tỵ, hay để nhường người khác, cô cho người khác đi.
          -Ông Đông La ơi, cái tôi của ông còn to lắm. Thôi, không được nói lôi thôi, mồng 8 Tết anh phải ra. Anh không ra là em làm cho anh điên luôn đấy!
          Tôi nghĩ thầm, bà này có phép thần thông, cáu tiết lên làm mình điên thật thì sao?
Nhưng chuyện đi Bắc ăn Tết cũng là chuyện sướng chứ không phải chuyện khổ, cũng không khó khăn gì để mà chiều theo ý cô, nên tôi cuối cùng đã OK.
          Mồng 3 Tết Bính Thân
          10-2-2016
          ĐÔNG LA