ĐÔNG LA
BÀN CHÚT VỀ THIỀN
NHÂN
ĐẶNG LÊ NGUYÊN
VŨ “NGỘ”
Người ta hay
nói là phải “ngộ” đạo, nhưng thế nào là ngộ cũng lại không dễ hiểu. Có người
thuộc làu kinh sách nhưng không ngộ, ngược lại có người không thuộc gì lại ngộ.
Cô Vũ Thị Hòa
là một người có khả năng siêu phàm có hàng ngàn người
chứng kiến, trong đó có tôi và một nhân vật tôi muốn nhắc tới như một nhân chứng
là TS BS Lương Chí Thành, một một facebooker khá nhiều người biết. Tôi đã viết
rất nhiều về cô, bênh vực cô khi bị vu khống, vậy tại sao hôm nay Đặng Lê
Nguyên Vũ cũng có những tiết lộ mình có những khả năng siêu phàm, tôi lại phê
phán? Khả năng siêu phàm thực sự của Vũ thế nào tôi chưa biết, nhưng những gì
Vũ nói liên quan đến tri thức, đến thiền thì như
tôi đã viết, toàn là chuyện ba lăng nhăng cả. Với cô Vũ Thị Hoà thì ngược lại, cô
không chỉ chứng tỏ khả năng nhìn xuyên mặt đất,
xuyên không gian (rất nhiều người và tự tôi đã chứng kiến), nhìn ngược quá khứ,
nhìn xuôi tương lai và rất nhiều chuyện kỳ lạ khác (về giác quan), riêng tôi với
tư cách là nhà lý luận phê bình, từng làm cán bộ nghiên cứu khoa học tự nhiên,
còn thấy khả năng đặc biệt kỳ lạ khác về “trí quan” của cô. Tại sao cô chỉ là một người tự học để
biết đọc, biết viết nhưng từ khi “phát sáng” cô lại viết
ra được những kinh sách cao sâu mà những người phải có hiểu biết cỡ như tôi mới
có thể hiểu tường tận được là cô viết rất đúng.
Nhân chuyện Vũ
“Trung Nguyên” khoe đã “ngộ” nhưng tôi bảo
là “tẩu hoả nhập ma”, vậy thế nào mới là ngộ thật. Hôm nay tôi viết lại một ít chuyện về
thiền.
Cô Hoà từng viết:
“Đường nhân đạo trông không mà có? Pháp trí thông truyền có hoá không?” Điều
này liên quan đến Kinh Phật nói “Vạn pháp do
tâm sinh”. Tâm trong sáng, hướng thiện chính là nền tảng cơ bản để ngộ, dù người
ta có biết đến kinh sách hay không.
Để hiểu thế
nào là ngộ có lẽ hay nhất nên coi những chuyện Phật Tổ và các nhà sư tiếp nối
chọn người kế thừa mình mà trong kinh sách gọi là “truyền y bát”. Bởi người được
các ngài chọn tất phải là những người ngộ nhất.
Trong Ngọc
sắc tâm kinh, cô Vũ Thị Hòa cũng viết về chuyện Đức Phật Tổ chọn người kế
thừa:
“Ngày xưa Đức
Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh thuyết pháp suốt 49 năm nhưng trong buổi pháp hồi
cuối cùng tại núi Linh Thứu, ngài chẳng nói một lời nào cả. Tay ngài
cầm đóa hoa đưa ngang tầm mắt nhà Phật gọi là niệm hoa thị chúng. Đệ tử trên
hàng vạn người trong đó gồm cả thiên thần đều ngơ ngác không hiểu, chỉ có một
phật tử ngộ được hàm ý của Đức Phật nên mỉm cười. Đức phật thấy phật tử mỉm cười
ngài mới nói cùng phật tử, ngộ hữu chánh pháp nhãn tàng, Niết - Bàn diệu tâm,
thực tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giao ngoại biệt truyền
"Chánh pháp nhãn tàng". Chánh pháp là chân pháp, nhãn tàng tức là ẩn
tàng ở mắt. Mắt này không phải là mắt trái cũng chẳng phải mắt phải mà chính là
chỗ "O", đó là bản tính Như Lai, là tâm bồ đề của ta. Tâm này không
sinh, không diệt nên gọi là thực tướng, lại vô hình vô sắc không thể thấy được
nên gọi vô tướng. Vạn pháp từ đây mà ra nên vi diệu. "O" không ở nơi
văn tự, chỉ có thể dùng tâm ấn tâm mà thôi. Đạo mà ta đã truyền cho các con
trong lúc cầu tu, hành đạo chính là chánh pháp nhãn tàng trong thời kỳ phổ độ”.
Trên Google
cũng có câu chuyện trên nhưng được viết là “Niêm hoa vi tiếu”, nghĩa là cầm hoa mỉm cười.
