Thứ Ba, 30 tháng 5, 2023

YÊM TẦM CHI (Về chuyện Phạm Xuân Yêm tiếp tay Nguyễn Huệ Chi chống phá đất nước)

 YÊM TẦM CHI (Về chuyện Phạm Xuân Yêm tiếp tay Nguyễn Huệ Chi chống phá đất nước)

Trong bài trước, tôi đã trích dẫn ông Cao Huy Thuần, một GS Chính trị tại Pháp đã cho VN kỷ luật ông Chu Hảo là do “lạc hậu về văn hoá”. Cao Huy Thuần tô vẽ sự “tự chuyển hoá” của Chu Hảo là lẽ tất nhiên của sự tiến bộ, theo chân của Galiléo, của Darwin, luôn muốn vươn đến trăng sao của vũ trụ, trăng sao của Sự Thật. Đây là một sự xuyên tạc trắng trợn của một kẻ tự phụ ngu dốt. Chu Hảo bị kỷ luật do “tự chuyển hoá” mà theo ngôn ngữ chính trị của VN chính là sự “thoái hoá biến chất” của một cán bộ đảng viên thành một người có tư tưởng, hành động sai trái, gây hại, nguy hiểm cho xã hội.
Các cụ xưa nói “Biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng” nhưng có nhiều kẻ là Việt kiều xuất thân từ chính quyền tay sai của Pháp, Mỹ luôn ngông ngạo nhìn về VN cho cội nguồn của mình là lạc hậu, tăm tối, chúng tự đâm mù lương tri nên không thể nhìn thấy sự thật, VN như chúng nghĩ thì không thể thắng được “Mẫu quốc” của chúng. Chúng luôn tự phụ về tài năng, tri thức, văn hoá, văn minh, nhưng hôm nay tôi sẽ chỉ ra cái sai của một ông GS cũng Việt kiều Pháp, không chỉ sai về chính trị, hợp tác, tiếp tay cho ông GS Nguyễn Huệ Chi chống phá đất nước mà còn sai cả về chuyên môn rất danh giá-Vật lý Lý thuyết- của ông ta. Ông ta sai khi không thấy cái ngớ ngẩn về vật lý của ông Nguyễn Huệ Chi, và đặc biệt, chính bản thân ông ta, một GSTS Vật lý cũng sai về vật lý luôn, chính là Phạm Xuân Yêm.
30-5-2023
ĐÔNG LA
Trên trang BBC từng đăng bài thông báo “GS Huệ Chi thôi quản trị trang Bauxite” viết:
“Hôm 05/9/2013, Bauxite Việt Nam cho hay Giáo sư Huệ Chi tự nguyện nghỉ điều hành trực tiếp trang mạng để tập trung vào công việc chuyên môn… "Sau hơn 4 năm góp phần mình dẻo dai không mệt mỏi”… "Vì thế, nhóm sáng lập đã mời GS Phạm Xuân Yêm, một trí thức có uy tín hiện sống tại Pháp, lâu nay vẫn yểm trợ trang Bauxite Việt Nam, đứng ra đảm nhiệm việc quản trị trang Bauxite Việt Nam thay cho GS Nguyễn Huệ Chi một thời gian”.
Trang Bauxite là một trang nhân danh đấu tranh cho dân chủ tiến bộ để chống phá thể chế VN điên cuồng, nên như họ tự thú: "người điều hành (Nguyễn Huệ Chi) cũng bị thẩm vấn và mời làm việc nhiều lần từ năm 2009 cho đến ngay gần đây”. Vì vậy, thực chất vấn đề là như con cáo già đánh hơi thấy nguy hiểm, Nguyễn Huệ Chi đã hành động như trên chính là để tránh bị “tóm”!
Vậy Phạm Xuân Yêm là ai mà “lâu nay vẫn yểm trợ trang Bauxite Việt Nam, đứng ra đảm nhiệm việc quản trị trang Bauxite Việt Nam thay cho GS Nguyễn Huệ Chi”? Theo các cụ “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, Yêm tầm Chi như vậy thì cũng chỉ là hạng người không ra gì. Nhưng tôi không quan tâm mà phải đến tận hôm vừa rồi khi viết một bài về vật lý tôi mới chú ý đến ông Yêm.
Khi Trần Huỳnh Duy Thức phạm pháp bị bắt, theo BBC:
“Một nhóm các nhân sỹ, trí thức và kiều bào Việt Nam tại Pháp sẽ tiến hành một cuộc tuyệt thực để đồng hành … trao đổi với BBC về lý do của sự kiện được dự kiến ở thủ đô nước Pháp vào ngày 07/6/2016, Giáo sư Phạm Xuân Yêm từ Paris nói:
"Chúng tôi muốn đồng hành với ông ấy, cũng như những người ở trong nước đã đồng hành hai lần rồi.
Chúng tôi sẽ tụ họp ngày 07/6, thứ Ba này, để đồng hành với ông Trần Huỳnh Duy Thức, tỏ liên đới với ông ấy, cũng là đồng hành và mong chính quyền (Việt Nam) hiểu cho sự tự do ngôn luận, tự do chính kiến, tự do, đó là một hành động về nhân quyền”.
Cũng theo BBC Việt ngữ, ngày 9.12.2015, Phạm Xuân Yêm đã cùng với 126 người khác... đã gửi một bức thư ngỏ đến Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI… Bức thư đề nghị "đổi tên đảng (không gọi là Đảng Cộng sản); đổi tên nước (không gọi là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa); trả lại tự do cho những người khác chính kiến đang bị giam giữ; chấm dứt sự trấn áp và ngăn chặn nhân dân thực hiện quyền tự do dân chủ theo Hiến pháp" đồng thời nêu ý kiến "Thực tiễn của nước ta cũng như trải nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy rõ sai lầm và thất bại của đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin".
Phạm Xuân Yêm là người được học bổng của chính phủ Pháp sang Paris du học năm 1956, tức sau 2 năm Pháp đại bại tại Việt Nam. Phải chăng nước Pháp đã quăng ra chút mồi để thực hiện mục đích đào tạo những người như Yêm để rồi khi nào có thời cơ sẽ thay họ rửa hận. Một người được đào tạo như vậy nên Phạm Xuân Yêm đã bất chấp lịch sử và thực tiễn VN, đã có những hành động chống phá, lật đổ như trên!
Về tư tưởng như vậy còn trình độ của Phạm Xuân Yêm? Phạm Xuân Yêm từng được giới thiệu là “Nhà vật lý danh tiếng người Việt tại Pháp”, từng là “Giám đốc nghiên cứu thuộc Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa Học (ngành Vật Lý lý thuyết), đại học Pierre & Marie Curie, Paris, giáo sư đại học Paris VI”. Nhưng rồi tôi đã bị bất ngờ.
Như đã viết, mới đây bạn Nguyễn Giang Thành có nhờ tôi phân tích bài phản biện thuyêt Tương đối hẹp của bạn ấy, cho Phạm Xuân Yêm và Stephen Hawking là “Hai vị giáo sư vật lý hàng đầu trên thế giới”. Tôi coi một chút thì thấy ông Yêm viết: “Chỉ có một khối lượng m trong các định luật vật lý, không có khối lượng m0 của một vật bất động hay khối lượng ‘tương đối tính’ m(v) thay đổi với vận tốc v của mỗi hệ quy chiếu”. Viết vậy thì xem chừng ông Yêm này không chỉ ở “hàng cuối” mà còn phải xét xem ông ấy có xứng với cái danh GS vật lý không? Vì ông ta viết “không có khối lượng ‘tương đối tính’ m(v) thay đổi với vận tốc v của mỗi hệ quy chiếu” thì ông ta đã phủ nhận Thuyết Tương đối hẹp, một phát minh vĩ đại của Einstein. Einstein đã chỉ ra trong Thuyết Tương đối hẹp rằng, không chỉ khối lượng mà cả không gian, thời gian cũng bị biến đổi theo chuyển động.
Ông Yêm cần phải hiểu khối lượng của một vật tăng theo chuyển động còn hàm nghĩa chỉ có vật nào không có khối lượng mới đạt được vận tốc ánh sáng, còn vật nào có khối lượng thì khối lượng sẽ tăng đến vô cùng khi đạt được vận tốc ánh sáng, một điều không thể xảy ra trong thực tế! Đó chính là một trong những ý nghĩa sâu xa của Thuyết Tương đối hẹp!
Là một GS vật lý, trình độ Phạm Xuân Yêm cũng có vấn đề khi không nhận ra “chiến hữu” của mình là Nguyễn Huệ Chi viết lăng nhăng về vật lý. Đó chính là những điều mà tôi đã viết trong bài “HUỆ CHI VÀ RUỒI, BÒ”. Xin trích lại:
Trong một bài, Từ Huy, một cô đậu TS Văn học ở Pháp, có viết về những người biểu tình, gây rối ở HN:
“Nhìn những hình ảnh của Hà Nội trong 5 ngày Chủ nhật liên tiếp gần đây, nhớ Hà Nội cồn cào. Những gương mặt của chú Huệ Chi, của các anh Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Quang Thạch, Nguyễn Xuân Diện… thấy mọi người ở rất gần, tưởng như nghe thấy hơi thở của mọi người phả ra từ màn hình máy tính”.
Đọc xong tôi đâm ra cũng “nhớ” Huệ Chi … HC từng kể lại một “công trình nghiên cứu” thế này:
“Một hôm… đi xe ô tô… tôi… bỗng để ý thấy một chú ruồi đậu trên ve áo một người … bay sang đậu vào vai áo tôi … Tôi hết sức kinh dị. Bởi vì tôi biết xe ô tô đang chạy với một tốc độ rất nhanh … Vậy thì tại sao khi chú ruồi cất cánh bay khỏi vai người bạn của tôi nó không bị chiếc xe đẩy tụt lại phía sau ngay lập tức mà thung dung như đang bay trong một nơi yên tĩnh…? Lực vô hình nào đã giữ nó yên ổn vị trí trong khoảng không của ô tô? Cứ giả thử như chúng ta có cách gì nhích người lên khỏi ghế lơ lửng giữa không trung thì thế nào? Tất nhiên ta sẽ bị vận tốc ô tô đẩy tụt ra phía sau là cái chắc”
Rồi đến khi: “đọc đến cuốn Thuyết tương đối là gì”, “chú Huệ Chi của Từ Huy ” “mới lờ mờ cảm nhận rằng những việc “lạ” mình không lý giải được chắc có liên quan xa gần đến phát kiến “động trời” của nhà vật lý người Đức … Đối với con người ngồi trên ô tô thì vận tốc năm sáu mươi kilômét chẳng ảnh hưởng gì, nhưng với một vật nhỏ như con ruồi thì vận tốc ấy ít nhiều đã tạo nên một trường hấp dẫn mới mà con ruồi sẽ tùy thuộc vào đó, bên cạnh sự cố gắng của đôi cánh nó để thắng lực hấp dẫn của trái đất. Nghĩa là khi ô tô chạy quả thực đã tạo ra trong lòng chiếc xe một không gian vận động tương đối so với không gian yên tĩnh tương đối ngoài mặt đất, trong phạm vi ấy các con vật bé tí như ruồi có thể hoạt động bình thường, không bị vận tốc ô tô làm cho mình tụt lại”. (Hết trích)
Tôi viết:
“Trước hết hiện tượng “ruồi bay” được như trên là do xe chạy thẳng với vận tốc đều, không gian trong xe như một hệ quy chiếu quán tính. Mà theo Nguyên lý Quán tính: “Nếu một vật không chịu một lực nào thì nó sẽ đứng yên hoặc tiếp tục chuyển động không đổi”; tương tự như ta trong xe lửa hoặc trên máy bay (lúc không rung, không xóc, không quẹo, không tăng tốc) thì việc đi lại, rót nước vào cốc và mọi chuyển động sẽ xảy ra y như lúc xe lửa, máy bay đứng yên.
Còn ông Nguyễn Huệ Chi nghĩ “Cứ giả thử như chúng ta có cách gì nhích người lên khỏi ghế lơ lửng giữa không trung thì thế nào? Tất nhiên ta sẽ bị vận tốc ô tô đẩy tụt ra phía sau là cái chắc”. Đây là cách hiểu sai với thực tế, bởi nguyên lý quán tính là như nhau với mọi vật trong hệ quy chiếu, nó không phân biệt ông Huệ Chi với con ruồi; không chỉ ông ta mà nếu có cả con bò trong xe “nhích lên lơ lửng” được thì nó cũng không bao giờ bị “vận tốc ô tô đẩy tụt ra phía sau” như ông nghĩ đâu. Các vật trong xe chỉ bị tác động khi nguyên lý quán tính bị vi phạm, như khi xe quẹo hoặc có gia tốc tăng hoặc giảm.
Ông Nguyễn Huệ Chi đã sai tiếp khi viết: “với con người ngồi trên ô tô thì vận tốc năm sáu mươi kilômét chẳng ảnh hưởng gì, nhưng với một vật nhỏ như con ruồi thì vận tốc ấy ít nhiều đã tạo nên một trường hấp dẫn mới”.
Khi chuyển động đều sẽ tạo nên một hệ quán tính chứ không phải tạo một “trường hấp dẫn” như ông Nguyễn Huệ Chi viết, còn “trường hấp dẫn”, theo Thuyết Tương đối tổng quát (General Theory of Relativity), được tạo ra bởi chính khối lượng của vật hoặc do sự chuyển động có gia tốc…
Tóm lại, với trình độ như “cháu Từ Huy” và bản thân ông Huệ Chi thì sẽ thấy Huệ Chi khác con ruồi trong không gian chiếc xe ấy; còn với những người hiểu biết như tôi và chủ thuyết Tương đối là Einstein thì sẽ thấy ông Huệ Chi cũng như con ruồi, con bò thôi!”
Đất nước chúng ta còn nhiều yếu kém và tệ nạn, rất cần những người có tâm, có tầm phản biện với tinh thần xây dựng. Còn như Phạm Xuân Yêm và Nguyễn Huệ Chi, nghe danh kêu boong boong nhưng sự phản biện của họ chỉ là sự phá hoại, chỉ đưa đất nước đến hỗn loạn mà thôi!
TPHCM
5-11-2017
ĐÔNG LA

