Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2024

TỔ QUỐC-NỬA BÀN CHÂN DÍNH BÙN VÀ MÁU

 TỔ QUỐC-NỬA BÀN CHÂN DÍNH BÙN VÀ MÁU

(Tặng thưởng thơ Tạp chí Văn nghệ Quân đội 1998)


Sau lễ viếng Cố TBT Nguyễn Phú Trọng dự tính bắt đầu từ 07 giờ 00 phút đến 22 giờ 00 phút ngày hôm qua, thực tế kéo dài đến 24 h, 25 tháng 7 năm 2024, và từ 07 giờ 00 phút đến 13 giờ 00 phút ngày hôm nay. Sau đó, Lễ truy điệu ông sẽ được tổ chức lúc 13 giờ 00 phút tại Nhà tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội; và Lễ an táng lúc 15 giờ 00 phút cùng ngày tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.
Tham ô, tham nhũng đã trở thành giặc nội xâm, đẩy chế độ đến “nguy cơ tồn vong” như lời ông nói, và chính ông như một chiến sĩ, với cương vị Tổng Tư Lệnh chỉ huy cuộc chiến, như ngày nào Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy Chiến dịch ĐBP và ở Tổng Hành Dinh chỉ huy cuộc Tổng tấn công nổi dậy đầu năm 1975, giải phóng Miền Nam, toàn thắng vào Ngày 30-4-1975.
Ngày mai cũng là ngày Thương binh Liệt sĩ, 27-7, tôi với tư cách một cựu chiến binh từng trực tiếp tham gia Chiến dịch HCM ở Cách quân Hướng Đông, xin đăng lại bài thơ dài “Tổ quốc-nửa bàn chân dính bùn và máu” để ca ngợi Lịch sử Đất nước, tưởng nhớ những đồng đội đã hy sinh, nó cũng như lời vĩnh biệt của tôi với “Tổng tư lệnh” Nguyễn Phú Trọng trong một mặt trận đặc biệt.
Bài thơ được Đại tá Nhà thơ Vương Trọng biên tập, đăng trên TC Văn nghệ Quân đội, sau đó, một lần vào TPHCM, anh đã tìm gặp tôi. Bài thơ được tặng thưởng năm 1998. Sau nhiều chục năm tôi đăng lại, vẫn có nhiều độc giả đồng cảm, đặc biệt, Bác sĩ Chiến sĩ Hoa Huynguyen còn cho là “bài thơ lớn nhất thế kỷ 20”. Nếu Nguyễn Quang Thiều làm bài thơ về các AHLS mong họ trở thành súc sinh, tức phạm tội ác theo Đạo Phật, thì bài thơ này tôi đã coi họ là ánh sáng, là hào quang, tức đã siêu thoát khi lập được công đức lớn lao.
Xin giới thiệu với các bạn bài thơ và những hình ảnh có liên quan.
Sáng 26-7-2024
ĐÔNG LA
TỔ QUỐC-NỬA BÀN CHÂN DÍNH BÙN VÀ MÁU
Tổ Quốc!
Có phải bão giông của thời gian hay của đất trời đã thổi cong cả dáng hình của mẹ?
Cái dải đất xanh mềm như dải lụa
Mà như thành đồng trước sóng gió đại dương
Một không gian bình yên êm mơ
Như chưa hề phải gồng mình trước những tai ương của lịch sử!
Việt Nam - Tổ Quốc tôi như thế!
***
Từ tuổi ấu thơ con đã biết đến Người qua từng trang sách
Vó ngựa quân thù như còn phả bụi vào bài vở của con
Lửa còn táp bỏng rộp từng con chữ
Còn vẳng tiếng gươm khua tiếng xương thịt đứt lìa
Có đất nước nào lại giặc giã nhiều đến thế!
Suốt mấy thiên kỷ dài được mấy khoảnh khắc bình yên?
***
Việt Nam - Đất Nước tôi!
Một đất nước đến những người từng là kẻ thù cũng đem lòng yêu mến
Sự thua trận của họ không trở thành nỗi nhục nhã đắng cay mà thành kỷ niệm không quên
Họ về lại chiến trường xưa như tìm kiếm quê hương
Chiến tranh đã trở thành bài học quý giá nhất
Một Đất Nước đã đồng nghĩa với Chiến Thắng
Và lòng NHÂN ÁI cũng thành tên!...
***
Mẹ ơi!
Mỗi khi nghĩ về Tổ Quốc con thường nghĩ về mẹ
Bởi Tổ Quốc của Chiến Thắng, của lòng Nhân Ái, cũng là Tổ Quốc của lòng bao dung, của cần cù nhẫn nại
Như bao bà mẹ nhiều hy sinh, nhiều khổ đau của đất nước này
Tổ Quốc mang dáng hình của mẹ
Mẹ là một phần Tổ Quốc của con đây!

Cảm ơn mẹ đã cho con cuộc sống
Một cuộc sống ở khoảng trời này, ở khoảnh khắc này
Để con có những trải nghiệm không nơi nào có được
Để con hiểu những điều không dễ gì hiểu được
***
Mẹ đã sinh ra con trong niềm vui của một ngày chiến thắng
Nhưng đất nước đã kiệt cùng sau bao giặc giã triền miên
Trong cây sào giẻ rách trĩu nặng lúc nào cũng có sẵn ở nhà ta
Mẹ lọc ra những mảnh lành lặn nhất
Mẹ ngồi khâu những mũi kim li ti như con kiến
Như khâu bằng sợi chỉ của nỗi nghèo khó và sự tằn tiện của mẹ
Mẹ bọc tuổi thơ con
Và con đã lớn lên

Con lớn lên bằng tương cà mắm muối, hạt lúa củ khoai
Trong đất bùn, trong nắng hạ mưa giông, trong những đêm hanh hao nứt nẻ đôi bàn chân của mẹ
Con không biết màu vàng của vàng, màu bạc của bạc, màu lấp lánh của hào quang phú quý
Nhưng con cũng không biết đến những gian manh, hiểm ác lọc lừa