Vậy viết như cô Hòa “Niệm hoa thị chúng” hay hơn. Niệm có nhiều nghĩa, nghĩa ở
đây là việc chủ ý dùng cành hoa để khai thị Phật Pháp cho chúng sinh. Còn vị Phật
tử được Phật Tổ chọn mà cô viết ở trên chính là ngài Ma-ha-ca-diếp (Tiếng Phạn
Mahākāśyapa, còn gọi là Tôn giả Ca Diếp hay Đại Ca Diếp). Ngài chính là vị tổ
thiền tông đầu tiên của Phật giáo. Còn Tổ Bồ Đề Đạt Ma, người đã đem thiền tông
đến Trung quốc vào khoảng thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch chính là Tổ thứ 28 đồng thời
là Tổ thứ nhất ở Trung Quốc.
***
Thiền định
(kasina) là sự tịnh thức, có người viết là tỉnh thức, tôi thấy tịnh thức là
đúng hơn, vì là sự khai sáng trong yên tĩnh, mà yên tĩnh chính là sự trong suốt
của tâm thức. Cơ sở của thiền là vô chấp, loại bỏ tạp niệm để an tâm, để đạt được
yên tĩnh, mà im lặng là một biểu hiện của yên tĩnh, nên im lặng là một loại
ngôn ngữ cao thâm nhất của thiền.
Có nhiều câu
chuyện thú vị nói về ngôn ngữ của sự im lặng.
Với công án
thiền nổi tiếng “Thế nào là tiếng vỗ một bàn tay?” Thực tế đó là một sự vô lý.
Nhưng với thiền sư đang tu tập mà còn chú ý đến sự vô lý, rồi tìm cách giải
nghĩa nghĩa là còn chấp, là còn chưa hiểu sâu sắc về thiền. Vậy câu trả lời
đúng nhất theo tinh thần của thiền chính là sự im lặng, chính là “tâm ấn tâm,
không ở nơi văn tự” như trong câu chuyện Phật Tổ chọn người kế thừa ở trên. Còn
muốn giải nghĩa thành lời theo đạo thì tiếng vỗ của một bàn tay là tiếng vỗ của không chứ
không phải tiếng vỗ của sắc, âm thanh của nó là im lặng.
***
Bồ-đề-đạt-ma (zh. 菩提達磨, sa. Bodhidharma) (là đệ tử
và truyền nhân của Tổ thứ 27, Bát-nhã-đa-la, sa. prajñādhāra) là Tổ thứ 28 và
cuối cùng sau Phật Thích-ca Mâu-ni của Thiền tông Ấn Độ và là Sơ tổ của Thiền
Tông Trung Quốc.
Ngài đến TQ
vào triều đại nhà Lương (502-557). Lương Vũ Đế. là một người sùng đạo, đã cho
xây nhiều chùa chiền, bảo tháp nên đã hỏi nhà sư Ấn Độ:
-Trẫm từ lên
ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có
công đức gì không?
Đạt Ma đáp:
-Không có công
đức.
-Tại sao không
công đức?
-Bởi vì những
việc vua làm là nhân "hữu lậu", chỉ có những quả nhỏ trong vòng nhân
thiên, như bóng tùy hình, tuy có nhưng không phải thật.
-Vậy công đức
chân thật là gì?
Sư đáp:
-Trí phải được
thanh tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không vắng lặng, như vậy mới là công
đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ
tăng) mà cầu được.
Cần phải hiểu
sâu xa hơn ý Sư Tổ. Việc vua xây chùa nhưng bằng tiền của do bóc lột của dân
nghèo nên không phải gieo nhân lành mà là nhân "hữu lậu". Chữ lậu (Āsava)
Hán tạng dịch là lậu hoặc. “Lậu” là rỉ ra nhơ bẩn, “Hoặc” là
mê lẫn. Vì vậy mà không có công đức. Công đức thật sự của vua phải từ chính cái
tâm trong sáng, lòng thương yêu, lo toan cho dân chúng của vua.
***
Sự tích truyền
pháp của Bát-nhã-đa-la cho Bồ-đề-đạt-ma được truyền lại như sau:
Sư phụ hỏi:
"Thứ gì vô sắc?". Bồ-đề-đạt-ma đáp: "Vô sinh vô sắc".
Chỉ vậy thôi
người đệ tử đã được thầy chọn.
Nếu không hiểu
Đạo Phật không thể hiểu bài thi và bài trả lời là tuyệt vời như thế nào. Bồ-đề-đạt-ma
không trả lời trực tiếp câu hỏi mà muốn câu trả lời sâu sắc hơn, rộng lớn hơn,
nên đã dùng Thuyết Duyên khởi để trả lời. Duyên
khởi và Vô ngã là hai giáo lí trụ cột của Phật giáo.