Thứ Hai, 29 tháng 5, 2023

“NỖI ĐAU CHU HẢO” CỦA CAO HUY THUẦN

 “NỖI ĐAU CHU HẢO” CỦA CAO HUY THUẦN

VietNamnet hôm nay, 29-5-2023, đưa tin: “Mạng xã hội ngày 28/5 dậy sóng với những chia sẻ đầy tự hào khi hai đạo diễn Việt Nam được xướng tên tại Cannes 2023, liên hoan phim danh giá nhất thế giới”; “Trần Anh Hùng bước lên một đỉnh cao mới: Đạo diễn xuất sắc nhất cho bộ phim Pháp La Passion De Doudin Bouffant”; và “Phạm Thiên Ân chiến thắng giải Camera D’or, 30 năm trước (1993), Trần Anh Hùng được Cannes phát hiện và trao giải”. Như vậy, sau khi Pháp trao giải văn chương cho Dương Thu Hương, Pháp lại tiếp tục trao 2 giải thưởng điện ảnh trên.
Với Dương Thu Hương, việc Pháp dung dưỡng một kẻ phạm pháp VN, viết văn chống VN, nay lại vinh danh mụ ta, chắc chắn Pháp có ý đồ xấu đối với thể chế VN, còn với Trần Anh Hùng thì tôi không thể biết Pháp trao giải có ý đồ gì không vì chưa coi một bộ phim nào của đạo diễn này, chỉ coi vài hình ảnh quảng cáo về phim “Mùi đu đủ xanh” ngày xưa thấy mầu sắc u tối và nhân vật lờ đờ, chắc chắn không thể là một phim xuất sắc phản ánh những gì độc đáo nhất, tốt đẹp nhất về con người và đất nước VN, tức thua xa nhiều phim hay của tác giả trong nước. Vì vậy những ai ca ngợi Trần Anh Hùng hết lời, coi giải thưởng của Cannes là chuẩn mực của giá trị xem chừng đã bị nhiễm vi rút vọng ngoại, cuồng ngoại. Cũng như Nguyễn Quang Thiều, do tư tưởng cuồng Mỹ, cuồng Nobel, trong cuộc vận động sáng tác văn học về đề tài thiếu nhi VN lại đi lấy cái nhìn độc ác về con trẻ của bà Nhà Văn Mỹ Toni Morrison làm chuẩn mực, cho những đứa trẻ hư, trẻ ác “đang đe doạ tinh thần của nhân loại". Nói vậy, Nguyễn Quang Thiều đã huyên thuyên một cách ngu dốt bởi nhìn vào lịch sử những đứa trẻ không thể và chưa bao giờ gây ra tai hoạ cho nhân loại, mà nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam, từng khổ đau, tang thương, và bị huỷ diệt chính là do nạn phân biệt chủng tộc, do Chủ nghĩa Thực dân Cũ và Mới, do Chủ nghĩa Phát xít, do tư tưởng chống “phe” XHCN trong Chiến tranh Lạnh, v.v…
“Mẫu quốc Đại Pháp” từng thua đau nhục nhã tại Điện Biên Phủ sau 100 năm đô hộ VN, là một người Việt chân chính, có lương tri, ai cũng phải vui mừng khi chúng ta giành lại được chủ quyền đất nước, tiếc là vẫn có những kẻ được Pháp nuôi dưỡng, giống như những con chó trong thí nghiệm của Pavlov phản xạ có điều kiện khi được cho ăn, họ cũng “gâu gâu” theo những tư tưởng còn không tốt của “Mẫu quốc” đối với VN. Không chỉ những người xuất thân từ chính quyền tay sai cho Pháp, mà còn có cả những “Cháu ngoan Bác Hồ” như Vũ Thư Hiên, Bùi Tín, Dương Thu Hương, Chu Hảo, Ngô Bảo Châu, v.v… Ngô Bảo Châu từng rất láo khi diễu cợt về Bác Hồ đại ý, muốn yêu quý ai thì hãy để họ siêu thoát, đừng bắt họ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta! Còn với Chu Hảo, hôm nay, nhân “Mẫu quốc” lại vinh danh con dân Việt, mà nhiều trường hợp do chưa quên nỗi nhục bị bại trận và bị tống cổ, tôi đăng lại bài này.

29-5-2023
ĐÔNG LA

“NỖI ĐAU CHU HẢO” CỦA CAO HUY THUẦN

Khi Chu Hảo bị đề nghị kỷ luật, Cao Huy Thuần viết bài “Nỗi đau” đăng trên Viet-studies, có đoạn:
“Anh Chu Hảo vừa bị "kỷ luật" của đảng mà anh là đảng viên. "Kỷ luật" ấy là việc nội bộ chăng? Dư luận đã trả lời: thực chất, đó là một bản án, không phải riêng gì đối với anh Chu Hảo mà đối với tất cả trí thức. Bởi vậy, ai tự thấy mình là trí thức đều cảm thấy có liên quan. Đã có những thư chung. Đã có những "kiến nghị" viết rất sắc sảo và trí thức. Tôi có thể nói thêm ở đây một nỗi đau tuy rằng ai cũng biết, cũng nói, cũng lo: nỗi đau lạc hậu về văn hóa.
Chỉ cần một chữ thôi trong bản án đủ để thấy tất cả những gì là lạc hậu. Anh Chu Hảo bị kết tội là đã "tự chuyển hóa". Có ai mà không biết: "chuyển hóa" là quy luật của tiến hóa, không chuyển hóa thì chỉ làm tôi tớ cho thế giới. Mà xã hội thì không thể nào chuyển hóa được nếu con người không "tự" chuyển hóa từ trong cái đầu. Nếu cái đầu của Galiléo không tự chuyển hóa thì vũ trụ không to gì hơn cái vòm giếng - cái vòm giếng của những thế lực kết tội ông. Nhưng cái đầu của con người luôn luôn muốn vươn đến trăng sao. Trăng sao của vũ trụ cũng như trăng sao của Sự Thật. Trăng sao của Galiléo cũng như trăng sao của Darwin. Ấy là chỉ mới nhắc đến hai quyển sách trong công trình xuất bản của anh Chu Hảo. Chẳng lẽ cái tội của anh Chu Hảo là cái tội đã từng được đem ra để xử hai nhà bác học ấy, cái tội mà bây giờ mang tên là "tự chuyển hóa"? Xuất bản những sách đã đánh dấu lịch sử những bước đi của tư tưởng thế giới là một cái tội? Chúng ta sống trong thời đại nào vậy?”
Cao Huy Thuần là một người Pháp gốc Việt, hiện là giáo sư về ngành chính trị học tại đại học Picardie, Pháp.
Tôi đã viết với khoa học công nghệ tri thức luôn là khách quan nhưng về khoa học xã hội và văn học nghệ thuật thì lại không như thế. Thế giới còn lâu mới là bình đẳng, vẫn còn ở đâu đó chân lý thuộc về kẻ mạnh. Các nước lớn, mạnh vẫn muốn áp đặt khuôn mẫu của mình cho các nước nhỏ, yếu.
Pháp từng một trăm năm xâm lược Việt Nam, phải “bỏ của chạy lấy người” chỉ khi đại bại tại trận Điện Biên Phủ. Vì vậy việc Pháp phong cho ông Phan Huy Lê là “Viện sĩ” sử học thì cần phải xem thực chất Phan Huy Lê nghiên cứu lịch sử theo quan điểm của Pháp hay của Việt Nam? Việt Nam và Pháp đã bình thường hoá quan hệ từ lâu, nhưng về chính trị Pháp vẫn luôn cưu mang những kẻ chống phá thể chế Việt Nam như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Dương Thu Hương, v.v… Vì vậy, Cao Huy Thuần là Giáo sư về chính trị tại Pháp liệu có đúng khi viết về vụ ông Chu Hảo bị đề nghị kỷ luật liên quan đến chính trị không?
Trước hết chúng ta cần phải biết Cao Huy Thuần từng nhận GIẢI VĂN HÓA PHAN CHÂU TRINH 2017 vì sự nghiệp Văn hóa - Giáo dục của Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh mà trong đó có ông Chu Hảo làm phó chủ tịch Quỹ và ông Nguyên Ngọc là Chủ tịch Hội đồng Khoa học!
Một lần tôi đã nhận được thư của khối nhà báo thuộc Câu Lạc Bộ Kháng Chiến TPHCM cho rằng Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh đã sai trái khi tôn vinh Trương Vĩnh Ký, một tay sai của Pháp, trong “Ngôi Đền Tinh hoa Văn hóa Việt Nam”! Tác giả Bùi Kha, trên trang giaodiemonline, viết về Trương Vĩnh Ký:
“… trung tá hải quân Jean Bernard Jaureguiberry và 800 lính ở lại giữ thành Gia Định… Trước cảnh nước mất nhà tan, Trương Vĩnh Ký đã không tham gia phong trào đánh đuổi thực dân như bao nhiêu người khác. Trái lại ông còn viết thư cho viên trung tá thực dân nói trên, yêu cầu giúp đỡ để tiêu diệt quân dân Việt Nam mà họ Trương gọi đó là kẻ thù… như sau: "... tôi … kính dâng lên Ngài lời cầu xin của chúng tôi... nỗi thống khổ mà chúng tôi hằng gánh chịu dưới bạo quyền của các quan lại triều đình gây ra... Tất cả chúng tôi chắc sẽ chịu chết nếu Ngài không kịp đánh đuổi kẻ thù [1] của chúng ta..." (Văn khố Hải quân Pháp, Paris: SUM Vincennes. TS Vũ Ngự Chiêu sưu tập)”.
Như vậy, Quỹ Văn hóa mang tên nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh” đã chọn Trương Vĩnh Ký, một tay sai của Pháp, để tôn vinh trong “Ngôi Đền Tinh hoa Văn hóa Việt Nam” chung với các nhà chí sĩ yêu nước chống Pháp, từng bị Pháp bắt là Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu, nghĩa là họ đã nhân danh cụ Phan lập ra một cái giải thưởng để rồi chống lại chính cụ.
Vậy Quỹ Phan Châu Trinh lại trao giải cho Cao Huy Thuần, một dân Việt mũi tẹt da vàng nhưng lại là giáo sư dạy chính trị theo quan điểm của Pháp thì có lại chống lại Phan Châu Trinh như tôn vinh Trương Vĩnh Ký không?
Chỉ biết chắc chắn rằng, Cao Huy Thuần viết về “vụ Chu Hảo” như trên là hoàn toàn sai trái.
Cao Huy Thuần cần phải biết Chu Hảo có trong danh sách 72 kẻ mà tôi gọi là “LẬT PHÁP” (lật đổ Hiến Pháp) với cái “Kiến nghị” phê phán Dự thảo Hiến pháp của Quốc hội. Họ đã đề nghị thay thế dự thảo đó bằng Dự thảo Hiến pháp mới của họ mà tôi đã chỉ ra 3 điều sai trái như thế này:
1-Thứ nhất là phi lý và sẽ gây hậu quả nghiêm trọng khi các vị nhân danh “nhân quyền”, nhân danh “tự do dân chủ” đòi "quyền" mà không “theo quy định của pháp luật”, không ràng buộc với “nghĩa vụ”. Bởi như vậy “nói bậy”, “viết bậy”, “làm càn” cũng sẽ được tự do, tất dẫn đến một xã hội hỗn loạn!
2- Thứ hai, thể chế mỗi nước đều gắn với lịch sử. Chính truyền thống văn hóa, lịch sử của mỗi dân tộc là nền tảng vững chắc của thể chế. Việc các vị xóa trắng lịch sử là phản đạo lý. Việc lấy một hình mẫu nào đó không phù hợp với thực tiễn VN là một sự ảo tưởng, là việc xây lâu đài trên cát.
3- Thứ 3, Việt Nam ta là xứ sở coi trọng tình nghĩa, coi trọng “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, nên khi các vị viết: “Lời nói đầu không phải là chỗ để tuyên dương công trạng của bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào”, các vị là những kẻ vô ơn.
Khi Pháp xây dựng Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, cho là một "chiếc chìa khoá" án ngữ miền Tây Bắc Việt Nam, kiểm soát liên thông với Thượng Lào làm bẫy nhử quân chủ lực Việt Minh tấn công để nghiền nát tại đó. Nghĩa là Pháp muốn vĩnh viễn chiếm VN. Cho đến ngày chúng ta giành lại được chủ quyền đất nước, biết bao anh hùng, chiến sĩ đã hy sinh để chúng ta có được cuộc sống thanh bình hôm nay. Những người soạn thảo và ký tên đồng tình với bản “Kiến nghị” viết: “Lời nói đầu không phải là chỗ để tuyên dương công trạng của bất kỳ tổ chức hay cá nhân nào” như trên phải chăng là những kẻ "ăn cháo đá bát", những kẻ vô ơn?
Cũng cần nhắc lại về Chu Hảo cho Cao Huy Thuần biết, hồi các cuộc biểu tình chống TQ đã quá đà, có dấu hiệu lợi dụng việc chống TQ tiện thể chống luôn chế độ, lực lượng an ninh Thủ đô đã thi hành chức trách giải tán các cuộc biểu tình đó, ông Chu Hảo đã: “cực lực phản đối” cho công an ta là “phản động”, là “thù địch”. Tôi đã viết: “Ông này hồi chiến tranh khi hầu hết thanh niên lên đường chiến đấu thì đều được du học dài dài. Không hiểu vì học cao quá, hay vì sung sướng quá mà xa rời những bước đi lấm bùn và máu của dân tộc, của cha anh, nên không còn hiểu được những lẽ thường “thế nào là kẻ địch”!”.
Với Cao Huy Thuần còn hơn cả Chu Hảo, từng du học Pháp thời VNCH, bú con bò Pháp mà thành danh thành đạt, học chính trị Pháp, một nước từng 100 năm xâm chiếm VN, thì làm sao có quan điểm đúng về lịch sử, về chính trị VN? Nên vì vậy mà Cao Huy Thuần đã bênh vực Chu Hảo hoàn toàn là thiển cận, mang tính băng nhóm, bè phái. Chu Hảo hoàn toàn không phải phạm tội vì in sách để dân Việt biết đến “Trăng sao của Galiléo cũng như trăng sao của Darwin” như Cao Huy Thuần xuyên tạc mà Chu Hảo in cả một hệ thống sách với mưu đồ lật đổ thể chế, với nhân cách của một kẻ “ăn cháo đái bát”!
1-11-2018
ĐÔNG LA

