ĐƠN TRÌNH BẦY GỞI TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG VÀ CÁC CÁ NHÂN CÓ TRỌNG TRÁCH VỀ VIỆC TỔ CHỨC HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐƯỢC THÀNH LẬP THEO KHUYNH HƯỚNG PHẢN VĂN CHƯƠNG VÀ PHẢN CHẾ ĐỘ
Tôi đã viết rất nhiều tác phẩm, bài viết, đơn từ về những sự sai trái của những cá nhân và cơ quan. Nhưng phải sau hàng mấy chục năm, những người giống các nhân vật trong tác phẩm của tôi mới bị kỷ luật, bị bắt không ít. Tôi cũng viết nhiều về các nhà “đấu tranh dân chủ”. Nếu họ có chút thông minh, biết nghe lời Nhà Văn Đông La, không dấn sâu vào sai trái thì chắc chắn sẽ không bị bắt. Tôi từng viết, chửi gì thì chửi nhưng đừng ngu mà phạm pháp, nhưng họ dốt ở chỗ, đã không nghe lời Nhà Văn Đông La mà lại đi dựa vào sự ủng hộ của những cá nhân, thế lực chống VN ở trong nước cũng như nước ngoài.
Cũng hơi buồn ở chỗ, có những lá đơn của tôi với đầy đủ lý lẽ, nhân chứng, vật chứng, nhưng tiếc là chúng không được xem xét. Tôi từng e ngại cho những người không thực hiện tốt trọng trách nhất là giải quyết vụ việc có liên quan đến tâm linh. Đến nay thì không biết có phải do quả báo không, đã có những chuyện xấu, rất xấu xảy ra, kể cả cái chết.
Còn với chuyện Hội Nhà Văn và Nguyễn Quang Thiều hôm nay, chuyện sai trái đã rõ như ban ngày, nếu anh Trúc Phương và tôi viết sai, sẽ bị chúng kiện rũ tù rồi. Nhưng vụ việc có được xử lý nghiêm theo pháp luật hay không thì tôi không biết, vì thực tế, với pháp luật VN thì có chuyện rất nghiêm minh, như các chuyện vi phạm liên quan đến chống covid-19 chẳng hạn, nhưng tiếc là vẫn còn tình trạng pháp luật nghiêm với chuyện này, người này, mà không nghiêm với chuyện khác, người khác. Nhưng dù thế nào thì tôi cũng không bận tâm lắm, vì tôi đã thực chứng tâm linh, tin vào tâm linh, nên biết nếu Đời không xử thì Trời sẽ xử, không bị ở kiếp này thì bị ở kiếp khác, cả người vi phạm lẫn người không tròn trách nhiệm.
Xin giới thiệu với các bạn lá đơn dưới đây.
1-1-2022
ĐÔNG LA
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
-o-
ĐƠN TRÌNH BẦY GỞI TBT NGUYỄN PHÚ TRỌNG VÀ CÁC CÁ NHÂN CÓ TRỌNG TRÁCH VỀ VIỆC TỔ CHỨC HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐƯỢC THÀNH LẬP THEO KHUYNH HƯỚNG PHẢN VĂN CHƯƠNG VÀ PHẢN CHẾ ĐỘ
Kính gửi Tổng Bí Thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng, kiêm Trưởng Ban Chỉ Đạo về Phòng, Chống Tham Nhũng, Tiêu Cực.
Đồng kính gửi:
-Bà Trương Thị Mai, Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung Ương ĐCSVN.
- Ông Trần Cẩm Tú, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương ĐCSVN.
- Ông Nguyễn Xuân Thắng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương ĐCSVN.
- Ông Nguyễn Trọng Nghĩa, Trưởng Ban Tuyên Giáo TRUNG ƯƠNG ĐCSVN.
- Ông Vũ Đức Đam, Phó Thủ Tướng phụ Trách Văn Hóa-Xã Hội.
- Đại tướng Lương Cường, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phòng.
- Ông Đỗ Hồng Quân, Chủ tịch Liên Hiệp Các Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Nam.
- Ban Lãnh đạo Hội NHà Văn Việt Nam.
Kính thưa TBT Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí!
Tôi là Nhà Văn Đông La (tên thật là Nguyễn Văn Hùng), quê ở Thanh Miện, Hải Dương, là Cựu chiến binh, từng tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, là Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam, từng là cán bộ nghiên cứu Hoá dược, hiện đang sinh sống tại TP Hồ Chí Minh.
Sau chuyện Nhà Văn, Cựu Chiến binh Trúc Phương, với khí phách của một người từng tham gia cách mạng khi mới 15 tuổi, đã viết “TÂM THƯ”, “ĐƠN KHIẾU TỐ”, tố cáo Chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều, Cựu Chiến binh, Đại tá Nhà Thơ Đỗ Trung Lai cũng viết THƯ NGỎ GỬI BAN CHẤP HÀNH (MỚI) HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM, xin ra khỏi Hội Nhà Văn vì “Hội không còn sứ mệnh văn chương nào, mà chỉ còn là nơi của những “cái tôi””. Anh phản đối tuyên bố của Nguyễn Quang Thiều: “Đại hội này đã đánh dấu một cuộc chuyển giao thế hệ thành công chưa từng có”. Theo anh, Ban Chấp hành “vốn đã nằm mấy khóa trong BCH cũ”, “vẫn luôn vâng, dạ “bác” Thỉnh”, “Thế thì suốt 10 năm qua, các anh chị “Ngậm miệng ăn tiền”… ư?”.