Phật Tổ nói:
“Nếu cái này tồn
tại thì cái kia hình thành. Cái này phát sinh thì cái kia phát sinh. Cái này
không tồn tại thì cái kia không hình thành. Cái này diệt thì cái kia diệt”.
Đó chính là kinh
Duyên khởi.
Đến lượt Tổ Bồ-đề-đạt-ma
chọn người kế thừa, ngài không chọn đệ tử “chăm ngoan” mà chọn một đệ tử lắm tật,
nhưng phải bằng huệ nhãn của ngài mới nhận biết được tâm ngọc của người đệ tử.
Người đó chính là Thần Quang, sau được Tổ đặt tên là Huệ Khả, chính là Tổ thứ 2
của Thiền Tông Trung Quốc.
***
Có nhiều chuyện
thú vị, được dựng thành phim ảnh. Thần Quang vốn là một đệ nhất công tử văn võ
song toàn, con một võ quan đầu triều, được cưng chiều nên quậy phá. Một lần
trên đường có dòng người theo nhau đi nghe Bồ-đề-đạt-ma thuyết pháp, Thần Quang
trêu ghẹo một phụ nữ, gây sự rồi đánh chết chồng người ta. Bồ-đề-đạt-ma lần đầu
gặp Thần Quang chính vào cái lúc ấy, còn chưa biết mặt ngài. Ngài chất vấn thì Thần
Quang trả lời ý là, gốc của cái lỗi này chính là do cái ông Bồ-đề-đạt-ma thuyết
pháp, vì ông ấy thuyết pháp người ta mới đi nghe nên mới xảy ra chuyện. Câu trả
lời vô tình mà theo đúng nguyên lý Duyên khởi nên một người như Bồ-đề-đạt-ma mới
chú ý và thầm nghĩ “Đúng là có lý mà cũng không có lý”. Từ đó ngài đã tìm cách
thu phục chàng thanh niên làm đệ tử. Do cơ duyên dẫn dắt, có một tình huống buộc
Thần Quang đồng ý đi tu nhưng vẫn ngang bướng, vẫn sinh hoạt như đời phàm. Một
lần trên một chiếc xe chở đầy sách chạy trên đường nhưng lại chở đầy mỹ nữ. Bị chất
vấn thì Thần Quang trả lời: “Chuyện trai gái thuộc về nhân tính. Còn đi tu là
phải đọc kinh sách. Vậy đi tu là tu làm người tốt, mà người tốt thì phải giữ
nhân tính”. Câu trả lời lại vừa có lý vừa vô lý. Đi tu nhưng lại ở một nơi như
giang sơn riêng của một quý tử, có đầy đủ rượu chè, mỹ nữ. Bồ-đề-đạt-ma được
tin đến đó. Thần Quang đón sư phụ nói: “Nơi đây không có nước chỉ có rượu,
không biết sư phụ đi tu thì có dùng rượu thay nước được chăng?” Bồ-đề-đạt-ma trả
lời: “Rượu làm người mê say nhưng với một thi nhân thì bảy bước thành thơ nên
rượu cũng có mặt tốt. Được lấy rượu ra đây”. Sư uống xong nói: “Với người tỉnh
táo thì uống rượu cũng như nước. Nhưng nấu rượu phải tốn công, tốn của, uống có
ích gì, chi bằng uống luôn nước. Thần Quang, ngươi là kẻ tỉnh táo hay mê lú?”
Thần Quang: “Tôi là tôi, nơi đây duy nhất một mình tôi, tỉnh hay không không
quan trọng”. Sư Tổ: “Tôi là tôi, nơi đây duy nhất mình tôi, ngày Phật Tổ ra đời
cũng nói “Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn” tuy khác mà giống”. Thần
Quang: “Sư phụ khen hay diễu cợt con vậy?” Sư Tổ: “Thực ra Phật Tổ nói vậy
không phải kiêu ngạo mà muốn nói đến cái quan trọng của tự ngã, cái tôi của mỗi
người là quan trọng, muốn được tôn quý thì chính tự ngã phải tự lựa chọn cách sống
để được tôn quý”. Thần Quang: “Có phải sư phụ muốn nói với con rằng một người
có tri thức không nên chọn cách sống như con?” Sư Tổ: “Đúng vậy! Lựa chọn hay
không lựa chọn? Chọn cách sống nào phải không chịu sự ràng buộc”. Thần Quang:
“Vậy chẳng phải sư phụ nói đến tự tin sao?” Sư Tổ: “Hừm, quả nhiên là có huệ
căn”. Thần Quang: “Thầy muốn con tự tin mà sống ư?” Sư Tổ: “Thần Quang đúng là
thông minh đã hiểu được ý tứ. Ta đi đây!”