Thứ Sáu, 26 tháng 5, 2023

BỘ BA VĂN CHƯƠNG, SỬ HỌC, NGOẠI GIAO NGU DỐT NGANG NHAU

 BỘ BA VĂN CHƯƠNG, SỬ HỌC, NGOẠI GIAO NGU DỐT NGANG NHAU

Trên facebook, 22/5/2023, GSTS Nguyễn Cảnh Toàn viết:
“Một lần tôi cùng 2 ông Tướng gặp PTTg Vũ Đức Đam (đã được Trung tướng NTT viết đăng… trong đó có nhắc đến 3 anh em chúng tôi và kẻ lật sử VMG đã không thực hiện ý kiến của PTtg VĐĐ - không mời chúng tôi đến hội thảo khoa học về Bộ Quốc sử (LSVN) để tranh biện. Có ai đó đã nói đến tai chúng tôi: đồng $ M nó mua hết rồi, nên họ không mời các anh đến đâu. Các anh mà đến thì Bộ Quốc sử khó mà thông qua”. Đọc bài của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn thì “2 ông tướng” chính là Võ Tiến Trung, Thượng tướng, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Quân sự, nguyên Giám đốc Học viện Quốc phòng; và Nguyễn Thanh Tuấn, Trung tướng, nguyên Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị; còn “kẻ lật sử VMG” chính là Vũ Minh Giang, GSTSKH Lịch sử, nguyên Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.
Cụ thể Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn viết:
“…chúng tôi đã gặp đồng chí PTTg Vũ Đức Đam , nội dung tại cuộc gặp này cũng đã được anh Võ Tiến Trung và tôi công khai trên mạng xã hội ; trong đó có nội dung chỉ đạo của PTTg là giao nhiệm vụ cho Bộ phận chủ biên Bộ Quốc sử mà trực tiếp là ông Vũ Minh Giang phụ trách phải tổ chức Hội thảo khoa học, khi Hội thảo nhất định phải mời các đồng chí Võ Tiến Trung, Nguyễn Thanh Tuấn, Nguyễn Cảnh Toàn đến dự, và chính ông Vũ Minh Giang đã xin ghi số điện thoại của anh em bọn tôi nhằm tiện liên lạc và gởi giấy mời dự Hội thảo. Thế nhưng sự chỉ đạo của PTTg Vũ Đức Đam đã bị lãng quên, Hội đồng biên tập đã không mời chúng tôi tham gia Hội thảo về Bộ quốc sử”.
Như vậy, Vũ Minh Giang “đã ghi số điện thoại” như trên mà không thực hiện sự chỉ đạo của nguyên PTT Vũ Đức Đam (khi đương chức) đã hiện nguyên hình là một kẻ chống đối và lưu manh.
Về chuyên môn lịch sử của Vũ Minh Giang. Tôi mới viết bài có chuyện Bảo Ninh rất ngu xuẩn khi cho cuộc Kháng chiến chống Mỹ của VN là nội chiến thì Vũ Minh Giang cũng ngu không kém BN khi cho là “Cuộc chiến ý thức hệ”. Và như để cho đủ bộ ngu Văn, Sử, Ngoại giao, Nguyễn Thanh Sơn, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao, cũng đã cho VNCH là có “chính danh”, “chính nghĩa”, và có “lý tưởng”.
***
Vũ Minh Giang khi trả lời phỏng vấn về hoà hợp dân tộc, được đăng trên báo Công Lý của TAND Tối cao ngày 29/4/2019, bài “GS.TSKH Vũ Minh Giang: Đại đoàn kết dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. (http://congly.vn/.../gs-tskh-vu-minh-giang-chung-ta-phai...)
Theo ông Giang, “cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước là cuộc chiến ý thức hệ Quốc – Cộng khiến cho người dân ở 2 miền Nam- Bắc đều là nạn nhân!” Từ cái nhìn đó, Vũ Minh Giang kêu gọi “kỷ niệm ngày 30/4 “các Cơ quan truyền thông không nên bàn đến chuyện thắng – thua mà hãy cùng chung tay đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, “ta hoà giải với Mỹ dễ hơn với người phía bên kia”, “những người đã từng cầm súng chống Mỹ cứu nước thì việc bỏ thù hận là khó đối với họ. Phải đặt lợi ích quốc gia lên trên ý thức hệ!”
Tôi (Nhà Văn, Nhà Lý luận Phê bình Đông La) không ngờ một GSTS KH Lịch sử, Phó chủ tịch Hội KH LS như Vũ Minh Giang lại ngu dốt và sai trái đến thế, còn được giao làm Quyền Tổng chủ biên bộ Quốc sử thì nguy hiểm biết bao!
Vũ Minh Giang cực kỳ phản động khi nói như trên, cho rằng Cuộc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước là “cuộc chiến ý thức hệ Quốc – Cộng”, vì đây là cách nói của quân địch. Bản chất hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của VN là đánh đuổi ngoại xâm, giành lại chủ quyền đất nước, còn việc lấy Tư tưởng HCM, Chủ nghĩa Mác-Lê nin (tức ý thức hệ) làm kim chỉ nam, chính là phương cách hành động chứ không phải là bản chất cuộc chiến. Vũ Minh Giang cho “phải đặt lợi ích quốc gia lên trên ý thức hệ” cũng lại quá dốt. Nếu hiểu lịch sử thì phải hiểu khi VN nước mất nhà tan, bao cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đều thất bại, chỉ khi có Đảng, Bác lãnh đạo, tức có một ý thức hệ để áp dụng, VN mới chiến thắng, mới giành lại chủ quyền đất nước, dân ta mới có cuộc sống thanh bình, đất nước mới phát triển như ngày nay, tức ý thức hệ và lợi ích quốc gia luôn gắn chặt với nhau. Vũ Minh Giang đặt lợi ích quốc gia lên trên ý thức hệ giống như bảo một người làm việc không cần não vậy, một sự ngu biện quá dốt nát, ăn cháo đái bát, một thứ cơ hội, vuốt ve để lấy lòng “bên thua cuộc”.
***
Nguyễn Thanh Sơn, ngày 2/5/2014, trên báo phapluattp.vn, khi trả lời phỏng vấn, đã nói: “Ngày xưa ta không thể nói là không có chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam. Đó là chính phủ cũng được quốc tế thừa nhận chứ. Đó cũng là một nhà nước có quân đội thực thi nhiệm vụ quốc gia của họ để bảo vệ chính nghĩa theo lý tưởng của họ”. Báo Nhân dân ngày 10/07/2014 đã phê phán quan điểm sai trái này của Nguyễn Thanh Sơn:
“Gần đây, một số người nhân danh hòa hợp dân tộc mà lại đưa ra quan niệm "méo mó" về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ðã có một vài cá nhân, một số diễn đàn báo chí coi những người từng cầm súng bắn vào đồng bào mình là hành động với "lý tưởng khác", "lựa chọn chính trị khác"” (http://www.nhandan.com.vn/.../23743602-khong-the-nhan...)
Theo truyền thông mấy năm nay, Nguyễn Thanh Sơn, nguyên Thứ trưởng Ngoại giao và Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, "bằng sự chân thành", đã cảm hóa, giúp nhiều nhân vật chống Cộng sừng sỏ nhận ra sai lầm của mình, trong đó có Hoàng Duy Hùng. Ông Sơn, 29-4-2022 trên VTC News, cho biết: “Khi đến thăm tôi tại nhà riêng, Hoàng Duy Hùng thể hiện tình cảm rất xúc động. Anh ấy xin nhận tôi làm anh kết nghĩa”.
Hoàng Duy Hùng, một Việt kiều Mỹ, từng chống cộng điên cuồng, từng xâm nhập VN, dự tính cho nổ bom ở Tượng đài Bác Hồ ở Bến Nhà Rồng và Cần Thơ, nhưng theo thú nhận của chính HDH, khi về lại Mỹ đã bị CIA “dằn mặt”, bây giờ chống VN là chống Mỹ, nên HDH đã phải chùn tay. Như vậy, những ngày hôm nay khi HDH lộ chân tướng và bị báo dangcongsan.vn vạch mặt, Nguyễn Thanh Sơn những tưởng “năn nỉ” được HDH “hoà hợp dân tộc”, đã lập được công to, nhưng thực chất Nguyễn Thanh Sơn có một tội lớn, đã tạo điều kiện và tiếp tay cho HDH nuôi chí lật đổ chế độ VN bằng “Cách mạng trắng”.
***
Những ngày hôm nay, công cuộc chống tham nhũng tiền bạc, giết người cướp của có nhiều kết quả, tiếc là tham nhũng tư cách đạo đức mà TBT Nguyễn Phú Trọng đã nhắc đến, tham nhũng tài năng, tham nhũng danh tiếng gần như vô sự, dẫn đến hiện trạng có quá nhiều cán bộ đảng viên bất tài, thất đức lại có chức, có quyền, có danh trong các lĩnh vực Giáo dục, Sử học, Văn chương, Báo chí, dẫn tới tình trạng có những hành động lật sử, chống chế độ, mưu toan giết chế độ, v.v… lại gần như được tự do hoành hành! Sự “đổi mới” kiểu Ukraina lại có ngay trên đất nước chúng ta. Thật nguy hại biết bao!!!

26-5-2023
ĐÔNG LA

Thứ Tư, 24 tháng 5, 2023

VỀ CUỘC "ĐỐI THOẠI" CỦA BÁO TUỔI TRẺ VÀ NHÀ VĂN XUYÊN TẠC BẢO NINH

 VỀ CUỘC "ĐỐI THOẠI" CỦA BÁO TUỔI TRẺ VÀ NHÀ VĂN XUYÊN TẠC BẢO NINH



Mới đây, bạn Đại tá Trịnh Lê Hoài Nam đã gởi cho tôi hình chụp báo Tuổi trẻ đăng bài “đối thoại”: “BẢO NINH: không sống đời bộ đội tôi không có đời viết văn”, với lời giới thiệu “Là một trong những tên tuổi nổi bật của văn chương Việt thời đổi mới, với cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh…”. Báo Tuổi trẻ với thông tin: Tổng biên tập: Lê Thế Chữ. Giấy phép hoạt động báo điện tử tiếng Việt, tiếng Anh Số 561/GP-BTTTT, cấp ngày 25-11-2022. Thông tin tòa soạn - Thành Đoàn TP.HCM. Như vậy, Báo Tuổi trẻ vừa thuộc quyền quản lý của Bộ TTTT, vừa thuộc cơ quan của Thành Đoàn TPHCM. Nhưng viết như trên, Báo Tuổi trẻ đã hoàn toàn sai trái về chính trị tư tưởng, không hiểu gì về văn chương, về lịch sử, và về tài năng và nhân cách của Bảo Ninh. Trước đây, báo Tuổi trẻ, 20/08/2017, cũng cực kỳ sai trái khi đăng bài “Công nhận Việt Nam cộng hòa là một bước tiến quan trọng”, cụ thể hơn, trong bài báo có câu: "Việc từ bỏ cách gọi "ngụy quân", "ngụy quyền" và công nhận Việt Nam cộng hòa như một chính quyền độc lập là một bước tiến quan trọng...". Đây là quan điểm cực kỳ phản động, bởi công nhận VNCH độc lập đồng nghĩa cho VNDCCH trước đây và CHXHCNVN hôm nay là kẻ xâm lược VNCH. Vậy Báo Tuổi trẻ không phải cơ quan thuộc Đoàn Thanh niên là cánh tay đắc lực của Đảng mà chính là cơ quan thọc dao vào mạng sườn của Đảng!