Mới đây, Nhà Văn Trúc Phương lại viết tiếp “ĐƠN KHIẾU TỐ BỔ SUNG”, gởi tiếp lên TBT Nguyễn Phú Trọng và các vị, các cơ quan có trọng trách, tố cáo tiếp Nguyễn Quang Thiều, trong đó tôi thấy điều quan trọng nhất là “…việc bố trí nhân sự, xây dựng bộ máy của Hội... Chủ tịch Hội đồng Lý Luận Phê Bình… Chủ tịch Hội đồng Thơ, Giám đốc Nhà Xuất Bản… những con người với tư tưởng, tình cảm, khuynh hướng, quan điểm sáng tác theo hướng kỳ thị, đối lập, bài xích, thậm chí triệt hạ tinh thần sáng tác chính thống, truyền thống và Cách Mạng của nhân dân và chế độ ta… điều này có trái ngược hoàn toàn với lời đồng chí Tổng Bí Thư chỉ đạo trong Hội Nghị Văn Hóa & Văn Nghệ diễn ra ngày 24/11/2021 vừa qua hay không…”
Để làm rõ hơn vấn đề trên, tôi đã viết một loạt bài đăng trên trang facebook cá nhân. Có nhiều độc giả đề nghị tôi “gửi lên trên”. Vì vậy, để đồng hành cùng Nhà Văn Chiến sĩ Trúc Phương, và để đáp ứng yêu cầu và mong muốn của các độc giả, tôi viết tiếp ĐƠN TRÌNH BẦY này gởi TBT Nguyễn Phú Trọng và các đồng chí về việc bầu, chọn nhân sự thành lập tổ chức Hội Nhà Văn Việt Nam, trong đó nắm giữ những vị trí chủ chốt là những người có quan điểm văn chương phản văn chương, và có quan điểm chính trị tư tưởng phản chế độ.
VỀ CHỦ TỊCH HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM NGUYỄN QUANG THIỀU
Nguyễn Quang Thiều là tác giả sớm có các giải thưởng văn chương, từng là biên tập viên thơ ở Báo Văn nghệ, đã đối xử rất thân tình với tôi, nên chúng tôi đã có một tình bạn rất thân thiết. Hồi ấy, tôi còn trẻ, tri thức lý luận phê bình còn non, nên chưa nhận ra hết những sai trái trong thơ của Nguyễn Quang Thiều. Vì vậy, khi Nguyễn Quang Thiều bị chê bai tài năng, tôi đã viết nhiều để bảo vệ, dù biết thơ Thiều có nhiều cái dở. Với lòng vị tha theo lời Phật dạy, tôi đã chọn phần tốt của người để chơi, cũng lại muốn tỏ ra mình không đố kỵ, nhỏ nhen, tôi đã chọn ra những phần hay trong thơ của Nguyễn Quang Thiều để khen ngợi, cổ vũ, mong Thiều hướng về phía chân, thiện, mỹ đích thực. Nhưng rồi đúng như theo quy luật “lượng đổi, chất đổi” của Triết học Mác, “lượng xấu” trong Nguyễn Quang Thiều càng ngày càng được tích tụ nhiều hơn đã biến “chất” Nguyễn Quang Thiều. Dăm năm gần đây, Nguyễn Quang Thiều đã cắt quan hệ đối với tôi, và khi giành được chức Chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam, qua việc chọn những người có quan điểm chính trị tư tưởng và văn chương sai trái giữ những vị trí trọng yếu của tổ chức Hội Nhà Văn, qua các hoạt động và phát ngôn với tư cách Chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam, xem kỹ lại thơ của Nguyễn Quang Thiều, tôi đã nhận ra sự thật là Thiều đã có cả một hành trình dài xuyên suốt thể hiện trong thơ sự phản bội chứ không phải phản biện, đã viết sai sự thật, bi thảm hoá cuộc sống của người dân trong thể chế chính trị ở Việt Nam. Nguyễn Quang Thiều viết vậy để lấy lòng những lực lượng chống Việt Nam ở nước ngoài, mong ngóng danh lợi từ phía họ, như cộng đồng mạng hay gọi là “cơ hội, đón gió, trở cờ”.
Về tư cách đạo đức, khi bị Trần Mạnh Hảo chê “làm thơ lai Tây giả cầy”, thơ như “dịch xổi”, Nguyễn Quang Thiều đã thể hiện sự vĩ cuồng khi tuyên bố ý, Thơ Việt như “dàn đồng ca tẻ nhạt”, “chưa vượt qua được vũng bùn tiểu nông”. Thực tế, Nguyễn Quang Thiều nói về thơ mình như vậy thì đúng hơn. Vì thơ Thiều chỉ quanh quẩn ở cái làng quê mình, không có những câu thơ, tứ thơ lớn chứa đựng tầm tư tưởng, nếu có lại sai sự thật, mang tư tưởng chống chế độ.
Nguyễn Quang Thiều không chỉ sai trái trong sáng tác mà có nhiều quan điểm sai trái về các tác giả, tác phẩm, có nhiều việc làm và lời nói sai trái cả về văn chương, lịch sử, và chính trị xã hội.