Trong ngôi nhà phía trước toàn là cánh cửa
Mẹ không có của cải để cất giữ, chỉ cất giữ tình thương
Mà tình thương thì không cần ổ khóa
Bạn bè đã đến với con như về nhà mình
Tuổi thơ con trắng tinh như tờ giấy
Chỉ khí phách của ông, đức độ của cha, lòng yêu của mẹ được ghi khắc trong con
Chỉ những con chữ của thầy cô là tài sản duy nhất của con
Ôi mẹ kính yêu!
Đến nỗi nghèo khó của mẹ cũng trở thành một điều thiêng, một điều quý giá!
***
Mẹ ơi!
Mẹ còn nhớ một sáng mùa đông
Khi mười bảy tuổi rưỡi con đã xa mẹ
Trong mắt mẹ con còn là đứa trẻ
Con đã vào đời
Cuộc đời sóng gió
Cuộc đời bão giông
Bước chân bé nhỏ của con đã bước theo bước chân của Tổ Quốc
Con luôn thấy phía trước là biển phía sau lưng là mẹ
Mẹ là điểm tựa cho con

Khi con mười chín tuổi
Chiến thắng đã thấp thoáng hiện lên qua máu lửa mịt mù
Trong những đoàn quân trùng trùng điệp điệp
Có đứa con bé nhỏ của mẹ
Chúng con đã đánh một trận đánh, chưa bao giờ lớn thế!

Mẹ ơi!
Để đến được với Niềm Vui
Chúng con đã phải qua những cánh rừng bị băm nát bởi pháo bom
Đất chảy máu, rừng cao su chảy máu
Qua bao xác người bánh xe tăng nghiền nát
Qua bao bốt đồn khóa nghẹt những dòng sông!

Tình thương của mẹ đã che chở cho con
Khí thiêng sông núi đã che chở cho con
Máu của đồng đội đã che chở cho con
Hai mươi tuổi, trong ánh hào quang, con vẹn nguyên trở về với mẹ!
Một hạnh phúc lớn, không phải cuộc đời nào cũng được thế!
***
Thấm thoắt đã hơn hai mươi năm
Cứ ngỡ mình còn con trẻ
Cứ ngỡ mẹ không tuổi tám mươi!
Cứ ngỡ cha còn đâu đây!
Con đã thành một người đàn ông từ khi nào chẳng kịp để ý
Dòng sông cuộc đời đã cuốn con đi

Cuộc đời không còn chiến tranh nhưng chẳng phút bình yên
Cứ như không có bão tố cuộc đời không còn là cuộc đời nữa
Cuộc đời không chỉ có ánh sáng mà còn những khoảng tối
Có bao chuyện lẫn lộn vàng thau

Vẫn còn những kẻ nhân danh điều tốt đẹp làm việc xấu xa
Những kẻ gian manh lại được tôn vinh, thành đạt
Và đứa con của mẹ
Sao đường đời cũng lắm trắc trở tai ương
Đứa con thường được ngợi khen là tốt bụng, thông minh
Trong chiến tranh có những gian khổ hy sinh tưởng không thể vượt qua nhưng con đã vượt qua
Đến với tri thức con gặp những bài toán tưởng không sao giải nổi, con vẫn giải nổi
Thế mà con đã từng phải bật khóc
Từng bị dồn đến chân tường
Từng bị đốn ngã…

Nhưng con đã tự đứng dậy
Bởi trong con vẫn luôn cuộn chảy dòng máu của một người lính
Bởi phía sau con vẫn luôn có mẹ
Một bà mẹ như bao bà mẹ Việt Nam
Gần một thế kỷ nghèo đói, khổ đau vẫn không làm gì nổi!

Và rồi con đã hiểu!
Con chỉ tài tưởng tượng ra những điều đau khổ mà thôi
Bởi so với nỗi khổ đau của mẹ thì nỗi đau của con chẳng phải nỗi đau
Nỗi gian truân của con cũng không thể là gian truân được nữa
Trong hành trang vào đời của mình
Bao tài sản tinh thần quý giá mẹ đã trao cho con
Con đã để đâu mất lòng nhẫn nại của mẹ
Con đã đánh mất lòng bao dung của mẹ
Sự kiêu hãnh của con luôn xù ra như lông nhím
Con đã vấp phải chính lòng kiêu hãnh của mình
Con không biết thách thức của cuộc đời đâu chỉ là những con dốc
Mà cuộc đời còn là thác ghềnh
Để vượt qua thác ghềnh phải biết tan ra như nước!
***
Hôm nay
Theo ước nguyện của ông cha
Con đã đến với khu rừng tri thức
Con cũng hiểu chỉ có con đường như thế
Con mới đến được những mơ ước của mình
Con mới tìm được sự sang trọng bằng chính sự sang trọng
Con sẽ đạt được điều mình muốn bằng chính những điều thiện

Mẹ ơi!
Như bà nội còng lưng mót lúa thủơ nào
Con cặm cụi đi tìm những hạt giống của hạnh phúc
Nhưng con không gieo trên cánh đồng bao đời mồ hôi ướt đẫm
Mà gieo trong sự suy tư

Những hạt giống của con đã nảy mầm như nấm mọc sau mưa
Chúng đã lớn lên, đã kết trái đơm hoa, như trong phúc lành của gia đình, trong phúc lành của Tổ Quốc!
Có phải do có luật bù trừ được mất?
Nên cha đã phải tự làm mất mình đi để phần được tới được với con!

Chúng con đã sinh cho mẹ những đứa con
Những đứa cháu nội của mẹ
Những công dân của một thế kỷ mới
Chúng sẽ lớn lên không biết đến đói nghèo

Rồi con sẽ xây một ngôi nhà như tòa lâu đài
Dưới vòm trời thanh bình của Đất Nước
Chúng sẽ mơ những giấc mơ
Những giấc mơ của hoàng tử, công chúa
Nhưng không có con đường của cổ tích
Chỉ có con đường của tri thức
Con đường của Ánh Sáng
Nơi chúng sẽ đến được với cả thế giới, với cả trời sao!
***
Mẹ ơi!
Mẹ hãy vào chơi với con
Mẹ đừng ngại tuổi già đường xa
Không còn đâu những con tầu chật ních người, chật ních cau tươi cau khô, chật ních những xoong nồi, thúng mủng
Chúng đã chạy rất xa về phía sau lưng và không tìm thấy đường về!