***
Cụ thể, trong bài báo trên, Tuổi trẻ hỏi:
-Có người nói Nỗi buồn chiến tranh … được dịch nhiều vì nước ngoài có xu hướng thích đọc những tiếng nói chống đối.
Bảo Ninh:
-Đó không phải văn chương chống đối, đó là văn học nói thật…
Như vậy, ông Bảo Ninh hôm nay đã tự vả vào mồm ông Bảo Ninh ngày xưa bởi đã từng thừa nhận khi viết tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” là: “Tôi không muốn viết theo một cái “tông” có sẵn”, nên: “Những gì tôi viết trong cuốn sách này, tôi cũng đã nói rằng nó không hoàn toàn là sự thật”, “chiến tranh tóm gọn lại là sự chết chóc, hủy diệt. Tôi nghĩ thế là quyền của tôi, và có người phê phán, tôi thấy cũng chẳng sai”; “cách viết của tôi về chiến tranh khác với các nhà văn khác”. (http://www.Baodatviet.vn/Utilities/ PrintView.asp x?ID=9840).
Đặc biệt, gần đây GSTS Nguyễn Cảnh Toàn đã viết chính danh trên facebook, với tư cách là người từng cùng nhập ngũ, cùng đơn vị với Hoàng Ấu Phương (tên thật Bảo Ninh). Anh cho biết mình cùng từng chiến đấu bên Bảo Ninh, trong một cuộc chiến vô cùng ác liệt, thịt nát xương tan nhưng “chúng tôi không sợ hãi, đào ngũ, không đầu hàng địch mà luôn lạc quan, yêu thương nhau và cùng chung niềm tin Tổ quốc ta sẽ chiến thắng”, “và đó là sự thật khác với “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh”, “Khi tôi đọc “Nỗi buồn chiến tranh”, tôi giật mình: BN viết về chính nó, chính tôi, chính chúng tôi, đồng đội của chúng tôi trong chiến tranh nhưng rất rất nhiều sự việc bịa đặt, sai sự thật đến mức không thể chấp nhận”. Chưa hết, anh Nguyễn Cảnh Toàn cho biết về nhân cách Bảo Ninh, sau giải phóng “khi về Viện Sinh học, Viện Khoa học VN, Phương (Bảo Ninh) phát triển khá thuận lợi: tổ trưởng Đảng, quyền Phụ trách phòng Sinh lý Sinh hoá thực vật… Và, tiếc thay, khoảng những năm đầu 1980, Phương đã bị kỷ luật rất nặng về tội … phá hoại thí nghiệm sinh học của đồng nghiệp trong Viện… đã lấy hoá chất độc rắc vào tảo thí nghiệm thức ăn cho gà của 1 trong 2 tiến sĩ đang thí nghiệm … giết gà để gây mâu thuẫn…! CQ công an phải vào cuộc và Phương buộc phải rời khỏi Viện nghiên cứu…”.
Như vậy, theo “tự thú”của Bảo Ninh kể trên, Bảo Ninh viết “không hoàn toàn là sự thật”, muốn “viết khác” để “đổi mới” văn chương. Nhưng sự thật, Bảo Ninh không phải “viết khác” mà là xuyên tạc, với mục đích cơ hội, đón gió, trở cờ, đã bôi đen đội quân cách mạng anh hùng, đã có thái độ lộn ngược về cuộc kháng chiến vĩ đại, giành lại chủ quyền, thống nhất đất nước của nhân dân ta.
Tôi đã viết nhiều về “vấn đề Bảo Ninh” nhưng cái dư luận bầy đàn tâng bốc Bảo Ninh vốn “ngu lâu”, “dốt dai”, nên nay lại phải nhắc lại.
***
VN chúng ta từng là nạn nhân của cuộc chiến do Pháp rồi đến Mỹ xâm lược VN, khi chúng ta chiến thắng, giành lại được chủ quyền đất nước và được sống trong thanh bình, tất nhiên ai cũng phải vui mừng và tự hào (ngoại trừ những người ở phía VNCH đem lòng thù hận vì tự dưng thấy “mất hết” những gì mà Mỹ bố thí). Vậy mà thật kỳ quái, ở ngay “Bên thắng cuộc”, không chỉ là người thường mà toàn là những người thuộc hạng đại trí thức, kể cả danh nhân, họ lại có thái độ lộn ngược về cuộc chiến. Rùm beng nhất, còn kéo dài mấy chục năm cho đến tận hôm nay, xuất phát từ chuyện Nguyên Ngọc và cả một đám lâu la, không chỉ mù điếc trước sự thật lịch sử mà còn mù cả về tri thức văn chương, đã ca tụng cuốn tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh hết lời, cuốn sách đã cho cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân ta là một “nỗi buồn”!
“Nỗi buồn chiến tranh” lần đầu được in năm 1990 tại NXB Hội Nhà Văn phải đổi tên là “Thân phận tình yêu”, khi cuốn sách được giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam, dư luận đã phản đối dữ dội, đặc biệt là Tạp chí cộng sản có bài TỪ ĐÂU ĐẾN NỖI BUỒN CHIẾN TRANH? của TRẦN DUY CHÂU có đoạn:
“Bằng sự bôi nhọ sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân ta, Bảo Ninh không chỉ xúc phạm đến những người đang sống … Tác giả Nỗi buồn chiến tranh còn muốn giết chết hẳn những người đã vĩnh viễn nằm xuống để cho “dân tộc quyết sinh”… Đó là sự khai tử của một ngòi bút quá nhẫn tâm đã coi họ là vật hy sinh mù quáng cho những cuồng vọng của con người”.
(Nguồn: Tạp chí Cộng sản, Hà Nội, số 10 (tháng 10-1994)
Trước tình hình đó, Ban Lãnh đạo Hội Nhà Văn VN hồi đó đã phải tự phê bình bằng văn bản, đọc trước toàn Đại hội lần thứ V, còn in trên báo Công an TPHCM số 478, ra ngày 13-9-1995. Riêng Nhà văn Vũ Tú Nam, lãnh đạo cao nhất HNV VN, khi trả lời phỏng vấn đã nhận trách nhiệm: “Trách nhiệm thuộc về toàn thể Ban Chấp hành, nhưng tôi là người chịu trách nhiệm trước nhất. Sự phê phán của công luận sau đó là chính đáng”.
Nhưng rồi chuyện kỳ lạ về “Nỗi buồn chiến tranh” vẫn chưa dứt, năm 2016, Ban Lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam (đương chức) lại nhất trí 100% đưa “Nỗi buồn chiến tranh” vào danh sách đề cử xét “Giải thưởng Nhà nước”. Khi “Nhà nước” đã loại tác phẩm sai trái và tải “tà đạo” này thì theo https://www.tienphong.vn/, 17/07/2016, “đã làm giới văn chương choáng váng”. Quả thực, nếu đúng như tờ báo tienphong viết thì theo tôi “giới văn chương” đã hoàn toàn mất trí! Có điều thực tế không phải cả giới văn chương VN ủng hộ cuốn “Nỗi buồn chiến tranh” mà chỉ có một phần nào đó thôi. Còn những người có trọng trách của Hội Nhà Văn Việt Nam, khi đề nghị nhà nước tôn vinh cuốn “Nỗi buồn chiến tranh” xuyên tạc, bôi đen cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, họ nghĩ thế nào về những anh hùng liệt sĩ và lịch sử đất nước? Và tôi băn khoăn, là những người lãnh đạo Hội Nhà Văn Việt Nam, luôn huyên thuyên đủ đường về những điều cao sâu, huyền diệu của văn chương, khi đề nghị nhà nước tôn vinh cuốn “Nỗi buồn chiến tranh”, họ đã hoàn toàn không hiểu giá trị đích thực của một tác phẩm văn chương! Vậy cụ thế “Nỗi buồn chiến tranh” viết cái gì?
***
Sự thật thời chiến tranh đa phần thanh niên nhập ngũ theo lý tưởng giải phóng dân tộc, tham gia chiến đấu để giành lại chủ quyền đất nước thì nhân vật Kiên của Bảo Ninh ra đi với lời dặn của cha là: một người sinh ra là “để sống, để nếm trải sự đời một cách đủ ngành ngọn chứ không phải là hy sinh nó”, “mong con hãy cảnh giác với tất cả những sự thúc giục con người lấy cái chết để chứng tỏ một cái gì đấy” (Nỗi buồn chiến tranh, NXb Hội Nhà văn, 1991, tr.61); Bảo Ninh chỉ viết toàn cái xấu, bịa đặt về hình ảnh “anh chiến sĩ giải phóng”, toàn là: Hiếp dân lành (chuyện cô Phương bị hiếp tập thể trên tầu) (tr.243) ; hành lạc tập thể (giữa phân đội trinh sát với 3 cô gái trong khu trại tăng gia huyện đội) (tr.31); bài bạc, hút xách (hút hồng ma), trốn chạy, đào ngũ (nhân vật Can), tàn sát, chôn sống tù binh (tr.42), v.v…
Tiêu chuẩn cao nhất để xác định giá trị của một tác phẩm, nhất là lại phản ánh lịch sử, chính là tái hiện được sự thật. Tiêu chuẩn quan trọng thứ hai mà người cầm bút nào cũng phải hiểu là “Văn chương phải tải đạo”. Với “Nỗi buồn chiến tranh”, như chính Bảo Ninh từng thú nhận là mình viết “không hoàn toàn đúng” và “người phê bình tôi cũng không sai”. Vậy “Nỗi buồn chiến tranh” là cuốn sách đã xuyên tạc sự thật, mà đã sai sự thật thì cuốn sách tải được “đạo” gì? Có chăng chỉ có thể là tà đạo mà thôi
***
Trên báo điện tử Bình Phước, 06/10/2019, có bài “Xét lại lịch sử” - âm mưu thâm độc” có đoạn:
“… Bảo Ninh - tác giả của “Nỗi buồn chiến tranh”, khi trả lời phỏng vấn trong tập 9 bộ phim tài liệu “Chiến tranh Việt Nam” của Ken Burns và Lyun Novick, nói về giai đoạn từ tháng 5-1970 đến tháng 3-1973, đã phát biểu rất hợm mình: “Chúng tôi ăn cùng một loại gạo, uống cùng một loại nước, chia sẻ cùng một nền văn hóa, cùng một loại âm nhạc. Chúng tôi đã hèn nhát theo cùng một cách, chúng tôi đã dũng cảm theo cùng một cách, không khác nhau, đó là một cuộc nội chiến”. (https://baobinhphuoc.com.vn/.../xet-lai-lich-su---am-muu...)