***
Cụ thể, Nguyễn Quang Thiều đã làm rất nhiều thơ về mặt xấu của thể chế chính trị và cuộc sống của người dân Việt Nam.
Chế độ xã hội nào cũng có những sai trái, tệ nạn, việc các nhà văn có tư tưởng, có trách nhiệm viết những tác phẩm phản biện, mang tính xây dựng là vô cùng cần thiết. Họ chính là những nhà văn bản lĩnh, có nhân cách cao quý, đáng khâm phục. Nhưng Nguyễn Quang Thiều không phải là nhà văn như vậy.
Những ngày hôm nay nếu đất nước chúng ta đúng khốn khổ khốn nạn như Nguyễn Quang Thiều đã làm thơ cảnh báo thì tôi sẽ quỳ lạy trước Thiều, coi Thiều là nhà thơ vĩ đại, có tư tưởng của bậc thánh nhân. Tiếc là cũng theo Triết học Mác, thực tiễn là tiêu chuẩn cao nhất để kiểm tra chân lý, thực tiễn xã hội Việt Nam hiện tại, dù còn nhiều yếu kém, tệ nạn, vẫn đủ những tiến bộ để chứng tỏ Thiều viết phần nhiều sai sự thật, phóng đại, xuyên tạc. Mà dù chế độ đang ở thời kỳ “quá độ”, nếu có thay đổi theo hướng tiến bộ hơn thì những giá trị của hai cuộc kháng chiến vĩ đại giành lại chủ quyền đất nước sẽ là vĩnh cửu, chứ không phải như cách nhìn của bọn phản bội!
Trong bài “Những người đàn bà gánh nước sông”, tập thơ “Những người đàn bà gánh nước sông” (NXB Văn học, 1995), Nguyễn Quang Thiều đã ám chỉ cuộc mưu sinh của dân Việt Nam dẫm chân tại chỗ, mẹ gánh nước sông thì truyền cho con gái gánh nước sông, cha mang giấc mơ đi câu “con cá thiêng quay mặt khóc” thì đến đời con trai cũng “con cá thiêng quay mặt khóc”. Trong bài “Bầy chó của tôi” (Tập Sự mất ngủ của lửa), Nguyễn Quang Thiều đã ám chỉ cuộc mưu sinh của làng quê Việt khốn khổ, man rợ như bầy chó, phải đổ máu để kiếm sống, “Con đến sau lại liếm máu bầy mình”!
Trong bài “Con bống đen đẻ trứng” đề tặng hai đứa con Thuật, Ngân, Nguyễn Quang Thiều cũng vẽ ra những khung cảnh rùng rợn, toàn những tan vỡ, sụp đổ trên quê hương, đất nước mình: “Quanh các con tôi thế giới đang tự sát”; “Những trái cây tự rơi vào thuốc độc”; “những đền chùa gục ngã trước những pho kinh phản bội”; “Những ô kính tự tát vỡ mình”; “Những ngôi nhà cao tầng tự chặt xương sống mình”.
Từ những cái nhìn u ám đó, trong bài “Dưới trăng và một bậc cửa”, Nguyễn Quang Thiều cho rằng nguyên nhân của sự trì trệ, man rợ đó chính là do: “cố hương” của mình “mê mẩn và lạc đường/ Trong những cánh rừng đầy quỷ”; và trong bài “Những người đàn bà mùa đông”, Thiều viết những người phụ nữ “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” của đất nước chúng ta như bị giam trong đáy “lưới”, thụ thai không sinh ra con trẻ mà chỉ đẻ ra “những quả trứng ung”, ám chỉ nước ta không sinh sôi, phát triển sẽ bị tuyệt diệt!
Tất nhiên đó chỉ là những cái nhìn bệnh hoạn của Nguyễn Quang Thiều, bởi Thiều có trình độ chính trị rất kém. Thiều cần phải hiểu thời kỳ khó khăn nhất của nước ta do sau Giải phóng 1975, nước ta bị đột ngột cắt viện trợ, phải gánh “cái của nợ” VNCH, chiến tranh hai đầu biên giới, bị bao vây cấm vận, lại chưa có kinh nghiệm làm kinh tế, v.v… chứ hoàn toàn không phải do “cố hương” của mình “mê mẫn và lạc đường/ Trong những cánh rừng đầy quỷ”.
Trong khúc “Hồi tưởng tháng 9” (tập “Châu thổ” (Thơ tuyển, NXB Hội Nhà Văn 2010) Nguyễn Quang Thiều cũng viết về chuyện “lạc đường”, cho ở Việt Nam, chỉ những người mù mới không bị lạc đường, ám chỉ dưới ánh sáng của Đảng, người dân Việt Nam đã bị “lạc ngay trước cửa ngõ nhà mình”. Cũng mô-tip lộn ngược đó, với cấu tứ khác, trong “Bài ca những con chim đêm”, Nguyễn Quang Thiều viết: “trong ồn ã những ngôn từ khiếp nhược và lừa dối” chỉ “người đàn bà bị câm” mới có thể mang thai và “sinh ra được đứa bé cất lên được tiếng nói, chỉ ra con đường đến với hạnh phúc đích thực”. Trong bài “Hội giả trang”, Nguyễn Quang Thiều đã cho xã hội Việt Nam là xã hội của “những tay phù thủy cao tay”, "giả trang bằng chính mặt mình”. Buồn cười ở chỗ, những ngày hôm nay Thiều đã chứng tỏ mình đã “tiên tri” về sự “giả trang” trong cái bộ mặt “Chủ tịch Hội Nhà Văn” của chính mình.