Con sẽ mời mẹ đi máy bay
Xin mẹ đừng có ngại ngần vì đôi bàn chân gần một thế kỷ lấm láp trong phân gio bùn đất
Mẹ hãy cứ kiêu hãnh dẫm lên những bậc cầu thang sáng loáng, dẫm lên những tấm thảm trải sàn sang trọng
Mẹ sẽ bay lên tận cái khoảng không mà cả đời mẹ vẫn tưởng chỉ giành riêng cho thiên thần, tiên nữ
Rồi mẹ cũng sẽ được gặp chính những nàng tiên
Nhưng là tiên thực chứ chẳng phải tiên mơ
Họ sẽ rất dịu dàng mang cơm, nước mời mẹ

Mẹ hãy nhìn ra ngoài ô cửa sổ
Mẹ có thấy gì trong những dải mây trắng muốt kia không?
Mẹ có thấy linh hồn của anh con, của đồng đội con đang quây quần bên mẹ?
Bởi máu của họ không chỉ làm xanh núi, xanh đồng mà đã cháy thành ánh sáng
Thành ánh hào quang chảy tràn qua Giao thừa Thiên niên Kỷ
Chảy tràn trên hành trình của Đất Nước
Đất nước của các vua Hùng, của các triều đại Đinh, Lý, Trần, Lê
Đất nước của thời đại Hồ Chí Minh tiếp nối mấy ngàn năm
Thế hệ chúng con cũng bước theo bước chân của Tổ Quốc
Nửa bàn chân đã dính bùn và máu
Nửa bàn chân ngập tràn ánh sáng hôm nay !
Phú Nhuận
8-3-1998
ĐÔNG LA