Ai có chút hiểu biết về Lịch sử VN và tôn trọng sự thật cũng phải thấy rằng cuộc chiến tranh đã xảy ra tại VN không phải là nội chiến, không phải là chuyện người VN tự dưng mang súng bắn vào đầu nhau, mà cuộc chiến đó xuất phát từ việc Pháp đã xâm lược VN, rồi đến lượt Mỹ đã thay thế, duy trì cuộc chiến. Pháp đã bắt những ông vua đích thực của VN như vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân đi đày, rồi dựng lên những ông vua bù nhìn để cai trị VN suốt 100 năm. Pháp đã phải chấm dứt sự xâm lược chỉ khi bị thua đau tại Điện Biên Phủ. Rồi Mỹ đã thế chân Pháp, lập ra chế độ VNCH để duy trì cuộc chiến, muốn áp đặt ý đồ của mình vào VN và bán đảo Đông Dương. Mỹ đã làm mọi cách để chiến thắng và giữ thể diện của một nước siêu cường, đã đưa cả nửa triệu lính Mỹ và chư hầu vào VN trực tiếp tham chiếm, kể cả mang B52 ném bom “trải thảm” muốn đưa Hà Nội “trở về thời kỳ đồ đá”. Nhưng cuối cùng Mỹ vẫn phải chịu thua, bỏ cuộc và thừa nhận sai lầm. Cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ Robert McNamara, “công trình sư” của Mỹ trong chiến tranh VN, trong hồi ký của mình đã phải thú nhận: “Chúng tôi đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp!”
Như vậy, bản chất cuộc chiến tranh ở VN trước hết là việc dân Việt Nam chống Pháp rồi đến chống Mỹ để giải phóng, thống nhất, giành lại chủ quyền đất nước, có chống VNCH cũng là chống Mỹ vì VNCH là do Mỹ dựng lên.
Bảo Ninh đã cho là “nội chiến” chứng tỏ đã quá dốt và mù lịch sử. Nhưng thực chất Bảo Ninh lại không dốt mà là người rất khôn ngoan, nên nói như vậy, Bảo Ninh chỉ có thể là một kẻ cơ hội, đón gió, trở cờ, một kẻ phản bội!
Ngay những phát ngôn của những nhân vật chóp bu phía Mỹ và VNCH cũng như những cái tát giáng thẳng vào miệng lưỡi những kẻ nói ngược như Bảo Ninh.
Cựu Tổng thống Donald Trump từng cho cuộc chiến mà Mỹ thế chân đó là một cuộc chiến tồi tệ (I thought it was a terrible war). Maxwell Taylor, từng là đại sứ Hoa Kỳ tại VNCH, đã nói: “Tất cả chúng ta đều có phần của mình trong thất bại của Mỹ ở Việt Nam và chẳng có gì là tốt đẹp cả. Không hề có một anh hùng nào mà toàn là những kẻ ngu xuẩn. Chính tôi cũng nằm trong số đó”. (We all have a share in it, and none of it is good. There are no heroes, just bums. I include myself in that.
Theo https://vi.wikipedia.org/, trong bài “Quá trình can thiệp của Mỹ vào Việt Nam (1948-1975)” có đoạn:
“…thượng nghị sĩ (4 năm sau trở thành Tổng thống) John F. Kennedy tuyên bố vào ngày 1/6/1956:
“Nếu chúng ta không phải là cha mẹ của nước Việt Nam bé nhỏ [chỉ Việt Nam Cộng hòa] thì chắc chắn chúng ta cũng là cha mẹ đỡ đầu của nó. Chúng ta là chủ tọa khi nó ra đời, chúng ta viện trợ để nó sống, chúng ta giúp định hình tương lai của nó (…). Đó là con đẻ của chúng ta - chúng ta không thể bỏ rơi nó, chúng ta không thể không biết tới những nhu cầu của nó”.
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu cũng đã từng phát biểu: "Nếu Mỹ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau 3 giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi dinh Độc Lập!" Tướng Nguyễn Cao Kỳ, năm 2005, khi về Việt Nam và trả lời phỏng vấn của báo Thanh Niên, đã nói: "Mỹ luôn luôn đứng ra trước sân khấu, làm "kép nhất". Vì vậy ai cũng cho rằng đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê".
Về đích danh chữ “nội chiến”, Nhà sử học Frances FitzGerald viết:
"Chiến thắng của họ (Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam) là chiến thắng của dân tộc Việt Nam - người Bắc cũng như người Nam. Khác xa với một cuộc nội chiến, cuộc đấu tranh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam là một sự khẳng định nguyên tắc thống nhất dân tộc mà chính quyền Sài Gòn đã tuyên bố ủng hộ rồi phản bội".
Tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong buổi phỏng vấn với CNN và trong sách "Những Bí mật về Chiến tranh Việt Nam" đã viết:
"... Cuộc chiến đó không có gì là "nội chiến", như nó đã không là nội chiến trong cuộc tái chiếm thuộc địa của Pháp được Mỹ ủng hộ. Một cuộc chiến mà trong đó một phía hoàn toàn được trang bị và trả lương bởi một quyền lực ngoại quốc – một quyền lực nắm quyền quyết định về bản chất của chế độ địa phương vì những quyền lợi của mình – thì không phải là một cuộc nội chiến... Theo tinh thần Hiến chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta (nước Mỹ) công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lược của Mỹ".
Theo ông nguyên nhân sâu xa của việc Mỹ áp đặt sự chiếm đóng lên miền Nam Việt Nam là để điều khiển và kiểm soát thị trường kinh tế, nhân lực, sức lao động và tài nguyên ở vùng Đông Nam Á.
***
Phạm Xuân Nguyên, một tín đồ của “Nỗi buồn chiến tranh” cho biết: “… Dennis Mansker… khi đọc Nỗi buồn chiến tranh. … ông choáng váng và xúc động. Ông viết: "Đây là một bức tranh trung thực và tàn nhẫn đến kinh ngạc về bi kịch của một người lính Bắc Việt bị tê liệt hết nhân tính của mình sau mười năm tham chiến…”.
Tôi đã viết đáp lại trong cuốn Bóng Tối Của Ánh Sáng của tôi là:
“Sau chiến tranh, có thể có những chấn thương thần kinh về bệnh học, còn chấn thương tinh thần mang tính ý thức hệ để rồi tuyệt diệt niềm vui sống, như Bảo Ninh viết, chỉ là vô cùng hãn hữu. Bản thân cựu lính chiến Bảo Ninh cũng còn rất khôn ngoan, chẳng có “tê liệt” cái quái gì hết, không hiểu vì cái gì mà ông ta viết để cho người ngoài hiểu đồng đội của mình “tê liệt hết nhân tính” như một lũ súc vật vậy?!”
Đến hôm nay thì tôi có thể tự trả lời, đó là “vì tiền”.
GS Trần Thanh Đạm viết về cái quái gở của cuốn “Nỗi buồn chiến tranh”: “Nỗi buồn chiến tranh ở đây mang màu sắc của một sự sám hối của những người anh hùng đã lỡ gây nên một sự nghiệp anh hùng”, còn tôi (Đông La) thì cũng thấy cái chuyện kỳ quái, có những kẻ sau giải phóng lại đi tìm mọi cách đầu hàng phía thua trận. Đầu tiên tôi (Đông La) rất ngạc nhiên, nhưng rồi đã nhận ra, nếu phía thua VN mà nghèo đói như các nước Châu Phi thì chắc chắn sẽ không bao giờ có chuyện ngược đời đó. Nhưng phía thua VN lại là Pháp, là Mỹ, những nước rất giầu có, vì vậy mà đã có những kẻ cơ hội, đón gió, mà muốn vậy, chúng phải trở cờ. Chúng phải đổi giọng, đổi những thứ vô giá thiêng liêng như niềm tự hào dân tộc, sự chính nghĩa, cái thiện… để mong lấy những cái có giá cụ thể hơn, đó là tiền!
***
Chiến tranh đã lùi xa chẵn 45 năm, với nước Mỹ chúng ta đã “khép lại quá khứ, hướng đến tương lai”, Việt Nam đúng như câu thơ tôi viết:
Một đất nước đến những người từng là kẻ thù cũng đem lòng yêu mến
Nhiều cựu binh Mỹ đã trở lại VN, được những người từng là cựu thù đón tiếp như những người thân; những tổng thống Mỹ đến VN đã được dân VN đón chào còn nồng nhiệt hơn cả ở Mỹ.
Với những người từng liên quan đến chế độ VNCH nhà nước cũng đã có chính sách hoà hợp dân tộc từ lâu. Càng ngày Việt kiều càng trở về thăm quê hương đất nước nhiều hơn, kể cả chuyện ở lại luôn, vì đất nước đã thay đổi rất nhiều.
Nhưng mọi người cũng cần phải hiểu một lẽ tất nhiên rằng, chúng ta hoà hợp là hoà hợp với những người biết “quay đầu là bờ” chứ không phải hoà hợp với những kẻ cho VNCH là chính danh, chính nghĩa, cho Miền Bắc xâm lược Miền Nam; chúng ta “khép lại quá khứ” không có nghĩa là xoá bỏ tất cả, không phải là chuyện lộn tùng phèo chính nghĩa, phi nghĩa, trắng đen lẫn lộn, thiện ác bất minh, mà cũng như nhân loại trên toàn thế giới, họ luôn làm lễ kỷ niệm những sự kiện trọng đại thì VN cũng sẽ mãi tự hào và luôn làm đại lễ để kỷ niệm ngày chiến thắng vĩ đại 30-4-1975!