Quả là xã hội Việt Nam còn nhiều yếu kém, tệ nạn, nhưng với con mắt khách quan, bao quát, sẽ thấy tổng thể nền kinh tế Việt Nam vẫn luôn phát triển với tốc độ hàng đầu thế giới; mức sống người dân so với ngày xưa rất cao; vị thế Việt Nam trên trường quốc tế cũng rất cao; chứng tỏ Nguyễn Quang Thiều đã viết sai sự thật, bôi đen chế độ.
Đặc biệt, những năm gần đây, Nguyễn Quang Thiều không chỉ dừng lại ở lối viết phúng dụ, ám chỉ mà nhân ngày Trung Quốc xâm lược biên giới nước ta, Thiều đã viết hụych toẹt ra, cho có cuộc xâm lược đó “bởi có những kẻ phản bội dân tộc”. Viết vậy, Thiều đã xuyên tạc, vì sự thật, Trung Quốc xâm lược Biên giới Việt Nam là do ta không chịu liên minh với Trung Quốc để đánh Liên Xô, và sau 1975, ta đã đánh tư sản mại bản Ba Tàu Chợ Lớn. Chưa hết, Thiều còn ám chỉ đường lối ngoại giao của nước ta đối với Trung Quốc là sự “phản bội”, là “xảo ngôn”, là “xảo quyệt”; v.v…
***
Ngoài những ám chỉ, thể hiện tư tưởng phản chế độ, sau mấy chục năm Nguyễn Quang Thiều cũng “đổi mới” thơ, theo đuôi những người viết thô tục, dơ dáy, phản thẩm mỹ, phản văn chương.
Trong bài thơ “Câu hỏi cuối ngày” (Tập “Châu thổ”), Nguyễn Quang Thiều đã diễn tả cái tâm trạng mà theo Trần Mạnh Hảo là kẻ “thô bỉ”, “thiếu văn hoá” bởi khi gặp người đàn bà, con gái nào cũng nghĩ đến chuyện ngủ với người ta thế nào. Theo tôi viết vậy, Thiều đã không “thơ” một chút nào mà chỉ thể hiện bản năng của một con đực, thú tính!
Nguyễn Quang Thiều cũng bỏ tâm sức làm bài thơ nhìn trộm đàn bà “Tắm trong toilet không có rèm che”, nhìn trộm “Cuộc làm tình ban ngày/ Của những kẻ thất nghiệp”. Và, như còn sợ thơ mình thua “đổi mới” so với “anh em Sài Gòn”, Nguyễn Quang Thiều đã viết trong tập “Lò mổ”:
Ngáp ngủ đã đêm qua.
Chửi tục đã đêm qua.
Gạ gẫm làm tình đã đêm qua.
Âm hộ đã đêm qua.
Dương vật đã đêm qua...
***
Không chỉ sai trái, bệnh hoạn trong sáng tác thơ, Nguyễn Quang Thiều cũng thể hiện trình độ văn chương yếu kém, và quan điểm thẩm mỹ sai trái khi tâng bốc một số tác giả, tác phẩm.
Nguyễn Quang Thiều từng ca ngợi Nguyễn Huy Thiệp là “Nhà văn tìm đạo cho dân”, trong khi Nguyễn Huy Thiệp, khi trả lời nhà báo bên Thụy Điển, từng “nôn mửa vào cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc”. Nguyễn Huy Thiệp từng viết truyện ngắn cho Anh hùng Dân tộc Vua Quang Trung như tay du côn, giặc cỏ, “Nguyễn Ánh mới là nòi vương giả”; trong truyện ngắn “Tướng về hưu” cho việc BS phụ sản mang xác thai nhi về nấu cho chó, cho lợn ăn là “chẳng quan trọng gì”; mượn văn chương chửi đồng nghiệp bề trên: “nhét cứt vào mồm thằng Khải (ám chỉ Nhà Văn Nguyễn Khải) tài như cái đấu mà dám chê tiệc của vua nhạt”, và “xẻo dái thằng Thi (ám chỉ Nhà Văn Nguyễn Đình Thi) xem có còn dê được không?”; viết về con người với con mắt bất nhân, về người nông dân: “Chẳng có khuôn mặt nào đáng là mặt người. Mặt nào trông cũng thú vật, đầy nhục cảm, không đểu cáng, dối trá thì cũng nhăn nhúm đau khổ”, về phụ nữ: “Đàn bà không có thơ đâu… Thơ phải cao cả. Mỗi tháng các bà hành kinh một lần thì cao cả gì”; về chuyện loạn luân, đã biện minh chuyện bố chồng bắc ghế nhìn trộm cô con dâu tắm: “Đàn ông chẳng nên xấu hổ vì có con buồi”; v.v… Nguyễn Huy Thiệp còn viết về chính trị: “Chính trị rặt trò mờ ám bỉ ổi”; về văn chương: “Văn chương là thứ bỉ ổi bậc nhất”.