Thứ Tư, 24 tháng 7, 2024

MẶC AI ĐẶT ĐÓ KÊ ĐƠM

 MẶC AI ĐẶT ĐÓ KÊ ĐƠM

Trên mạng đang lan truyền bài thơ của Luật sư Nhà thơ Nguyễn Minh Tâm diễn tả lời tâm sự của Cố TBT Nguyễn Phú Trọng với vợ khi linh cảm mình sắp lìa xa bà, tôi nghe và xem mà không cầm được nước mắt. Đặc biệt, có hai câu “Mặc ai đặt đó kê đơm/ Lòng mình trong sáng thì cơn cớ gì” diễn tả miệng lưỡi của những kẻ xấu nói về ông. Thực tế không chỉ có những kẻ “đơm đặt” chuyện cá nhân ông, mà nhiều hơn, những kẻ được coi là trí thức đã phê phán, công kích ông trên cương vị đứng đầu thể chế như Mạc Văn Trang tôi vừa viết, họ cho ông là bảo thủ, lạc hậu, là “lú lẫn” khi kiên trì theo CN Mác-Lê Nin.
***
Một lần, khoảng 10 năm trước, bạn Võ Khánh Linh đã nhắn tin cho tôi: “Bác xem vụ này chém phát cho vui” về bài viết của ông Tô Văn Trường viết về những điều mà ông ta cho các nhà lãnh đạo VN, trong đó TBT Nguyễn Phú Trọng, là bảo thủ, lạc hậu, sai trái. Hôm nay tôi trích lại mấy ý.
Tô Văn Trường là TS, Nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam, viết:
““Tôi buồn” vì sự thủ cựu, bảo thủ đến cực điểm của … không ít nhà lãnh đạo cao cấp hiện nay… “Thực tiễn là thước đo duy nhất đúng của chân lý”. Chỉ cần nhìn vào thực tế trên thế giới mấy chục năm qua thì sẽ thấy vì sao Tây Đức hơn Đông Đức, Đài Loan hơn Đại lục, Hàn Quốc hơn Bắc Triều Tiên…, vì sao Thành trì của CNXH là Liên Xô lại sụp đổ … Vì sao Việt nam tụt hậu thê thảm so với các nước".
Đây không chỉ là ý của Tô Văn Trường mà còn là ý của rất nhiều người hay ngoạc mồm chê bai chế độ, hô hào lật đổ. Trong Thư ngỏ gửi BCH Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng CSVN của các cựu quan chức, trí thức là đảng viên ĐCSVN:
Nguyễn Trọng Vĩnh, Thiếu tướng; Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ; Lê Duy Mật, Thiếu tướng, Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang 1979 – 1988; Vũ Quốc Tuấn, nguyên Trợ lý Thủ tướng Võ Văn Kiệt; Hoàng Tụy, Giáo sư Toán học; Nguyên Ngọc, Nhà văn, nguyên Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn Việt Nam; Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học; Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Hội Kinh tế Việt Nam; Nguyễn Trung, nguyên Đại sứ tại Thái Lan; Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, nguyên Bí thư Đảng Đoàn kiêm Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên – Huế; Bùi Đức Lại, nguyên Vụ trưởng, Ban Tổ chức trung ương Đảng, Hà Nội; Huỳnh Tấn Mẫm, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975; Lê Đăng Doanh, Tiến sĩ Kinh tế học, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ; Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội; Trần Đình Sử, Giáo sư Tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội; Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ; v.v…
Họ viết: “Từ nhiều năm nay, Đảng Cộng sản Việt Nam dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa Mác-Lênin”.
***
Về cái chuyện “vì sao Thành trì của CNXH là Liên Xô lại sụp đổ cái rụp! Vì sao Việt nam tụt hậu thê thảm so với các nước”.
Cái nhìn của các vị trên là một cái nhìn ấu trĩ. Nếu nước ta đã và sẽ còn yếu kém thì không phải do đi theo Chủ nghĩa Mác Lê Nin mà đơn giản là do trình độ mọi mặt của chúng ta còn yếu kém. Thời nay, cần phải coi Chủ nghĩa Mác như một học thuyết chính trị, một khoa học về sự phát triển, cần phải hiểu đúng, vận dụng đúng thì mới có được thành công cũng như mọi lý thuyết khoa học vậy. Cũng như giả sử ta không thể sản xuất được bom nguyên tử thì do trình độ của ta chứ không phải do công thức lừng danh E=mc2 của Einstein là sai! Sự tan vỡ không phải do LX đi theo Chủ nghĩa Mác-Lê Nin mà ngược lại chính là do sự phản bội Chủ nghĩa Mác-Lê Nin. Thực tế, Liên Xô chỉ có theo Chủ nghĩa - Mác Lê Nin, từ một đất nước cồng kềnh, lạc hậu hơn nhiều so với phương Tây, đã phát triển, có sức mạnh chiến thắng bọn phát-xít, trở thành siêu cường, đối trọng được với Mỹ! Stalin từng nói: “Chúng ta lạc hậu hơn các nước tiên tiến 50 năm đến 100 năm, chúng ta phải chạy hết khoảng cách này trong 10 năm, hoặc chúng ta làm được điều này, hoặc chúng ta bị người ta đánh ngã”.
***
Còn chuyện Tô Văn Trường viết: “Thực tiễn là thước đo duy nhất đúng của chân lý”. Chỉ cần nhìn vào thực tế trên thế giới mấy chục năm qua thì sẽ thấy vì sao Tây Đức hơn Đông Đức, Đài Loan hơn Đại lục, Hàn Quốc hơn Bắc Triều Tiên”. Viết vậy, Tô Văn Trường chứng tỏ mình chỉ như một con vẹt, có cái nhìn của “dân đen”, không phải do da đen mà vì vô học nên đầu óc đen tối, chỉ nhìn thấy hiện tượng mà không thấy bản chất, một cái nhìn thô thiển chứ không phải biện chứng của một nhà lý luận.
Trước hết, cần phải thấy chuyện giầu, nghèo trên thế giới vốn đã có từ lâu vì trình độ các nước khác nhau. Thêm nữa, Chủ nghĩa Thực dân lại đi xâm lược, bóc lột và nô dịch dân thuộc địa nên càng giầu hơn. Mặt trời từng không lặn trên Đế quốc Anh và Pháp cũng coi xứ Đông Dương là bãi hoang mầu mỡ cần khai thác, coi dân bản xứ chỉ là dân mọi. Khi hình thành hệ thống các nước XHCN đã trở thành đối trọng với hệ thống TBCN. Thế là trong quá trình “thích nghi để tồn tại”, các nước tư bản đã phải tự thay đổi. Wikipedia viết: “Lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản là đối trọng để chủ nghĩa tư bản trở nên tốt đẹp hơn”.