24-5-2023
ĐÔNG LA

Thứ Hai, 22 tháng 5, 2023

CHẾ LAN VIÊN TRONG HỒI QUANG CỦA KÝ ỨC

 CHẾ LAN VIÊN TRONG HỒI QUANG CỦA KÝ ỨC




Bài trước tôi đã viết Chế Lan Viên, người tôi luôn coi như cha mình, thì tôi đúng là “hâm” như thời đi làm ở cơ quan người ta hay gọi. Giờ còn sống, CLV đã 103 tuổi, với bọn cơ hội, đón gió, trở cờ trong làng văn cùng thế hệ tôi như Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Đăng Điệp, Phạm Xuân Nguyên, Văn Giá, Nguyễn Quang Lập, v.v…, thì chúng bận ca ngợi, thần tượng bọn nhà văn kền kền như Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, chứ có đứa nào còn nhắc đến tên thôi chứ chưa nói đến chuyện chúng coi trọng tài năng của CLV. Riêng thằng Thiều tôi nhớ có lần nó đánh giá thơ CLV hay nhất là phần “Di Cảo”, phần mà dư luận mất dạy đã cho là CLV đã sám hối, phản tỉnh; tôi nghĩ thằng này tự cho mình “mắt trâu” nên cảm thụ, nhận thức về thơ ca đúng là như trâu thật; và khi đoạt được chức Chủ tịch HNV VN, nó chọn thằng Inrasara làm Chủ tịch Hội đồng Thơ, một thằng làm thơ vênh vang tự khoe mình là kẻ bất nhân khi đã “tặng cho hoa hậu lớp Msa một bụng rồi bỏ đi mất tăm… mười năm chờ hết nổi nàng chửi gió đợi nó cho mệt cái lồn vụt cưới chồng Hamu Crok”, thì Nguyễn Quang Thiều đúng là có óc trâu thật!
Còn với tôi, cái hay, cái giá trị của thơ ca CLV là vĩnh cửu, như giới lý luận văn chương thường nói là đã đạt được tầm kinh điển, cổ điển (như bóng đá nói trận đấu kinh điển), không phải cái giá trị kiểu thời trang, “bắt trend” như trong âm nhạc lớp trẻ hết thích Sơn Tùng chạy sang thích Đen Vâu. Vì vậy, thơ CLV hay nhất chính là thơ khi ông làm ở giai đoạn sung sức nhất của tư duy, khi ông làm thơ về Tổ quốc, về nhân dân, về cách mạng, về Đảng, về Bác Hồ.
Như vậy, chuyện bạn Văn Tùng phản ứng GS Trần Đình Sử, chủ biên SGK Văn 12, ca ngợi văn của bọn phản động, rồi coi Gia Long là vua vĩ đại nhất, thì thơ như của CLV còn có trong SGK không? Tôi không đọc SGK vì tôi quá nhạy cảm, rất dị ứng với những sai trái dốt nát, e ngại chúng lại nhiều như cỏ dại, như cát sa mạc thì tôi sẽ không chịu nổi.
Lĩnh vực Lý luận phê bình Văn học thời kháng chiến phục vụ công tác tuyên truyền, nên những đặc tính văn chương có giá trị được cổ vũ, ca ngợi là khi văn chương ca ngợi Đảng, Bác, cách mạng, kháng chiến; căm thù Đế quốc Mỹ, Nguỵ quân, Nguỵ quyền… Điều đó rất đúng, rất có ích, nhưng trong hoà bình thì thẩm định văn chương như vậy còn thiếu, nghĩa là cần phải đổi mới. Thẩm định văn chương cần phải chú ý tất cả những thuộc tính của văn chương, ngoài nội dung cần phải chú ý những tinh tuý, cao sâu, sự độc đáo, sự sáng tạo, những gì thuộc về phong cách, bút pháp, thi pháp. Tiếc là “bọn” học giả hàng đầu như Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình Sử, v.v…, rồi lớp học trò như Nguyễn Đăng Điệp, Phạm Xuân Nguyên, Văn Giá, v.v… , ở viện Văn học và các trường đại học, đã không làm được, không thể đổi mới theo chính đạo mà là theo tà đạo, lộn ngược cả hệ giá trị về chân, thiện, mỹ. Bọn chúng chính là một lực lượng nguy hiểm của "diễn biến hoà bình", vì những tham vọng và ảo tưởng cá nhân muốn VN trở thành tay sai Mỹ, hậu hoạ có thể sẽ như Ukraina hôm nay.
Hôm nay tôi sẽ đăng lại bài viết về thơ Chế Lan Viên, có thể là hình mẫu về sự đổi mới Lý luận Phê bình, viết rất sâu về nghề nhưng lại không mô phạm, khuôn mẫu mà được lồng vào trong một câu chuyện như chân dung văn học, chan chứa tình người, tình văn chương, và đó cũng chính là cách đổi mới của Nhà Lý luận Phê bình Văn học Đông La.
Xin giới thiệu một vài bút tích của CLV và bài viết với các bạn, nhất là các bạn mới chưa đọc bài này.
22-5-2023
ĐÔNG LA
CHẾ LAN VIÊN TRONG HỒI QUANG CỦA KÝ ỨC
Đây là bài tôi viết (1997) sau cái chết của nhà thơ lớn Chế Lan Viên 8 năm (1989), người mà định mệnh đã ưu ái cho tôi được gần cận ông mấy năm cuối đời, chứng kiến toàn bộ “cuộc ra đi” về cõi vĩnh hằng của ông. Trong xưng hô, tôi gọi ông là “chú” xưng cháu, còn ông như để bình đẳng, có thể ông cũng muốn mình trẻ, nên thường xưng “tôi”, gọi tôi là “ông”, không bao giờ ông “mày, tao”. Còn anh Thái Thăng Long hơn tôi 5 tuổi thì luôn “mày, tao” hoặc “cậu, tớ” với tôi vì anh em từng ở chung khu tập thể, thân tình như người trong nhà. Bài của tôi đã được in trong cuốn “Biên độ của trí tưởng tượng”. Gần đây, cập nhật những thông tin mới về ông, tôi có viết thêm ít dòng, những mong góp phần làm sáng rõ thêm chút nào đó về một tài năng và nhân cách lớn của nền văn chương hiện đại Việt Nam – Đông La.
Vào một buổi sáng cách đây tám năm, khi đến thăm nhà thơ Chế Lan Viên, tôi thấy ông mừng như chưa bao giờ mừng như thế. Ông nói với tôi:
- Hú vía, cứ tưởng bị bệnh gì nặng lắm nào ngờ bác sĩ ở Bệnh viện Thống Nhất lại hỏi mình đã tẩy giun chưa?
Ông cười thật khoái chí. Ông mới đi khám bệnh hôm trước. Nhưng rồi cả ông, cả gia đình, và tôi cũng không ngờ rằng, đó chính là niềm vui trọn vẹn cuối cùng của ông ở cõi đời này. Bởi sau đó sẽ lại là bệnh viện, là tràn ngập thất vọng xen lẫn những hy vọng mong manh; sẽ là mổ xẻ, là di căn; rồi cuối cùng ông đã đi về “xứ không mầu”, về “Bầu trời khác cũng đầy hoa”…
Ông không bị bệnh đơn giản như thế. Sau đó vài ngày, tôi đã cầm thư tay của ông đến văn phòng Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh xin giấy giới thiệu để ông đi an dưỡng tại Bệnh viện Chợ Rẫy, nơi có Bác sĩ Dinh, chồng nhà thơ Anh Thơ, bạn ông. Lúc tôi đi, ông còn nói với theo: “Ông nhớ nói nó ghi tôi chuyên viên 8 nhé”. Và rồi chính ở Bệnh viện Chợ Rẫy, người ta đã phát hiện ra khối u ác trong phổi ông.
Thoắt cái đã tám năm trôi qua rồi. Thân thể ông đã biến thành một bọc tro than rải xuống sông Sài Gòn và một bình tro xương đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm. Nhưng tinh thần ông, tư tưởng ông, thơ ca ông thì vẫn vẹn nguyên, vẫn sống động như thuở nào.
Như một quà tặng của số mệnh, với khoảng cách 35 năm tuổi và đỉnh cao của một tên tuổi lừng danh, tôi đâu có ngờ, sau khi đọc chùm thơ mà tôi dự thi ở cuộc thi thơ của Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh năm 1986, ông đã dành cho tôi một tình cảm đặc biệt. Hôm đó, tôi đã nhờ cô Thường (Nhà Văn Vũ Thị Thường, vợ ông) đưa thơ của tôi cho ông coi. Bà nói với ông:
-Anh Hoan (tên ông) ơi, cậu này cũng có làm thơ, cậu ấy có chùm dự thi đây này, anh coi giúp xem.
- Ông (ông thường gọi tôi vậy, còn tôi gọi ông là “chú” xưng “cháu”) cũng có làm thơ à? - Rồi sau khi đọc xong, ông reo lên - Ô, ông làm được đấy, ông sẽ được giải đấy!
Tôi ngạc nhiên đến độ không còn biết đến vui mừng nữa vì không hiểu “được giải” nghĩa là thế nào? Sao ông lại cho giải ngay tại nhà ông? Rồi ông tiếp: “Tôi có thể cho ông giải cao nhất cũng được, nhưng ông chưa có lực khéo người ta giết ông đấy! Thôi, tôi cho ông đứng đầu giải ba!”. Ông nói xong, tôi còn ngạc nhiên hơn khi thấy ông vào trong buồng, bê ra một chồng vở khổ lớn ra khoe với tôi một cách hồn nhiên như khoe một người bạn tâm giao vậy:
- Ông biết tôi làm thơ như thế nào không? Khi nào nghĩ ra được một câu hay tôi chép vào quyển đầu này, khi nào có tứ sẽ phác thảo vào cuốn thứ hai, tôi đánh mục lục đàng hoàng để hoàn thiện dần, viết vào cuốn thứ ba.
Với tôi, một người mới tập tẹ làm thơ lại được chính Chế Lan Viên khen, còn cho giải nữa thì không thể là chuyện bình thường được. Tuy nhiên, đang là cán bộ nghiên cứu của một Viện Dược, tôi cũng không đến nỗi quá phởn chí bỏ hết các thứ để lao vào thơ ca, không dễ ngây ngô bỏ mồi bắt bóng. Nhưng quả thực tôi vẫn muốn được Chế Lan Viên xác nhận lại khả năng của mình một lần nữa để tôi còn “liệu” cho tương lai của mình, nhưng tôi ngại không dám hỏi. Phải đến lần thấy tôi mới in cuốn truyện thiếu nhi, ông nói với tôi:
- Ông nên có một chỗ sinh hoạt. Để tôi bảo Nguyễn Quang Sáng ghi tên vào Hội thành phố trước đã, - ngẫm nghĩ một lát ông tiếp - Thôi, bây giờ ông lên văn phòng xin một bộ hồ sơ rồi nói với anh Chim Trắng là tôi nhờ anh ấy cùng tôi đứng tên giới thiệu ông vào Hội.
Tôi quá ngạc nhiên và quá xúc động, quả thực đời tôi chưa có một người dưng nào lại quan tâm tới mình như thế, lúc ấy tôi cảm thấy ông như cha của mình vậy và nhanh trí thừa dịp hỏi luôn:
- Thế… cháu làm thơ có được không chú?
Ông cáu, nhưng sự phật ý này của ông đã mang lại đời tôi một trong những niềm vui lớn nhất, ông trả lời tôi hơi gắt:
- Ông tưởng tôi cho ông giải vì tình cảm riêng hở! Ông nên nhớ, trước ông đến nhà tôi đã có hàng vạn người rồi, nếu vì tình cảm mà cho giải thì bao nhiêu cho đủ?!
Từ đó, sau chính câu nói này của ông, tôi không còn băn khoăn đến điều mình có khả năng hay không nữa và xác định một thái độ nghiêm túc đối với việc viết lách, và noi gương ông, trước khi đặt bút viết, tôi phải tự trả lời được câu hỏi: “tại sao lại viết thế?”, nên đã tiếp cận sâu vào lý luận. Tôi có tham vọng muốn đến được tận cùng cái nguyên lý mà từ đó người ta đã xây nên những quan điểm về cái hay, cái đẹp, cái giá trị của tác phẩm nghệ thuật.
Tôi đã mở được cánh cửa đến với “Không gian Chế Lan Viên” là như thế. Từ đó tôi đã thành người thân của gia đình, được nghe ông nói nhiều về thơ, về những điều rất tinh tế, rất cao sâu. Ông không răn dạy mà thường chỉ bộc bạch, giãi bầy những suy tư trăn trở. Với những thành tựu đã đạt được, người khác chắc không ai đắn đo như ông: “Tôi đi giữa nét vằn và dáng ngựa/ Phối hợp hai cực hai đằng dễ đẻ ra văn”; ông cũng từng viết mà tôi chỉ nhớ ý: “Chỗ này sâu ư?/ Không phải, chỉ vì nước đục!/ Chỗ này nông ư?/ Không phải, vì nước trong nên ta nhìn thấy đáy./ Cái sâu cạn trong thơ là thế đấy!”. Ông cũng nói rất cụ thể với tôi:
- Thế nào là thơ hay? Thơ hay bắt đầu từ chữ hay, rồi đến câu hay, đoạn hay, toàn bài hay. Nhưng thế nào là hay? Cái hay là sự sáng tạo ra cái mới lạ, cái độc đáo, là ở độ khó để làm ra chúng. Nhưng tất cả những cái đó lại phải có ý nghĩa, có giá trị.
Rồi ông đọc hai câu ca dao: “Tay trồng cây cửu lý hương/ Ba năm hai lá người thương dịt đầu”. Ông bảo phải trồng đến ba năm mới được hai lá để dành cho người thương quả là kỳ công thật, đúng là yêu nhau thật!
***
Giờ ngồi nhớ lại mối quan hệ với một nhà thơ lớn mà cứ như nhớ về một giấc mơ, một câu chuyện cổ tích. Sau khi đề nghị trao giải cho tôi, giới thiệu tôi vào Hội, ông còn đến báo Văn nghệ TP Hồ Chí Minh gởi gắm tôi, rồi còn xin cho tôi đi làm ở một tờ báo… Quả thật, ông đã quan tâm đến tôi như sự quan tâm của một người cha.
Hồi nhỏ, tôi vốn học khá những môn tự nhiên, luôn có ước mơ trở thành một nhà phát minh, nên thần tượng không phải là những nhà văn nhà thơ mà là những nhà bác học trán dồ và râu dài. Tôi không một mảy may quan tâm đến văn chương. Thế mà không hiểu sao tôi lại nhớ thơ Chế Lan Viên. Năm 1974, năm đầu vào chiến trường, một đêm dưới mái lá trung quân, tòng teng trên cánh võng, trong tiếng rì rầm của sóng sông Đồng Nai vỗ nhẹ vào bờ đá, tôi đã hứng chí đọc bài “Người đi tìm hình của nước” của ông, mà tôi được học trong sách giáo khoa, cho đồng đội nghe với một sự đắc ý về sự hiểu biết của mình. Bài thơ của Chế Lan Viên có thể xếp vào hàng những tác phẩm hay nhất viết về Bác Hồ.