Về cuốn “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, Nguyễn Quang Thiều cũng tâng bốc là “chạm vào mẫu số chung nhân loại”, nhưng chính Bảo Ninh đã thú nhận mình xuyên tạc sự thật khi miêu tả đội quân anh hùng toàn là hiếp dân lành, hành lạc tập thể, hút hồng ma, trốn chạy, chôn sống tù binh, con ra trận bố dặn đừng ngu mà chết vì lý tưởng, và coi cuộc kháng chiến vĩ đại giành lại chủ quyền và nền độc lập của dân ta là “nỗi buồn”.
***
Một người làm thơ như vậy nhưng trong Đại hội Hội Nhà Văn Việt Nam vừa qua, Nguyễn Quang Thiều vẫn được bầu làm Chủ tịch với số phiếu rất cao, vì thực tế rất ít người đọc thơ Nguyễn Quang Thiều, người hiểu thực sự Thiều viết gì còn ít hơn. Bởi vì Thiều làm thơ dài dòng, rối rắm, quái dị, mù mờ, không dám viết rõ nghĩa, nhưng ngoài đời Thiều lại có mối quan hệ rất rộng, rất khôn khéo lấy lòng người khác. Thiều làm thơ dở nhưng lại nói, như tôi hay viết là “hót véo von”, rất hay, nên Thiều đã qua mặt được hầu hết Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam, họ không biết sự tai hại, nguy hiểm ra sao khi họ bầu Nguyễn Quang Thiều là người lãnh đạo Hội của mình.
Việc Nguyễn Quang Thiều đoạt được chức Chủ tịch Hội Nhà Văn có lỗi của cựu Chủ tịch Hữu Thỉnh vì không làm tốt Nguyên lý Tập trung Dân chủ trong công tác cán bộ, để phần dân chủ yếu kém, lầm lạc “ăn” hết phần tập trung của lãnh đạo. Các thế hệ lãnh đạo trước cũng có phần lỗi khi trao giải thưởng thơ sai trái cho Nguyễn Quang Thiều, khiến thế hệ chúng tôi nhiều người, riêng tôi có lúc, bị lầm lạc trước các chuẩn mực của thơ ca.
VỀ INRASARA, CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG THƠ, HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM
Nguyễn Quang Thiều đã chọn Inrasara làm Chủ tịch Hội đồng Thơ.
Inrasara, khi tự vẽ chân dung mình trong bài thơ “Thằng hoang”, đã tự hào về những thành tích bất hảo của mình: bỏ học, đi bụi đời, vì cho: trường học, gia đình, quê hương, tổ quốc, ý thức hệ, văn chương, triết lý “quá chật”, “không chứa đủ hắn”. Inrasara cũng tự khoe mình là kẻ bất nhân khi đã “tặng cho hoa hậu lớp Msa một bụng rồi bỏ đi mất tăm… mười năm chờ hết nổi nàng chửi gió đợi nó cho mệt cái lồn vụt cưới chồng Hamu Crok”.
Có sự tự khoe ngông cuồng, tục tĩu như thế bởi Inrasara đã viết theo tinh thần Hậu hiện đại, lộn ngược tất cả các giá trị từ đạo lý, thẩm mỹ cho đến nhân tính.
Jean François Lyotard, một triết gia Pháp, chủ soái của Chủ nghĩa Hậu hiện đại, cho rằng tinh thần Hậu hiện đại sinh ra là để chống lại sự độc tài của các chủ thuyết lớn mà ông gọi là các siêu văn bản (métarécit), vì cho tất cả những lý thuyết đã có đều đã bị đổ vỡ. So với thực tiễn, đây là tư tưởng cực đoan, sai trái. Chỉ những kẻ thiếu bản lĩnh tri thức, vô văn hoá mới mê cuồng bắt chước không chỉ Hậu hiện đại mà còn đủ thứ các chủ nghĩa ở nước ngoài.
Ở ta, một số văn nghệ sĩ hải ngoại, nhóm Mở Miệng, rồi Inrasara… vì có tư tưởng chống chế độ nên đã coi Hậu Hiện đại là nền tảng triết lý, đã làm “thơ” với “thi pháp” quấy rối, diễu cợt, chửi bới, văng tục, để chống tất cả những gì thuộc về truyền thống, chính thống, và chế độ.
Về sáng tác, Inrasara đã làm thơ tố cáo chế độ ở Việt Nam để nhân dân đói ăn, nghèo khổ; tang thương trong dịch covid-19; cho đất nước không có tự do, dân chủ.
Chỉ riêng chuyện covid-19, Inrasara đã thể hiện cái nhìn thiển cận, sai trái. Vì so với nước Mỹ, giầu nhất thế giới, khoa học công nghệ về y học cũng nhất thế giới, nhưng số người chết vì covid 19 đến nay đã gấp khoảng 40 lần Việt Nam. Qua cuộc chiến chống covid-19, chính chế độ chính trị ở Việt Nam mà bọn Inrasara và Hậu Hiện đại luôn chống phá, chửi bới đã chứng tỏ là chế độ đã hết lòng lo cho tính mạng người dân. Không có nước nào mà lực lượng y tế, quân đội, công an của nhà nước lại chiến đấu, cứu chữa, bảo vệ người dân như ở Việt Nam.