Thứ hai, sự chênh lệch giầu, nghèo giữa hai phía Tây Âu - Đông Âu cũng có nguyên nhân từ Kế hoạch Marshall của Mỹ nhằm đẩy lui Chủ nghĩa Cộng sản.
Mỹ có thực lực bởi Mỹ chính là cường quốc duy nhất mà cơ sở hạ tầng không bị thiệt hại bởi chiến tranh. Những năm chiến tranh, Mỹ sản xuất hàng hóa phục vụ cho đồng minh, đã phát triển kinh tế mạnh nhất trong lịch sử. Sau chiến tranh, Mỹ lại chuyển sang sản xuất hàng tiêu dùng. Nền kinh tế Mỹ phụ thuộc vào xuất khẩu nên viện trợ từ Kế hoạch Marshall vừa giúp châu Âu đồng thời cũng có lợi cho Mỹ.
Sau chiến tranh, với trình độ khoa học công nghệ có sẵn, sự viện trợ của Mỹ đã là động lực rất mạnh giúp cho Đức và các nước Tây Âu phục hồi nhanh chóng và phát triển, chiếm ưu thế so với Đông Âu.
***
Còn VN, một nước phong kiến nô lệ, nền sản xuất tiểu nông; sau chiến tranh 1975, cả hai miền Bắc, Nam bị cắt viện trợ; chiến tranh biên giới hai đầu đất nước; còn bị bao vây, cấm vận; chúng ta vẫn đứng vững, còn phát triển đến như hôm nay, thì dù bây giờ còn nhiều yếu kém, vẫn phải thấy như có phép mầu; chứ có đâu lại nhìn ngược một các thô thiển như Tô Văn Trường với câu hỏi “Vì sao Việt nam tụt hậu thê thảm so với các nước”?!
Tô Văn Trường cho “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” “Cho nên, Đảng ta… là rất sai lầm”!
Trước hết, cần phải hiểu nền Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo quy luật cung cầu, có nhược điểm vì chạy theo lợi nhuận nên sẽ sinh ra sự mất cân bằng. Vì vậy trong thực tế hiện nay, không có một nền kinh tế thị trường hoàn toàn, mà là nền Kinh tế Hỗn hợp.
Ngay nền Kinh tế Mỹ, theo Ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tháng 2/2001: “chủ nghĩa tư bản thuần túy như Mác mô tả đã từng tồn tại thì nó cũng biến dạng từ lâu khi các chính phủ ở Mỹ và nhiều quốc gia khác can thiệp vào nền kinh tế của họ nhằm hạn chế sự tập trung quyền lực và giải quyết nhiều vấn đề xã hội liên quan đến lợi ích thương mại mang tính cá nhân không bị kiểm soát. Do vậy, nền kinh tế Mỹ có lẽ tốt hơn được mô tả như một nền kinh tế “hỗn hợp”, trong đó chính phủ đóng một vai trò quan trọng cùng với doanh nghiệp tư nhân”.
Với nền kinh tế Mỹ mà còn có những “cuộc tranh luận kéo dài nhất của lịch sử” thì với Việt Nam nền kinh tế còn non trẻ, điều hành một nền kinh tế có một sự kết hợp giữa công và tư, giữa sự điều tiết của nhà nước với tính tự do của thị trường, có lúng túng, va vấp là điều tất nhiên. Trình độ lãnh đạo một nền kinh tế chỉ có thể dần tích lũy qua sự từng trải để rút ra những kinh nghiệm và bài học bổ ích, không ai có thể nói mình giỏi ngay được.
***
Với Cố TBT Nguyễn Phú Trọng cũng cần phải khách quan. Khi ông là người đứng đầu thể chế, có những việc lớn vẫn không thực hiện tốt, nhất là công tác cán bộ. Với những quy trình bầu bán, chọn lựa công phu, tốn nhiều công sức, thời gian, tiền bạc, nhưng rồi vẫn có Chủ tịch nước, Chủ tịch QH, Uỷ viên BCT, v.v… bị thôi chức, bị tù. Tình trạng tham ô, tham nhũng, liên quan đến phạm pháp trong kinh doanh đã trở thành phổ biến, các cơ chế để ngăn ngừa, thanh tra, giám sát dường như không có tác dụng.
Tôi đã từng mạnh dạn “hiến kế”. Chúng ta đã sai khi vẫn dùng các khẩu hiệu cũ, kêu gọi mọi người quên mình vì dân vì nước. Nhưng thời chiến không có gì để tranh nhau, trước vấn đề còn mất, người ta rất dễ quên mình vì nghĩa lớn, nhiều lãnh tụ có phẩm chất thánh nhân, nhiều chiến sĩ có phẩm chất anh hùng là điều hoàn toàn có thực. Cuộc sống trong hòa bình ngược lại. Trước cái chết con người mạnh mẽ bao nhiêu thì trước sức mạnh vật chất con người lại yếu đuối bấy nhiêu! Cần phải xây dựng thiết chế xã hội dựa trên cái phần yếu kém, tham lam, xấu xa của con người để ngăn chặn. Cần một đồng lương chân chính giúp quan chức của đảng có thể thực hiện thoải mái trách nhiệm của mình mà không phải gồng mình ép xác như những ông thánh. Cần phải phân biệt đạo đức xã hội khác với đạo đức trong đạo giáo và sách luân lý. Phải có biện pháp sao đó để người ta không cần phải tham nhũng cũng sống tốt và có muốn tham nhũng cũng không được!
***
Tham ô, tham nhũng, phạm pháp trong kinh doanh là căn bệnh đã có từ lâu, trở thành mãn tính, nên rất khó trị, TBT Nguyễn Phú Trọng cũng chỉ là một cá nhân, lực ông cũng có hạn, nên không thể giải quyết hết được.
VN chúng ta hiện nay đúng như ông nói “Có bao giờ được như thế này không?”, nhưng chính ông cũng nói đến “nguy cơ tồn vong” của chế độ. Để tránh giống Liên xô, mà Nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ David Code đã có một câu nói chí lý: “Đảng Cộng sản Liên Xô là chính đảng duy nhất làm giàu trong tang lễ của chính mình”, cố TBT Nguyễn Phú Trọng đã thực hiện công cuộc chỉnh đốn, đã “đốt lò” với quy mô chưa từng có trong lịch sử. Chỉ là một người trong sạch, liêm khiết, ông mới có thể làm được vậy. Chính vậy, khi mất, với công lao và đức độ của ông, ông đã được người dân thương tiếc như những bậc tiền bối, Bác Hồ, Bác Giáp, v.v…
24-7-2024
ĐÔNG LA