Nhà thơ Anh Thơ một lần đã tặng tôi một tuyển tập thơ, trong đó tôi lại rất thích những bài: Con cò; Tình ca ban mai; Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể của Chế Lan Viên. Thế là lần thứ hai, từ sự hồn nhiên, tôi đã yêu mến thơ ông. Riêng bài Con cò, khi quen ông, tôi còn dám bình trước ông nữa, không sợ gì chuyện múa rìu qua mắt thợ cả:
- Cháu rất thích hai câu: “Con ngủ yên thì cò cũng ngủ/ Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi”. Lấy cánh cò thực đắp cho đứa bé đã là lạ rồi. Còn cánh cò ở đây lại ở tận trong lời ru cơ!
Nghe xong, ông có vẻ xúc động, ông bảo:
- Con Thắm đấy, con Thắm đấy!
Với bài Con cò, ông đã thể hiện được một phần quan trọng trong đời sống tình cảm của mình. Bên cạnh những mối quan tâm lớn lao đến thi ca, đến mọi mặt cuộc sống, ông luôn có đam mê chăm sóc con cái bằng những việc li ti thường nhật. Còn hai bài: Tình ca ban mai và Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể, tôi thấy là hai bài điển hình cho hai phong cách ngôn ngữ của thơ ông: ngôn ngữ có yếu tố tượng trưng và ngôn ngữ có yếu tố siêu thực.
***
Lối tư duy bằng hình tượng, diễn tả ý tưởng bằng những hình ảnh tượng trưng là một thao tác được ông dùng thường xuyên. Khác với nhiều tác giả khác làm thơ tình, thơ lãng mạn, với sự giãi bầy, thổ lộ, kể lể, tán dụng… quá chi li cụ thể, gây cho người đọc thông minh một sự ngán do cái rõ ràng thừa mứa. Tình ca ban mai không thế. Chế Lan Viên đã để chừa một khoảng im lặng cho độc giả tự xúc cảm. Bài thơ đã được thiết kế một bộ khung thơ lãng mạn, các yếu tố tượng trưng được đính lên đó để thể hiện những ý tưởng, cảm xúc. Như vậy nó không lãnh đạm như tượng trưng của chủ nghĩa Tượng trưng, người đọc phải xúc cảm thông qua những ám thị trước những hình ảnh, mà tình cảm đã chan hòa ở tất cả các dòng thơ. Thế nhưng ý tứ cụ thể thế nào thì ông diễn tả theo đúng như Mallarmé, một trong những ông tổ của thơ Tượng trưng, từng nói: “Từng bước gọi ra một vật thể, và như thế phơi bầy một tình cảm”. Tất cả những sự chia ly, gặp gỡ, nỗi buồn, niềm vui… đều được ông thể hiện bằng những hình ảnh chiều đi, chim vườn, mai về, rừng non, trời trưa, nắng sáng…
Em đi như chiều đi
Gọi chim vườn bay hết
Em về tựa mai về
Rừng non xanh lộc biếc…
Ta thử phân tích một câu đầu. Ở đây sự xa cách, nỗi buồn đã được thể hiện bằng hình ảnh chiều đi. Chiều đi là hoàng hôn về, rồi đêm xuống, tắt nắng, vắng lặng, rồi buồn, rồi cô đơn… Như vậy, từ hình ảnh gốc, nếu sử dụng đắc địa, phù hợp, nó sẽ có khả năng gợi mở, tạo ra một chuỗi những liên tưởng, giống như sự bắn phá của hạt nơtron sơ cấp vào một hạt nhân, sẽ tạo ra vô vàn hạt thứ cấp và các mảnh vỡ, dẫn đến hình thành một năng lượng khổng lồ. Có lẽ, sự thưởng thức, rung động trước một tác phẩm thi ca cũng từa tựa như thế.
Về yếu tố siêu thực trong thơ Chế Lan Viên, còn rất ít sự phân tích. Việc nhận dạng tính siêu thực trong hội họa, trong văn chương cũng đã nói nhiều, nhưng còn mù mờ và mâu thuẫn nhau, kể cả những nhân vật có tiếng tăm. Người thì cho siêu thực là cao siêu, người thì cho là mờ ảo… Thực ra siêu thực là một quan niệm sáng tác, có cơ sở lý luận riêng, đã trở thành một chủ nghĩa trong văn học nghệ thuật, đặc biệt là trong Hội họa và Thơ ca. Riêng Chế Lan Viên đã sớm viết về nó. Ông từng viết: “Siêu thực là gì: là romantisme jusq’au bout (lãng mạn đến tột cùng)… Người Trung Quốc gọi là kỳ, tân là mới thì chưa đủ, sau tân còn phải kỳ (lạ) nữa…”. Khi bàn về cái lạ của ngôn ngữ thơ ca, ông từng trích những câu: “Mái nhà dài như một tiếng chiêng” (Trường ca Đam San); rồi “Anh về mua lụa bọc trời” (Ca dao);…
Như vậy, tính siêu thực của ngôn ngữ thơ ca chính là tính bất thường khi thể hiện những sự vật, hiện tượng bình thường, với một sự tưởng tượng, liên tưởng cao nhất, để thấy một hiện thực khác trong tâm tưởng, nó phong phú, kỳ lạ, ấn tượng hơn với những ví von, ghán ghép đầy bất ngờ, tạo ra những chiều kích, hình dạng và những tính chất khác mà bản thân hiện thực tĩnh không có.
Chế Lan Viên không chấp nhận và không làm thơ siêu thực thuần túy, ông không chấp nhận quan điểm thơ “đứng ngoài mọi thiên kiến thẩm mỹ hay đạo đức” của Chủ nghĩa Siêu thực; không chấp nhận thơ ca quá xa lạ với bản năng thích cái hay, cái đẹp hồn nhiên của con người. Thơ ông không có những hình ảnh siêu thực kỳ dị theo đúng tính chất ngẫu nhiên, sự gán ghép kỳ lạ của nó: “Đẹp như một cuộc gặp tình cờ của một cái máy may với một cây dù trên bàn mổ” (Lautréamont); hay như Breton mô tả hình dáng người đàn bà vừa như đồng hồ cát lại như con rái cá: “Vợ tôi… có vóc hình của đồng hồ cát… có vóc hình con rái cá trong hàm răng con hổ” (Tự do kết hợp - Quỳnh Thư Hiên dịch). Ông chỉ chấp nhận tính kỳ lạ trong thơ mà hình như ông là người đầu tiên gọi là “yếu tố siêu thực” bởi ít nhiều nó có nét tương đồng. Ông coi nó như một chuyện tất nhiên trong sáng tạo, như một phần rượu trong một bữa cơm, là cách để “tăng năng suất ý”. Ông viết bài Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể:
Cái rét đầu mùa anh rét xa em
Đêm dài lạnh chăn chia làm hai nửa
Một đắp cho em ở vùng sóng bể
Một đắp cho mình ở phía không em.
Đây là bài thơ đã gây cho tôi một ấn tượng rất mạnh. Chính tính bất thường của ngôn ngữ đã gây ra cái ấn tượng ấy. Chỉ một tấm chăn thôi mà đã đắp cho mình rồi còn đắp được cho người yêu tận nơi chân trời góc bể nữa. Cũng lạ như thế, hai câu trong bài Con cò mà tôi đã nói:
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi
Khi viết về Côn Sơn, ông đã thấy mùi hoa đại thơm từ tận thời của Nguyễn Trãi:
Côn Sơn thơm mùi hoa đại
Thơm từ thời Nguyễn Trãi đến thời ta
Và khi đến với thiên nhiên, ông cũng nhận ra được một tính chất khác, một khả năng khác của nó:
Mỗi lần đau anh lại đến Tây Hồ
Chữa lành anh là bông súng tím
Trong tập Điêu tàn mà ông viết từ thuở thiếu thời, tôi không chú ý lắm đến những đầu lâu, xương cốt, tháp Chàm lở lói… bởi chúng là những cái lạ lồ lộ, ai cũng thấy. Tôi lại chú ý đến những câu ông có cách diễn đạt lạ nhiều hơn:
Ta cùng nàng nhìn nhau không tiếng nói
Sợ lời than lay đổ cả đêm thâu
Một động tác (lời than) lại có thể lay đổ được cả thời gian (đêm thâu). Lạ lùng biết bao nhưng cũng có lý biết bao! Khi người ta quá yêu nhau, đòi hỏi một sự hoàn thiện; khi trái tim quá nhạy cảm thì chỉ cần một dấu vết của sự không hoàn thiện thôi cũng có thể dẫn đến sự đổ vỡ, một lời than có thể làm hỏng mất cả cái đêm yêu đương huyền diệu kia. Đọc những câu thơ của ông, ta thấy được cái im lặng vô cùng của không gian, nhưng lại là cái im lặng trước một cơn bão, trước cái khoảnh khắc mà những dòng nham thạch của ngọn núi lửa đang lịm ngủ, chuẩn bị trào sôi!
***
Thế đó, tôi đã yêu thơ Chế Lan Viên từ khi chưa có mảy may nào bận tâm về văn chương, chưa từng biết mặt ông. Có lẽ vì người ta thường đồng cảm với những gì gần gũi với mình. Sau này làm thơ rồi khi xem kỹ thơ mình, tôi ngạc nhiên thấy mình cũng có khá nhiều câu thơ ngồ ngộ, ví dụ như: “Anh xa em gần nửa vòng trái đất/ Nỗi nhớ cũng cong theo dáng Địa cầu”; rồi: “Con lại đến với ngôi trường sơ tán/ bốn bờ tường như bốn ụ đất lom khom/ Cô vá lại cho con cái ước mơ rách nát”… Khi cầm bút viết phê bình, tôi nhận ra những câu thơ lạ đó không phải là độc quyền của riêng ai mà chúng chính là sản phẩm của trí tưởng tượng, tức “hồn thơ” của mỗi thi sĩ. Chính trí tưởng tượng của nhà thơ đã tạo ra sự lạ hóa cách thức biểu đạt, từ đó mới tạo ra được những sắc thái biểu cảm mới, Lưu Quang Vũ tả mái tóc người yêu: “Tóc em dài như một ngày mỏi mệt”; và Phùng Khắc Bắc: “Con số 8 như vòng tròn vặn mình/ Giống như người đang quay ngoái lại”…
Từ khi được quen thân với Chế Lan Viên, tôi đọc ông kỹ hơn, những tác phẩm chính tay ông đề tặng, gia đình ông đề tặng, và tôi cũng tự đi tìm kiếm, tôi đã đồng cảm với ông rất nhiều. Tôi nhớ một lần ông nói: “Tôi muốn làm được loại thơ có thể đọc được từ trên xuống, cũng có thể đọc được từ dưới lên”. Tôi nhận thấy thơ ông gần như đã bao trùm hết cả. Từ những ngõ ngách, tầng cao, tầng thấp của cuộc sống tinh thần con người, đến những mối liên hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, giữa con người với tự nhiên. Và ông quan tâm nhiều đến sứ mệnh của thơ; ông làm nhiều thơ về thơ, muốn khám phá cái cơ sở triết lý hình thành nên thơ ca và sự tồn tại của nó theo thời gian.
Cùng là những người yêu thơ ông, nhưng người ta yêu cũng khác nhau, người thích bài này, người thích bài kia; người đánh giá giai đoạn này cao hơn giai đoạn kia… Còn tôi, giống như số đông, tôi thích tập Ánh sáng và phù sa. Có giai đoạn thơ ông nghiêng về tính chính luận, tính thời sự; giai đoạn cuối (phần di cảo) thơ ông nghiêng nhiều hơn về tính suy tư, về cái tôi. Ánh sáng và Phù sa đã hòa quyện tất cả những gì ông có. Nó có tất cả vẻ đẹp của thơ. Ông đã viết nên nó ở giai đoạn chín nhất, sung sức nhất của khả năng tư duy (khi ông 35- 40 tuổi). Ở đấy sự thông minh đã hòa tan vào tình cảm; mỗi trang thơ đều thấm đẫm cảnh sắc của thiên nhiên nguyên thủy, có hổn hển hơi thở ấm áp và nhịp đập rạo rực của cuộc sống. Ở đó có những bài thơ rất nổi tiếng, là những bài thơ tiêu biểu cho cả một giai đoạn văn chương: Người đi tìm hình của nước; Tiếng hát con tàu; Giữa tết trồng cây; Tình ca ban mai… Có những câu thơ được thuộc nằm lòng trong các thế hệ độc giả:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương
(Tiếng hát con tàu)
Nếu ai đã từng xa Tổ quốc, thấy mình thành dân thiểu số ở xứ người, khi cái tôi bị nhấn chìm trong sự xa lạ, sẽ rất thấm thía câu thơ của ông:
Tổ quốc thân yêu như quả tim thầm
Ở giữa lòng ta nào ta có biết
Trong xa cách bỗng à ơi giọng Việt
Ru lòng tôi qua ngàn dặm quê xuân
(Ý nghĩ mùa xuân)
Còn đây là tình cảm của ông đối với Đảng - Người đã thay đổi toàn bộ cuộc đời ông; từ một chú bé chỉ thấy những điêu tàn đổ vỡ, đến mùa xuân cũng chẳng thiết: “Tôi có chờ đâu có đợi đâu/ Đem chi xuân lại gợi thêm sầu/ Với tôi tất cả như vô nghĩa/ Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau” (Xuân), lại trở thành một chiến sĩ cách mạng, đầm mình trong gian khổ, rồi làm thơ yêu đến rưng rưng từng gốc cây, ngọn cỏ:
Ngày vào Đảng đất trời như đổi khác
Những vật vô tri cũng làm rưng rưng nước mắt
Đá sỏi, cây cằn sao bỗng thấy thiêng liêng
(Kết nạp Đảng trên quê mẹ)
Còn đây là những câu thơ tả cảnh tuyệt đẹp của ông:
Tôi muốn đến chỗ nước trời lẫn sắc
Nơi bốn mùa đã hóa thành thu
Nơi đáy bể những rừng san hô vờ thức ngủ
Những rừng rong tóc xõa lược trăng cài (Cành phong lan bể)
Và đây là những câu thơ ông viết về tình yêu cuộc sống:
Cởi giày ra cho chân anh giẫm lên cỏ xanh non
Có phải đất này từ lúc nhân dân tôi làm chủ
Cái sống ngọt ngào trong từng ngọn cỏ
Một cành hoa cũng muốn giục môi hôn
(Tàu đến)
Quả thực, nếu ai chưa trải qua đắng cay, sẽ khó thấy hết ý nghĩa của ngọt bùi, Chế Lan Viên từng phải vượt qua những thách đố lớn của cuộc sống, những con đèo hiểm trở chắn ngang đường đời ông. Hiểu được cuộc đời lắm gian truân của ông, ta mới thấy tình yêu thơ ca của ông lớn biết bao nhiêu! Mới thấy hết cái nghị lực phi thường ở thi sĩ ấy:
Ta lấn từng nỗi đau như mùa chiêm lấn vành
đai trắng
Lấn bệnh tật mà đi, máu đỏ lấn da xanh
Rồi:
Tôi nhặt từng hạt vàng sức khỏe rơi đi
Như mẹ già nhặt hạt thóc vàng đã đổ
Nhặt từng hạt máu mặt trời vứt bỏ
Từng giọt thi tài rơi vãi dưới chân đi
***
Có một phần rất quan trọng làm nên tính cách Chế Lan Viên mà hồi đó trước ông, vì ở một thế hệ khác, tôi giống như một đứa con ngoan ít khi để ý những chuyện rắc rối của bậc cha mẹ, ngay cả khi ông dặn tôi câu sau mà tôi cũng không chú ý lắm: “Đi đâu ông đừng nói thân với tôi nhá, người ta sẽ ghét ông lắm đó!”. Khi biết tôi quen Chế Lan Viên, một số người từng biết ông giai đoạn trước bảo, ngày xưa còn quyền lực ông “ác” lắm; ông có lối đối đáp truy sát không cho người đối thoại “ngóc đầu dậy” được. Như chuyện một nhà thơ từng bị ông loại thơ thế nào ấy nói: “Anh cậy có quyền dìm tôi”; Chế Lan Viên trả lời ngay: “Anh có nổi bao giờ đâu mà tôi phải dìm!”. Tôi cũng được nghe một số người kể chuyện ông Phan Quang vào Hội Nhà văn; Ban Chấp hành họp xem có nên duyệt không, đợi ý Chế Lan Viên, nhưng ông còn bận đi đái, đái xong vào ông bảo: “Thằng Thép Mới còn được ở Ban Chấp Hành xét người ta thì thằng Phan Quang làm gì không được vào Hội!”. Chuyện này cũng có trong Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, đoạn viết về Nguyễn Khải; theo Nguyễn Khải: “Chế Lan Viên một thời dựa thế Tố Hữu cũng hách lắm… Họp Ban chấp hành ý Chế Lan Viên là quyết định… Không thể đối đáp kịp mồm Chế Lan Viên… Ai cũng gọi là thằng tuốt, thằng Nguyễn Đình Thi, thằng Tô Hoài”. Riêng chuyện gọi “thằng” này thì quả thực khi có ý giới thiệu tôi vào Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh, ông bảo: “Để tôi nói thằng Nguyễn Quang Sáng nó ghi tên vào Hội”, nhưng khi kể lại tôi đã sửa cho “mềm” đi. Cũng theo Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, Tô Hoài gọi Chế Lan Viên là “thằng nặc nô của Đảng”…
Tôi cho rằng những điều trên đây có thể có thật và đúng về Chế Lan Viên, ở gần ông, cũng có lần tôi chứng kiến ông cáu với người thân. Có điều, tất cả những “nết” vừa kể trên đây, tôi không cho là ghê ghớm, chúng không phải là những cái xấu, cái ác thực sự như cướp của, giết người, gian manh, đểu cáng, vu oan giá họa… mà chỉ là những cái tật thường tình của mỗi con người. Loài người từ trước tới nay có được mấy người toàn thiện, toàn mỹ? Trong một tính cách mãnh liệt của một tài năng lớn, cái “tài” thường kèm theo cái “tật”. Còn những tham vọng, những đấu đá, tranh đoạt của ông, nếu có cũng là sản phẩm tất yếu của một thời bao cấp, người ta chỉ có một con đuờng phấn đấu duy nhất là làm cán bộ, có ai nằm ngoài được cái vòng xoáy ấy đâu. Trong cuộc tranh đoạt ấy, tất có người thành công, kẻ thất bại; và người thành công sẽ hể hả, còn người thất bại sẽ cay cú. Có nhiều sự cay cú, bản chất là tầm thường, nhưng sau này lại được sơn phết một cách có chủ ý một lớp sơn sang trọng là: đấu tranh cho dân chủ và tiến bộ. Còn Chế Lan Viên, có thể nói ông thuộc phe thành công, nhưng tôi thấy với tài năng của ông, ông hoàn toàn xứng đáng có được những vị trí đã có, thậm chí còn phải cao hơn nhiều nữa, vì thực tế sau ông có những người tài còn kém ông xa, đã leo lên được những chức cao hơn ông rất nhiều!
Cuộc đời ai cũng có mặt tốt mặt xấu, Chế Lan Viên cũng vậy, nhưng những thành tựu ông đạt được trong văn chương đủ sức trùm lấp lên những điều vặt vãnh. Thật tiếc là ở ta đã xuất hiện một số cuốn hồi ký viết theo phương pháp “ngồi lê đôi mách”, mà chủ nhân của những câu chuyện chỉ dám nói nhỏ với những người “cùng giuộc”, chứ có cho “ăn kẹo” cũng không dám viết công khai. Vậy mà đã có những người mang danh nhà văn, giáo sư văn học này nọ, chỉ tách riêng những nét không hay dựng lên chân dung những nhân vật tên tuổi, trong đó có Chế Lan Viên. Việc lấy toàn những chuyện người ta tếu táo với nhau lúc trà dư tửu hậu, những lời nhận xét chê bai nhau đầy cảm tính ích kỷ, đầy thành kiến méo mó, đầy đố kỵ nhỏ nhen… thành tác phẩm để đời, thật là một hành động phi khoa học và vô văn hóa!
Còn được gần Chế Lan Viên, tôi thực sự ngạc nhiên khi nhận thấy ở ông có một tấm lòng nhân hậu đến hồn nhiên. Ông bảo vì quý Yến Lan nên ông đã đặt bút danh mình có chữ Lan. Là một nhà thơ lớn nhưng ông không khụng khiệng kiểu cách mà giản dị như những người bình thường, ông làm tất cả các việc vặt, từ đun nước tắm cho con, tưới cây, cho gà, cho lợn ăn, đào ao thả cá… Đặc biệt ông rất chung thủy, yêu thương và lo cho sự nghiệp của bạn bè, ông lo viết tựa giới thiệu thơ cho người này người nọ (hồi tôi gặp, ông viết cho Hàn Mặc Tử, Hoàng Trung Thông và Trần Nhật Thu…). Ông lo in tuyển tập cho người bạn thơ ông rất quý là Hàn Mặc Tử, chính tôi đã chở ông bằng xe đạp đến nhà thi sĩ Mộng Tuyết ở đường Nguyễn Trọng Tuyển, Tân Bình để chép tập Gái quê đưa vào tuyển tập. Hôm ấy ngồi chép, tôi rất cảm động khi nhìn Mộng Tuyết và Chế Lan Viên ngồi uống trà đàm đạo, để được vậy, tình bạn thơ của họ đã vượt qua cả một khoảng thời gian mấy chục năm và qua cả một cuộc chiến đầy máu lửa. Ông cũng là người rất trân trọng người viết trẻ, những cái mới. Hồi ấy ông quý tôi và anh Nguyễn Thái Sơn về thơ, ông quý Nhật Chiêu dịch thơ Hai-cu Nhật, quý người bạn cũ là Khổng Đức dịch Từ Tống và những người khác mà tôi không biết.
***
Một điều nữa về Chế Lan Viên cũng cần phải nói đến, đó là gần đây những người chống chế độ đã nhân việc Chế Lan Viên làm mấy bài: Bánh vẽ; Trừ đi; Ai? Tôi? đã cho ông là sám hối, quay lại chống Đảng, chống Nhà nước. Thơ ca vốn đa nghĩa, nhất là thơ của một trí tuệ cỡ Chế Lan Viên, lại viết bằng ngôn ngữ tượng trưng, không nói cụ thể điều gì mà chỉ gợi. Nên việc lái ý thơ Chế Lan Viên thành chống đối không khó. Có điều, việc làm trên đã không chỉ hạ thấp nhân cách mà còn hạ thấp cả văn chương Chế Lan Viên. Bởi một thi sĩ lớn như ông nói riêng và những nhà sáng tác chân chính nói chung, người ta viết vì một sứ mệnh lớn lao mang tính nhân bản, nhân văn và vì sự tiến bộ của loài người nói chung, chứ đâu có lại biến tác phẩm của mình thành thứ công cụ xỏ xiên tầm thường! Có kẻ, ở ngay “phe ta”, còn định đôn cô con gái cưng của ông, nhà văn Vàng Anh, thành “ngọn cờ đổi mới”, chống lại chính ông nữa. Riêng tôi, đọc những bài thơ “chống đối” trên, lại thấy yêu mến ông trọn vẹn hơn, thấy ông đúng là một thi sĩ chân chính, đã không viết một chiều, không tô son trát phấn cho những sai trái, những mục ruỗng mà cuộc sống của con người, vì không phải là Thiên Đường, nên không thể không có. Ở đó vẫn còn có những lời nói chưa đi đôi với việc làm, có những tư duy mà ngôn từ chính trị đã tự phê là "duy ý chí " (Bánh vẽ) ; Ở đó vẫn còn có đây đó những người lính từng quên mình xông pha trong trận mạc trở về sau chiến tranh chưa được xã hội quan tâm đúng mức (Ai? Tôi?) ; và như một lời bộc bạch, ông đã tâm sự rằng có một thời, vì cái chung lớn lao hơn cả văn chương là sự thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến, thế hệ ông chưa thể viết được một cách trọn vẹn về cuộc sống (Trừ đi).
***
Nói chung về thơ Chế Lan Viên, mỗi giai đoạn ông đều có những bài đỉnh điểm. Ngoài những bài đã nhắc trong Ánh sáng và phù sa còn có Sao chiến thắng; Con cò; Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?; Ngày vĩ đại; Thần chiến thắng… và giai đoạn sau ông có Từ thế chi ca.
Nói đến cái chết của ông, trong tôi lại hiện về biết bao tình cảm. Những lời nói, những hình ảnh của ông trở thành những kỷ niệm không bao giờ quên. Ông thường bảo tôi đi dự những buổi ông nói chuyện, khi ở Trường Tổng hợp, khi ở Phát hành sách… Trong đêm thơ của ông ở nhà Văn hóa Phú Nhuận, khi Thúy Vinh ngâm xong bài Con cò, mọi người vỗ tay như sấm, ông nói nhỏ với tôi: “Thì ra mấy người nổi tiếng lại ngâm không hay bằng cô này”. Trong đám cưới Thắm, con gái ông, ông mời không nhiều, vậy mà ông cũng mời vợ chồng tôi; còn tôi thì coi như người nhà có nhiệm vụ khuân bia hơi từ ngoài đường vào nơi làm đám cưới ở Thư viện Thành phố Hồ Chí Minh. Một lần chở nhà thơ Anh Thơ lên thăm ông, thấy ông đang cởi trần bắt cá ở cái ao nhỏ sắp cạn trong vườn. Ông chỉ bắt được những con đã ngắc ngoải hoặc đã chết. Tôi liền xuống bắt cá cùng ông. Hai chú cháu một hồi bắt sạch cả ao cá…
Thế rồi sau cái buổi sáng ông đi an dưỡng ở Bệnh viện Chợ Rẫy đó, tôi đã đau đớn chứng kiến toàn bộ bao nỗi hy vọng thất vọng đan xen nhau, bóp nghẹt tim ông, làm âu lo và buốt đau bao trái tim những người thân yêu, những đồng nghiệp, và những độc giả. Tôi đã được chứng kiến giây phút người ta đưa ông ra khỏi phòng mổ, sau một một cuộc đại phẫu, ông nằm bất động, mặt sưng vù, nặng nhọc thở với phần phổi còn lại. Tôi cũng chứng kiến chứng di căn quái ác đã gặm mòn cơ thể, làm méo dần và cuối cùng làm mất hẳn tư duy ông. Câu cuối cùng tôi được nghe ông nói với tôi là về chuyện bắt cá: “Tôi vẫn nhớ tôi với ông cùng bắt cóc (ý ông nói bắt cá). Tôi đã làm cho ông một hũ mắm mà ông không lấy”. Khi ấy tôi đang làm chủ nhiệm đề tài chiết xuất thuốc chống ung thư, biết bệnh ông đã ở giai đoạn không thuốc nào chữa được, nhưng tôi vẫn lấy trộm một chai dịch chiết thuốc đưa cho cô Thường. Người ta còn mách cô cho ông uống phương thuốc bột than xác một loại rắn. Nhưng tất cả đều vô hiệu. Lần cuối cùng tôi chở anh Hoài Anh lên thăm ông. Lúc này, từ đỉnh cao thông minh, ông đã thành người vô thức. Ông ngồi, hai tay giơ trước mặt trong tư thế đọc báo ngày xưa. Vàng Anh nhét vào tay ông tờ báo. Ông ngơ ngác đọc theo phản xạ mà không đọc gì cả. Rồi đến một chiều, đang ăn cơm, tôi chợt thấy hình ông trên màn hình ti-vi, bát cơm trên tay tôi rơi xuống, tôi nói với vợ cái tin hệ trọng: “Chú Chế Lan Viên mất rồi!”. Trong ngày liệm, tôi vội vàng đến phòng tang lễ Bệnh viện Thống Nhất để nhìn mặt ông lần cuối. Khi người ta mang thi thể ông ra khỏi ngăn lạnh, tôi thấy mặt ông quắt lại như già đi cả ngàn tuổi. Người ta đã trải cho ông một tấm nệm rất dầy, rất êm bằng trà và bông gòn trong chiếc quan tài tốt. Ông nằm trong quan tài mà như nằm trong mây ở tận chín tầng trời. Nhìn ông, tôi bỗng nhớ đến hai câu thơ của Hàn Mặc Tử mà ông đã trích dẫn, mở đầu cho bài tựa mà ông đã viết:
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương anh nằm chết như trăng
Tôi chưa được thấy những câu thơ viết về cái chết lại đẹp đẽ sang trọng như thế bao giờ!
Lúc này tôi thấy những hạt nước đóng băng trên trán ông đã chảy ra trông như những giọt mồ hôi, những giọt mồ hôi của cả một đời lao lực. Để viết nên những câu thơ đẹp nhất, ông đã một đời tha hương, vượt qua nỗi buồn, qua máu lửa, qua gian khó, qua bệnh tật, qua những mối quan hệ lắm rắc rối của người đời. Tôi đã vĩnh biệt ông bằng cách lau đi trên trán ông những giọt lao lực ấy!
Trong lễ hỏa táng, tôi đứng trước cửa lò, bên phải là Thắm đang lom khom coi và kêu lên khi thấy lò bên cạnh rừng rực lửa. Còn bên này tôi cũng thấy ngọn lửa trùm lên quan tài ông. Tôi như thấy linh hồn ông bay lên theo ngọn lửa, vĩnh biệt cái cõi thế có lắm đam mê, lắm niềm vui, nhưng cũng nhiều đau khổ và cực nhọc này!
Bình Thạnh, 1998
Viết thêm, 31-12-2008