Với tư tưởng như vậy, Inrasara đã khao khát trả thù qua bài thơ mang đích danh “Trả thù”. Inrasara nhân danh yêu dân tộc Chăm đã trở thành kẻ chống cộng thứ thiệt khi viết: “… dưới thời đại Cộng Sản, Cham đang phải đối phó với nguy cơ khác kinh khiếp không kém, đó là sự đánh mất tinh thần sáng tạo”, và tin rằng chế độ cộng sản của người Việt sớm muộn cũng đổ: “Sáng tạo, người Việt chả làm gì ra hồn, ngược lại với tình chất “quật khởi” của họ Dân tộc này (tức Việt) được cấu trúc bằng bộ gien kì lạ! Triều đại thay đổi vùn vụt, Đinh Lý Trần Lê hay Mạc Trịnh Nguyễn Tây Sơn, hoặc Cộng Sản gì gì sớm muộn cũng đổ...”
Trên trang vanchuongviet.org/, Inrasara từng viết về “thực tiễn sáng tác” Hậu hiện đại của người Việt để giới thiệu, bảo vệ, cổ suý những tác giả làm thơ Hậu Hiện đại, đòi sự bình đẳng cho việc sử dụng ngôn ngữ tục tĩu, phản luân thường đạo lý. Inrasara cũng tán dương những câu “thơ” báng bổ cả Chúa, cả Phật, ủng hộ những “câu thơ” chửi bới, văng tục, chống phá, khủng bố!
VỀ NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP VÀ VĂN GIÁ, CHỦ TỊCH VÀ THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG LÝ LUẬN PHÊ BÌNH
Để thống nhất với việc chọn Chủ tịch Hội đồng Thơ là Inrasara, người đã sáng tác và ủng hộ sáng tác loại thơ núp bóng tinh thần Hậu Hiện đại để chống phá, lật đổ chế độ, thì Nguyễn Quang Thiều cũng đã chọn Chủ tịch và thành viên của Hội đồng Lý luận Phê bình là Nguyễn Đăng Điệp và Văn Giá, hai người từng là giám khảo cho Luận văn của Nhã Thuyên điểm 10. Luận văn của Nhã Thuyên là luận văn đã ca ngợi Nhóm Mở Miệng, làm thơ theo tinh thần Hậu Hiện đại để chống phá chế độ.
***
Đất nước chúng ta có những lĩnh vực phát triển rất tiến bộ như kinh tế, khoa học công nghệ, y học. Ngược lại, trong lĩnh vực Lý luận Phê bình Văn học đã có sự thoái hoá, đi từ yếu kém, sai trái đến lộn ngược. Có lẽ, do nền chính trị nước ta trong thời gian gần nửa thế kỷ qua đã quá chú trọng đến những lĩnh vực thiết yếu liên quan đến vật chất mà ít quan tâm đến mặt tinh thần, nói theo ngôn ngữ triết học, là đã quá quan tâm đến “tồn tại xã hội” mà ít quan tâm đến “ý thức xã hội”.
Chức năng của Lý luận Phê bình văn chương là thẩm định chính xác những giá trị chân, thiện, mỹ của các tác phẩm, và vạch đường chỉ lối cho những sáng tác tương lai. Nhưng từ 1979, Nguyên Ngọc với quan điểm đổi mới văn chương cực đoan, sai trái, cho cần phải “đọc ai điếu cho nền văn chương minh hoạ”, “lật đổ các thần tượng đã rữa nát”, đã chọn ra những tác phẩm để tâng bốc, coi như những ngọn cờ đổi mới, trong đó ồn ào nhất là tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh và các truyện ngắn của nguyễn Huy Thiệp. Nhưng cả Bảo Ninh và Nguyễn Huy Thiệp đều đã viết sai sự thật, văn chương không có tính thiện mà có tính xấu, tính ác. Khi trao giải thưởng cho cuốn “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, Ban Chấp hành Hội Nhà Văn Việt Nam hồi ấy đã phải viết kiểm điểm đọc trước Đại hội Hội Nhà Văn; còn truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp thì đã góp phần làm Trần Độ, Nguyên Ngọc mất chức.
Lẽ ra mọi chuyện về Bảo Ninh và Nguyễn Huy Thiệp đã chấm dứt, nhưng khi có sự bình thường hoá quan hệ với Pháp, Mỹ, và các nước theo Pháp Mỹ, cách viết sai sự thật, bôi xấu Việt Nam để lấy lòng Pháp, Mỹ của Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh lại có được danh lợi rất lớn từ phía họ, đã trở thành “mốt” của những người sáng tác muốn “chiêu hồi bên thua cuộc”, để “đón gió”, “trở cờ”. Vì vậy mà Bảo Ninh và Nguyễn Huy Thiệp vẫn luôn được coi là hai tác giả tiêu biểu và có thành tựu nổi bật của đổi mới văn chương. Vì vậy, GS Trần Thanh Đạm đã phải kêu lên rằng, nền văn học của ta có tình trạng “trắng đen lẫn lộn, thiện ác bất minh”. Và, đến hôm nay thì còn tệ hại hơn khi Nguyễn Quang Thiều còn dấn sâu hơn Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh một bước sai trái trong sáng tác, theo khuynh hướng chống chế độ, và thật kỳ quái là Nguyễn Quang Thiều lại được vinh danh và thành đạt khi mới được bầu làm Chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam với số phiếu rất cao, và đã chọn Nguyễn Đăng Điệp và Văn Giá là Chủ tịch và thành viên của Hội đồng Lý luận Phê bình.