Thứ Ba, 23 tháng 7, 2024

MẠC VĂN TRANG BỊ DẮT MŨI VÀ DẮT MŨI HƠN 4000 “CON BÒ” NHƯ THẾ NÀO?

 MẠC VĂN TRANG BỊ DẮT MŨI VÀ DẮT MŨI HƠN 4000 “CON BÒ” NHƯ THẾ NÀO?

Bài trước đoạn kết chắc tôi viết hay quá nên GSTS Nguyễn Cảnh Toàn khi chia sẻ đã chọn làm “Lời nói đầu”:
“Có 3900 người like, 258 người thả tim: Một đàn bò hơn 4000 con đã bị con bò Mạc Văn Trang dắt mũi”!
Vậy hôm nay tôi sẽ chỉ ra cụ thể.
Trước hết, Mạc Văn Trang cũng bị dắt mũi như một con bò về vụ Đồng Tâm. Theo Đạo Phật, vạn pháp do tâm sinh, nên chính tâm thức của Mạc Văn Trang, tâm thì tối, trí thì thấp, đã dẫn dắt ông ta viết bậy. Đồng thanh với Mạc Văn Trang là những kẻ quấy rối, chống phá, luôn kiếm cớ để chống phá, nên vụ Đồng Tâm là một cái cớ chúng bu vào xuyên tạc để chống phá, tạo nên một hiệu ứng bầy đàn, đã dắt mũi Mạc Văn Trang, giúp ông ta dắt theo hơn 4000 “con bò”!
Trên trang https://vanviet.info/ có đăng bài của Mạc Văn Trang viết về vụ Đồng Tâm. Như loài kền kền, linh cẩu thích bu vào những thối rữa của xã hội, do nhân cách thối rữa của chính mình nhưng lại nghĩ là chế độ thối rữa, nên ông ta đã viết:
“Ngày 07/9/2020 tại Thủ đô nước CHXHCN Việt Nam sẽ diễn ra phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Đồng Tâm… Tôi biết 29 bị cáo của phiên toà này đều là những người nông dân của thôn Hoành và thôn Đồng Mít, xã Đồng Tâm… Trước vụ tấn công của lực lượng vũ trang vào 3 giờ sáng ngày 9/1/2020 vào thôn Hoành, thì tất cả các bạn đều là những người dân tha thiết gắn bó, bảo vệ ruộng đồng quê hương, những công dân chưa hề có tiền án. Thế rồi khi mấy nghìn cảnh sát với các phương tiện hiện đại và chó nghiệp vụ tấn công vào thôn Hoành, giết chết cụ Lê Đình Kình và các bạn bị bắt, mới thành bị cáo hôm nay”.
***
Viết vậy, Mạc Văn Trang đã lờ đi nguyên nhân dẫn đến vụ việc. Vậy sự thật như thế nào, tôi xin thuật lại những nét chính.
Vụ việc ở xã Đồng Tâm trước hết là sự sai sót của chính phủ về việc quy hoạch treo suốt nhiều năm; sai sót của quân đội quản lý đất được giao không chặt; cho dân mượn đất canh tác; từ đó nảy sinh chuyện quan chức địa phương ký giấy bán đất; dân mượn đất nhưng lại nghĩ là đất của mình, đã xây nhà, dựng cửa, mua bán sang tên nhau, v.v… Khi Bộ Quốc phòng có quyết định thu hồi đất để giao cho Tập đoàn viễn thông Viettel làm dự án, đã giải toả thì người dân ở xã đã chống lại, đứng đầu là ông Lê Đình Kình.
***
Trong vụ Đồng Tâm, ông Lê Đình Kình chính là người đầu tiên đã gây ra khủng hoảng vì ông từng là chủ tịch xã Đồng Tâm, đã ký giấy cấp đất cho 1 trong 14 hộ dân sinh sống trên phần đất thuộc dự án Sân bay Miếu Môn, Bộ Quốc phòng. Cháu ruột của ông Kình là Lê Đình Thuần cũng từng là chủ tịch UBND xã Đồng Tâm, cũng do “ăn” đất đã bị cách chức, bị khai trừ Đảng. Cháu khác của ông Kình là Lê Đình Tuyến phó trưởng phòng Tài Nguyên Môi Trường huyện Mỹ Đức cũng "ăn" đất đã bị kỉ luật năm 2015. Cháu nữa là Lê Đình Ba - Phó Thôn Hoành cũng "ăn đất" và đã trực tiếp chỉ huy cuộc làm loạn ở Đồng Tâm. Và, con trai của ông Kình là Lê Đình Công cũng là thành phần “cốt cán” trong việc rào làng, dựng chướng ngại vật, sắm vũ khí, bắt và chống người thực thi nhiệm vụ tại thôn Hoành.
***
Một người dân cho biết nguyên nhân người dân đã phản kháng ở Đồng Tâm:
“Từ hôm qua lên TV, dân nó bảo nhau là chúng nó lừa mình, không phải đất của mình… Tôi nói nhé, là vì nhà nước mình làm không kiên quyết. Bởi vì dân nó bảo, đất của quân đội sao không kiên quyết giữ?... Nó bắt cán bộ huyện lại… Nó lên gào thét, chửi bới ngay trên hội trường. Nó bắt cả phó chủ tịch huyện. Nó lăn cả vào xe. Từ cái chỗ bước đầu ta không làm, nên nó cho là nó đúng. Nó bảo tại sao đất bộ đội mà dân vào chả ai nói gì? Mang máy cày nó cày, cắm cả cờ lên không ai nói gì. Dân chủ quá trớn nên khó chữa. Nó bảo không phải của bộ đội đâu… Nó còn phao tin đất này mai đây đền đến 6 triệu 1m2 cơ mà. Nó bảo Viettel nhiều tiền lắm, bao nhiêu nó cũng trả. Cho nên tôi nói quân đội có cái sai lầm là không giữ được ngay từ đầu”.
***
Ngày 15-4-2017, Công an TP Hà Nội đã bắt những người gây rối trật tự công cộng tại xã Đồng Tâm, người dân tại đây đã bao vây, đập phá và bắt giữ 38 cán bộ thuộc huyện Mỹ Đức và cán bộ, chiến sĩ Công an TP Hà Nội. Sau khi Chủ tịch UBND Hà Nội Nguyễn Đức Chung xuống tận nơi đối thoại, mới “giải cứu” được họ.
***
Trước tình trạng như vậy, các cơ quan chức năng của Trung ương và Hà Nội đã kiểm tra, làm rõ và ban hành kết luận thanh tra, đất khu sân bay Miếu Môn thuộc xã Đồng Tâm (huyện Mỹ Đức) là của quốc phòng; khiếu kiện của ông Lê Đình Kình không có cơ sở và không đúng. Nhưng ông Lê Đình Kình không chịu chấp nhận, vẫn khiếu kiện, lập ra “Tổ đồng thuận” cố tình khuấy đảo nhằm phô trương thanh thế, nhận hỗ trợ tiền bạc từ các tổ chức, cá nhân phản động. Hai ĐBQH Dương Trung Quốc và Lưu Bình Nhưỡng cũng có những phát biểu và hành động ủng hộ sự nổi loạn. Chúng đã chuẩn bị nhiều vỏ chai bia để làm bom xăng, mua lựu đạn, tự chế hàng chục dao, kiếm, vũ khí, sẵn sàng tấn công lực lượng chức năng đến làm nhiệm vụ.
Rạng sáng ngày 9-1, khi lực lượng công an đến cổng thôn Hoành thì chúng đánh kẻng báo động, bắn pháo hiệu, pháo hoa, ném bom xăng, gạch đá, lựu đạn tấn công. Một tổ gồm Nguyễn Huy Thịnh - phó trung đoàn trưởng E22 - Bộ tư lệnh Cảnh sát cơ động, Phạm Công Huy - cán bộ Phòng cảnh sát phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn cứu hộ Công an Hà Nội, Dương Đức Hoàng Quân - cán bộ Bộ tư lệnh Cảnh sát cơ động - tiến vào khu vực nhà ông Kình để trấn áp. Khi ba người đến cửa sổ nhà Lê Đình Hợi để sang mái nhà tên Chức thì bị Chức dùng tuýp gắn dao phóng lợn chọc từ trên xuống, những kẻ khác ném "bom" xăng, gạch đá từ mái nhà ông Kình làm ba người rơi xuống hố sâu 4m nằm giữa nhà Lê Đình Hợi và Lê Đình Chức. Lê Đình Chức và Lê Đình Doanh đã bê chậu xăng nhiều lần đổ xuống hố thiêu sống 3 cán bộ, chiến sĩ đến chết.



Khi công an áp sát nhà ông Kình thì phát hiện ông ta đang cầm một quả lựu đạn nên họ buộc phải nổ súng khiến ông Kình bị thương, ngã vào trong phòng, rồi tử vong.



Ngày 09/01/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP Hà Nội đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự Giết người; Tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vũ khí quân dụng; Chống người thi hành công vụ xảy ra tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội, toà đã kết án Lê Đình Công tử hình, Lê Đình Chức tử hình, Lê Đình Doanh chung thân, và bắt tù một số bị can khác.



***
Việc thực thi pháp luật, xử phạt những kẻ phạm tội là việc làm tất nhiên của bất kỳ nước nào, theo chế độ nào ở thời đại này. Vậy mà Mạc Văn Trang lại biến những kẻ phạm tội trở thành như những vị thánh tử vì đạo, chống lại áp bức, cường quyền. Thằng già này đã viết:
“Các bạn cũng như nhiều người dân bị tù, bị chết, bị đoạ đày vì bọn cướp đất càng chứng minh cho bản chất của chế độ này… Các bạn càng bị kết tội nặng bao nhiêu càng phơi bày bản chất chế độ này bấy nhiêu. Phiên toà này cùng tên tuổi các bạn sẽ ghi vào lịch sử tội ác của chế độ này”.
Có cách nhìn lộn ngược như vậy đơn giản là vì Mạc Văn Trang đã cố tình mù điếc trước sự thật; là kẻ chống phá, vô chính phủ nên cổ vũ sự nổi loạn; có nhân cách linh cẩu nên coi cái thối tha là giá trị; bất lương, thất đức nên coi cái tham, cái ác là giá trị. Mọi người có lương tri, lương tâm cần phải lên án!!!
23-7-2024
ĐÔNG LA

Thứ Hai, 22 tháng 7, 2024

VÀI LỜI VỚI MẠC VĂN TRANG

 VÀI LỜI VỚI MẠC VĂN TRANG

Vừa rồi có một bạn gởi tôi hình chụp hai câu: “Nếu không có chuyện Tầm Đông/ Thì tôi cũng viết khen Ông mấy lời” trên fb của Mạc Văn Trang. “Tầm Đông” là ám chỉ vụ Đồng Tâm; “Ông” là chỉ cố TBT Nguyễn Phú Trọng.