Một cuộc đấu
lý cũng là một sự thuyết pháp thật là thú vị, đúng là cách ứng đối của bậc cao
minh. Nhưng phải đến khi cha mẹ vì lỗi của mình mà chết, sự kiêu ngạo của Thần
Quang mới bị đốn ngã, Thần Quang mới quyết thực tu. Trong giai đoạn Bồ-đề-đạt-ma
9 năm “diện bích tham thiền”, 9 năm đối diện vách đá thiền định, Thần Quang đã
quỳ ngoài trời mưa tuyết cầu xin Sư Tổ truyền y bát cho mình. Tuyết vốn mầu trắng
nên Bồ-đề-đạt-ma dùng hình ảnh không thể nào có đối với tuyết để nói ra ý mình:
-Chỉ khi nào
tuyết có mầu hồng thì ý của con mới là điều có thể.
Thần
Quang nghĩ chỉ có máu phun ra mới nhuộm được tuyết mầu hồng, mình chỉ có chặt
cánh tay mới chứng tỏ được với sư phụ thành tâm, thành ý của mình, liền cầm dao
chặt phăng cánh tay của mình. Bồ-đề-đạt-ma hoảng hốt, vội băng bó, cứu chữa và
còn gì mà không thuận theo lời cầu xin của Thần Quang. Ngài đã đặt pháp danh
cho Thần Quang là Huệ Khả. Trước khi giao y bát cho Huệ Khả, ngài còn gọi mấy đệ
tử lại bảo họ trình bầy sở đắc của họ. Mấy người trước đều nói rất đúng theo
kinh sách nhưng vẫn không thỏa mãn được ngài vì họ chưa nói được bản chất sâu sắc
nhất của đạo thiền. Cuối cùng, đến phiên Huệ Khả, Huệ Khả chỉ lễ bái rồi im lặng
cung kính nhìn sư phụ. Sư bảo: "Ngươi đã hiểu thấu được phần tuỷ của ta”.
Như vậy, Huệ
Khả đã dùng cách trả lời của ngài Ma-ha-ca-diếp trả lời Phật Thích Ca khi được
trao y bát. Khi đã thấu hiểu thì im lặng là câu trả lời trọn vẹn nhất. Im lặng
cũng chính là điều cơ bản nhất của Thiền Tông.
Bồ-đề-đạt-ma
nói câu cuối với Huệ Khả: “Xưa Như Lai trao 'Chánh pháp nhãn tàng' cho Bồ tát
Ca Diếp, từ Ca Diếp chánh pháp được liên tục truyền đến ta. Ta nay trao lại cho
ngươi; nhà ngươi khá nắm giữ, luôn với áo cà sa để làm vật tin. Hai trăm năm
sau khi ta diệt rồi, việc truyền y dừng lại. Chừng ấy, đâu đâu người hiểu đạo
và nói lý rất nhiều, còn người hành đạo và thông lý rất ít, vậy ngươi nên cố xiển
dương đạo pháp”.
Vì vậy, y bát
chỉ truyền đến đời thứ 6, và người được nhận chính là Huệ Năng.
***
Chuyện Ngũ Tổ
Hoằng Nhẫn trao truyền y bát cho Lục Tổ Huệ Năng cũng rất thú vị.
Huệ Năng sinh
trong một gia đình nghèo, cha mất sớm, lớn lên giúp mẹ bằng cách bán củi, chỉ
nghe lỏm người ta tụng kinh mà ngộ.
Khi Ngũ Tổ Hoằng
Nhẫn tìm người kế thừa, Thần Tú, một đệ tử xuất sắc nhất làm một bài kệ, so
sánh thân người tu hành như cây Bồ-đề và tâm như tấm gương, cần phải luôn lau
chùi thì gương mới trong sáng. Huệ Năng đang giã gạo biết chuyện chạy ra cũng
muốn viết một bài đối đáp lại bài của Thần Tú nhưng lại không biết chữ phải nhờ
người viết hộ:
Bồ-đề bổn vô
thụ,
minh kính diệc
phi đài
Bổn lai vô nhất
vật,
hà xứ hữu (nặc)
trần ai?
Nghĩa là bản
chất bồ đề vốn không phải là cây, gương vốn chẳng phải là gương, xưa nay thực
ra không có vật nào cả, mà không có gì thì sao dính được bụi?
Bài kệ đã thể
hiện giáo lý cốt tủy của Đạo Phật về tính không cũng như trạng thái cao nhất vô
ngã của thiền định. Vì vậy Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn biết căn cơ của Huệ Năng vượt hẳn
Thần Tú nên đã chọn vị chân tu tại gia, chuyên giã gạo, bổ củi là truyền nhân,
trở thành Lục Tổ Huệ Năng.
Los Angeles
16-8-2018
ĐÔNG LA