***
Việc cho Luận văn của Nhã Thuyên (tên thật Đỗ Thị Thoan) điểm 10 thể hiện toàn bộ quan điểm chính trị tư tưởng, tư cách đạo đức, trình độ và tài năng văn chương của Nguyễn Đăng Điệp, Nhà Văn, PGS, đương kim Viện trưởng Viện Văn học; và của Văn Giá, Nhà Văn, PGS, nguyên là Trưởng khoa Lý luận - phê bình văn học Trường Đại học Văn hóa (Bộ Văn hóa).
Vì dư luận phản ứng dữ dội, Luận văn của Nhã Thuyên đã bị thu hồi, bởi trong luận văn, Nhã Thuyên đã công khai tư tưởng phản động về chính trị khi xuyên tạc bản chất của Chủ nghĩa Mác, đã công khai ủng hộ “những kẻ phản đảng” khi viết: “Mở Miệng, sinh ra … để bị/được gánh vác thêm vai trò của “những kẻ phản đảng””. Nhã Thuyên cũng đã ca ngợi những kẻ báng bổ Chúa và chống phá chế độ khi viết: “Mở Miệng … nơi tụ hội các anh em giang hồ… những kẻ sẵn sàng “đái vào Chúa”, phản kháng về chính trị, chống đối chính quyền”. Nhã Thuyên đã cho nhà thơ “có tài” là như sau: “các nhà thơ Mở Miệng … hé lộ phẩm chất của những kẻ có tài” khi viết: “Tôi kêu đòi chữ nghĩa/ Tôi tổ chức chiến tranh/ Tôi nam mô vị chúa trời”/ “Tôi cải tạo âm hộ””. Giải thích sự văng tục trong thơ của Nhóm Mở Miệng, Nhã Thuyên viết: “Liên quan đến chính trị khi nó văng tục để chửi, để căm uất, … là cách nhổ vào ngôn ngữ tuyên huấn giả trá”. Chưa hết, Nhã Thuyên còn láo xược khi ca ngợi Nhóm Mở Miệng liều mạng làm thơ diễu nhại cả tác phẩm của Bác Hồ.
***
Khi cái luận văn bị thu hồi, Văn Giá đã viết bài bênh vực Nhã Thuyên có câu: “Tôi nghĩ rằng, lâu nay xã hội Việt Nam chúng ta sống trong một chế độ toàn trị kéo dài, và thời hạn của nó thì không ai có thể lường hết được”.
Tôi đã viết: “Một cán bộ thuộc chế độ như Văn Giá lại trắng trợn nhai lại cái từ “toàn trị” mà những thế lực chống Nhà nước VN thường sử dụng để xuyên tạc thể chế chính trị “Đảng lãnh đạo toàn diện” ở nước ta. Một nhà văn, một PGS Văn học lại không phân biệt được “lãnh đạo toàn diện” khác với “toàn trị” chứng tỏ Văn Giá đúng là quá mất dạy và quá ngu dốt!”
Văn Giá đã cho chủ trương của Đảng “xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” là từ một “sáo ngữ” nay đã là “tử ngữ”, đã “kìm kẹp sự sáng tạo”. Có điều sự “sáng tạo” mà Văn Giá ca ngợi lại là loại thơ của nhóm Mở Miệng. Văn Giá “khâm phục” Nhóm Mở Miệng bởi tinh thần chống chế độ và đòi quyền tự do chửi bậy, tự do chống phá, tự do lật đổ: “Tôi nghĩ, nhóm Mở miệng là một nhiệt tình cách tân đáng khâm phục… biểu hiện hai vấn đề cơ bản: thứ nhất phản kháng lại thiết chế, đòi quyền thực thi dân chủ”. Như vậy, Văn Giá đã thể hiện mình là một kẻ phản động toàn diện, từ chính trị, giáo dục, thẩm mỹ, văn chương, đến văn hoá!
***
Nguyễn Đăng Điệp, đương kim Viện trưởng Viện Văn học Việt Nam, một người không chấm nổi một cái luận văn, sao làm tròn được cái trọng trách Viện trưởng Viện Văn Học?
Một người bạn mới chuyển cho tôi một “công trình nghiên cứu” gần đây của Nguyễn Đăng Điệp “Những cú hích lịch sử-văn hoá và sự phát triển của Văn học Việt Nam đương đại” đăng trên Tạp chí NGHIÊN CỨU VĂN HỌC Số 9 -2021.
Đó là một bài viết chung chung, nhạt nhẽo, ghi chép như một thư ký, Nguyễn Đăng Điệp lại bu theo dàn đồng ca của những Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Quang Thiều, Lại Nguyên Ân, v.v… nhai lại những tư tưởng đổi mới văn chương sai trái của Nguyên Ngọc đã nhả ra từ mấy chục năm về trước.
Nguyễn Đăng Điệp đã viết văn chương Việt Nam đã theo tinh thần đổi mới, cần phải “nhìn thẳng sự thật” và “nói thẳng sự thật”, và đưa ra một số nhà văn tiêu biểu, trong đó nổi bật nhất là Nguyễn Huy Thiệp. Viết vậy, Nguyễn Đăng Điệp chứng tỏ hiểu lộn ngược về văn Nguyễn Huy Thiệp và cũng không hiểu gì về văn chương.