Tôi tính đặt đầu đề là “Vài lời với thằng Mạc Văn Trang”. MVT sinh năm 1938, đã 86 tuổi; là PGSTS, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục, Bộ GD&ĐT. Vậy MVT đã rất già, tức đã từng trải và có kinh nghiệm, và có học, theo lẽ thường là được tôn trọng. Nhưng một người già mà ngu xuẩn, lưu manh, có học mà mất dạy thì có nên tôn trọng không? Còn nhớ một ông Đại tá, nhà thơ viết đại ý, biết Phạm Xuân Nguyên có những quan điểm sai, nhưng ôg ta tôn trọng tự do tư tưởng của Nguyên. Tôi đã viết, ai cũng tôn trọng những quan điểm sai trái như ông Đại tá thì “mất mẹ nó nước”, tức xã hội sẽ loạn, ngoại bang lại can thiệp, dân ta lại nô lệ. Mạc Văn Trang cũng dạng như Phạm Xuân Nguyên, nhưng du côn hơn, theo kiểu Nguyễn Khắc Mai. Biết ông ta không đáng được tôn trọng nhưng tôi vẫn bỏ chữ “thằng” trong cái đầu đề trên, sợ dư luận bảo Đông La là nhà văn mà lại không văn, dù thực lòng tôi biết, chửi cái xấu mới đích thị là văn.
Mạc Văn Trang đã bị các bạn “Cờ Đỏ” chuyên chống quấy rối, chống phản động phê phán nhiều, nhưng Mạc Văn Trang và đồng bọn thường coi thường, ngông ngạo, gọi họ, kể cả tôi, là “dư luận viên”, là “bò đỏ”, là “văn nô”, v.v… nên coi sự phê phán đó không ra gì.
Tôi từng viết mình sẵn sàng làm văn nô vì sự bình yên và phát triển của đất nước, sẵn sàng bị “dắt mũi” bởi lương tri, đạo đức, đạo lý, không như bọn cơ hội, lưu manh, phản trắc; chúng lại luôn tự hào, tự đắc, vênh váo khi làm văn nô cho những thế lực phản động chống VN, làm văn nô cho những kẻ từng xâm lược và luôn muốn VN trở lại kiếp nô lệ; chúng mới chính là những con bò bị dắt mũi bởi sự ngu xuẩn, xuyên tạc, lưu manh, thất đức, trái đạo. Mạc Văn Trang chính là một kẻ như thế.
***
Biết Mạc Văn Trang đã lâu, cũng dạng như đám ruồi nhặng Nguyễn Đình Bin, Nguyễn Đình Cống, Nguyễn Xuân Diện, Thái Bá Tân, nhưng tôi tính xấu hay khinh người, bọn không ra gì, cỡ Nguyên Ngọc, Chu Hảo, Nguyễn Khoa Điềm… tôi còn coi không ra gì thì cỡ Mạc Văn Trang tôi không để ý.
Một lần một nhà ngoại cảm hàng đầu VN gởi tôi bản thảo cuốn sách nhờ tôi sửa chữa, biên tập để xuất bản. Tôi đọc thấy Mạc Văn Trang viết giới thiệu rất dài. Tôi trả lời anh bạn: “Bạn muốn tôi sửa và biên tập thì điều đầu tiên là tôi cắt phần viết của Mạc Văn Trang vì ổng viết lăng nhăng. Nhưng tôi sợ bạn sợ làm mất lòng ổng, nên tôi thôi, không sửa nữa, trả bản thảo lại bạn”. Anh bạn: “Không, anh cứ sửa, em sợ làm mất lòng anh, chứ đâu sợ mất lòng ông Mạc Văn Trang”. Thú vị là ý này y hệt ý Nguyễn Quang Thiều một lần nói với tôi. Thiều vốn đúng, sai, tốt xấu chơi tất, mà tôi thì hay “đánh” bọn xấu. Khi còn thân Nguyễn Quang Thiều, tôi bảo: “Tôi hay “đánh” bọn bạn ông, ông chơi với tôi, tôi sợ chúng nó giận ông”. Thiều bảo: “Không, tôi không sợ chúng nó giận tôi, tôi chỉ sợ ông giận tôi thôi!”
***
Mạc Văn Trang viết hai câu về vụ Đồng Tâm như trên đúng là như một con bò đã bị dắt mũi bởi cái sai, cái xấu, cái ác. Có tới 339 bình luận, trong đó có bình luận cực kỳ lưu manh, như thằng già Hà Sĩ Phu, tự xưng sĩ phu mà có lần tôi đã chỉ ra là “ngu như lợn”, viết: “Chính vì có vụ Tầm Đông/ Ông là tội phạm chứ không oai gì/ Thôi đừng bày vẽ làm chi/ Quốc tang nghiêm trọng có khi...bẽ bàng...”.




Có kẻ vô danh tiểu tốt không đáng để tôi nhắc tên viết cực kỳ phản động: “...Ông Trọng là tội đồ của cả dân tộc là viên đá tảng nặng ký ngăn chặn bánh xe tiến bộ của nhân loại…”



Chỉ việc để nguyên những bình luận này, thằng già Mạc Văn Trang đã dư tiêu chuẩn nhập kho rồi.
Vậy mà có đến 3900 người like, 258 người thả tim, trong đó tôi thấy có bạn của tôi, cả bạn fb lẫn ngoài đời, họ đúng là một đàn bò hơn 4000 con đã bị con bò Mạc Văn Trang dắt mũi.
Cụ thể thế nào tôi sẽ viết phần sau.
22-7-2024
ĐÔNG LA