“Tướng về hưu”, truyện ngắn tiêu biểu nhất đã được tung hô sai trái của Nguyễn Huy Thiệp, đã cho rằng cái thời thực dụng, mất nhân tính của “ông con” đã chiến thắng cái thời sống vì lý tưởng, vì đạo lý của “ông bố” tướng về hưu. Những người lính khi hoàn thành nhiệm vụ trở về đã không có đất sống trong chính ngôi nhà của mình! Ông Tướng lại phải quay lại với chiến tranh, lại ra biên giới, và bị hy sinh ở đó. Nguyễn Huy Thiệp đã viết sai sự thật. Những cựu chiến binh khi về hưu, họ vẫn là chỗ dựa tinh thần và tình cảm cho con cháu, vẫn đóng góp trí tuệ, kinh nghiệm của mình cho sự ổn định và phát triển của xã hội. Như vậy, văn của Nguyễn Huy Thiệp đã chứng tỏ ông Viện trưởng Viện Văn học VN viết láo khi cho Nguyễn Huy Thiệp là điển hình theo tinh thần đổi mới: “viết thẳng sự thật”!
Là Viện trưởng Viện Văn học mà Nguyễn Đăng Điệp hoàn toàn không nhận ra những sai trái tày trời của văn Nguyễn Huy Thiệp, trong đó có những chuyện khiến cả Trần Độ lẫn Nguyên Ngọc bị mất chức.
Là một Viện trưởng Viện Văn học mà qua bài viết, Nguyễn Đăng Điệp không có khả năng chỉ ra được vài nét thôi về diện mạo đúng đắn của văn chương đương đại Việt Nam, càng không chỉ ra được những vấn đề đúng, sai, cao thấp của các tác giả, tác phẩm, cũng không thấy cái sai trái, cái tai hoạ khi văn chương ở ta ảnh hưởng Hậu hiện đại. Sự bất tài về nghiên cứu văn chương, và với những quan điểm sai trái về chính trị tư tưởng, Nguyễn Đăng Điệp đã không làm tròn nhiệm vụ của một Viện trưởng Viện Văn học Việt Nam, tệ hơn nữa khi đã viết, đã làm những điều sai trái (như vụ Luận văn Nhã Thuyên), góp phần để xẩy ra cái tình trạng loạn chuẩn mực giá trị, lộn ngược các chuẩn mực giá trị của văn chương, để cho cái phản động, cái bẩn thỉu, cái ô trọc, cái tục tĩu, cái xấu xa, cái ác độc, nói chung là phản văn chương, phản văn hoá lên ngôi.
***
Như vậy Chủ tịch Hội Nhà Văn VN Nguyễn Quang Thiều khi chọn Inrasara làm Chủ tịch Hội đồng Thơ, Nguyễn Đăng Điệp làm Chủ tịch Hội đồng Lý luận Phê bình đã xây dựng tổ chức của Hội, không phải theo tiêu chuẩn của một chế độ dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng CSVN mà cũng theo "đảng", nhưng như một băng đảng, gồm những kẻ đã có những quan điểm và hành động chống lại chính chế độ mà chúng đang ở trong guồng máy đó. Theo như lời của TBT Nguyễn Phú Trọng thì cả Nguyễn Quang Thiều, Inrasara, Nguyễn Đăng Điệp, và Văn Giá đều thuộc phần tử tham nhũng chính trị tư tưởng, tham nhũng tư cách đạo đức, tham nhũng danh tiếng!
Từ đó, Nguyễn Quang Thiều đã thành lập tổ chức Hội Nhà Văn Việt Nam theo khuynh hướng phản văn chương, phản văn hoá, biến Hội như cái ổ covid-19 lây lan thì thật nguy hiểm, bởi nó sẽ phá huỷ cuộc sống tinh thần người dân. Mà theo bài học từ chuyện Liên Xô sụp đổ, Nhà văn Yury Boldarev đã viết về tác dụng huỷ diệt của sự phản văn hoá của “Hàng triệu ấn phẩm mang vi trùng” đã làm mục rữa tinh thần người dân Liên Xô, mạnh hơn cả quân đội Đức Quốc xã với hàng triệu quân tinh nhuệ và vũ khí hàng đầu, đã góp phần làm LX tan vỡ. Tổng thống Nga Putin, người được hưởng danh lợi nhất từ sự sụp đổ đó vẫn cho là đại thảm hoạ; bản thân ông khi ấy phải chạy xe kiếm sống. Nhưng nước Nga là cường quốc nên sẽ dần hồi phục, còn Việt Nam nếu chế độ sụp đổ sẽ lại là nội chiến, và với truyền thống “bán nước” của một nhóm người dù rất nhỏ thôi thì sẽ lại là sự can thiệp, sự xâu xé của các cường quốc.
Vì vậy, hiểu được sự tối nguy hiểm đó, tôi, với tư cách một cựu chiến binh, với sứ mệnh của một nhà văn, buộc phải lên tiếng!
Nếu viết sai, tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật.
TP HCM, ngày đầu năm
1-1-2022
ĐÔNG LA