Chủ Nhật, 21 tháng 7, 2024

SO SÁNH THƠ VỀ CÁC AHLS CỦA ĐÔNG LA VỚI NGUYỄN QUANG THIỀU

 SO SÁNH THƠ VỀ CÁC AHLS CỦA ĐÔNG LA VỚI NGUYỄN QUANG THIỀU


Tôi tin những người có lương tri, thiện tâm trên đất nước VN đều thương tiếc khi TBT Nguyễn Phú Trọng mất bởi tài năng, đức độ và công lao của ông. Dù rằng theo lẽ thường, chắc chắn ông cũng có những khuyết điểm và thiếu sót, bởi công việc của ông quá phức tạp, quá nặng nề, quá lớn lao khi là người đứng đầu thể chế của một đất nước đang phát triển mà trình độ mọi mặt còn yếu kém. Nhưng như ông cha ta nói “sống gởi thác về”, và theo Đạo Phật “Đời là cõi tạm”, chết không phải là hết, với một người lập nhiều công đức, tích nhiều nghiệp thiện như TBT Nguyễn Phú Trọng thì linh hồn ông chắc chắn sẽ được hưởng những quả lành. Vậy mọi người có thể an tâm trở lại với nhịp sống bình thường.

Hôm nay cuối tuần tôi sẽ bình thơ, so sánh vài bài thơ viết về sự hy sinh của các anh hùng liệt sĩ của chính tôi với thơ của ông đương kim Chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều, một việc có lẽ rất ít người làm được.
***
Trước khi vào chuyện chính, tôi viết ít dòng về những kỷ niệm có liên quan đến văn chương.
Vừa rồi, ông bạn PGSTS Nguyễn Hữu Sơn vào bình luận có nhắc chuyện tôi hay kể về Chế Lan Viên, còn lộ một bí mật của tôi nữa: “Hai, chịu khó nghe thơ lão (Đông La): "Thơ tôi hay đấy. Ông Chế Lan Viên khen đấy... Ông đ... hiểu gì thơ tôi". Chỉ ngồi nghe và gật. Không tranh luận nhé... Lại nói, chả hiểu sao, có lần theo về quê ổng, thấy có ông Côp, có xe Côp đưa đón”.
Quả thật, kỷ niệm với CLV thì tôi không bao giờ quên được. Nếu nói Tố Hữu là lãnh đạo thì CLV từng như giáo chủ của nền thơ cách mạng VN. Hoài Anh, một người đến Nguyễn Khải từng nói trực tiếp với tôi: “Nó bách khoa toàn thư đấy!”, đã viết CLV là “bác học nghệ thuật thơ”. Thú vị là khi giới thiệu Tập thơ “Đêm thiêng” của tôi, Hoài Anh cũng lại viết CLV đã trao cho tôi (Đông La) “bí quyết tâm truyền”. Thực tế không phải vậy, vì chưa gặp ông tôi đã làm thơ rồi. Lần đầu ông biết tôi làm thơ là lần ông đọc chùm thơ đầu tay của tôi, ông đã khen và bảo tôi sẽ “được giải” luôn; ông còn lon ton vào buồng bê cả chồng bản thảo ra khoe cách làm thơ của ông với tôi. Sau đó ông còn trực tiếp đứng tên giới thiệu tôi vào HNV TPHCM. Chính vậy mà tôi không sao quên được ông, đến nay sau mấy chục năm, tôi vẫn chưa gặp được một ai làm thơ sau tôi như CLV từng gặp tôi như vậy. Với con đường văn chương, tôi luôn coi việc đưa chùm thơ đầu tay cho CLV đọc như là cuộc thi lớn nhất của cuộc đời mình, và có lẽ chỉ cỡ CLV mới đủ tầm đủ tâm để công bằng với thơ tôi mà thôi. Ngược lại, với tôi ông cũng rất gần gũi, với một “bác học nghệ thuật thơ” như thế, nhưng tôi đã bình thơ ông ngay trước mặt ông một cách rất tự nhiên: “Cháu rất thích hai câu thơ của chú: “Con đi ngủ thì cò cũng ngủ/ Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi”. Lấy cánh cò thực đắp cho đứa bé đã là lạ rồi, còn ở đây cánh cò lại ở tận trong lời ru cơ”. Nghe tôi bình, ông rất khoái chí nói: “Cái Thắm đấy, cái Thắm đấy!” Nghĩa là bài thơ đó ông làm về Thắm, cô con gái ông.
***
Hôm nay tôi sẽ đăng hai bài thơ tôi viết về sự hy sinh của đồng đội tôi, của các anh hùng LS, sự nhớ thương của những người mẹ để so sánh với bài thơ của Nguyễn Quang Thiều cùng chủ đề. Làm vậy thực lòng tôi phải hạ mình xuống, bởi như một GS văn chương nói, thơ ca kháng chiến của những nhà thơ chiến sĩ được viết từ một “hiện thực vàng ròng”. Bài thơ tôi viết về chuyện chôn Khu, người đồng đội cùng xã 19 tuổi hy sinh, đúng là như vậy. Còn bài thơ TRONG CHIỀU NGHĨA TRANG của Nguyễn Quang Thiều, nếu xét theo tiêu chuẩn chân, thiện, mỹ, đúng là mớ câu chữ lảm nhảm, nó không chỉ không đúng với Đời mà còn trái về Đạo.
Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ được coi là trang lịch sử vàng chói lọi của dân tộc ta vì quân dân ta đã đánh đuổi được ngoại xâm, giành lại được chủ quyền đất nước, để từng bước đạt được cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đến nay, dù còn nhiều tệ nạn, nhưng đúng như ý của Cố TBT Nguyễn Phú Trọng nói, so với toàn bộ lịch sử dân tộc, có bao giờ nước ta được như thế này không? Vì vậy, các liệt sĩ hy sinh trong hai cuộc kháng chiến luôn được gắn với hai chữ anh hùng, những người mẹ sinh ra các liệt sĩ ấy được họi là Mẹ Việt Nam Anh hùng. Vì vậy, sự hy sinh, sự tiếc thương đó được gọi là bi hùng, chứ không phải là bi thương, não nề, ảm đạm, u tối như Nguyễn Quang Thiều đã viết trong bài TRONG CHIỀU NGHĨA TRANG. Cụ thể, Nguyễn Quang Thiều đã sử dụng một loạt hình ảnh như thế: “chiều phủ kín”; “Sông ngửa mặt lên trời thở”; “Ai gọi đò bơ phờ bến vắng”; “gió lạnh, cỏ đầy sương”; “Mẹ run run thắp những nén hương”.
Theo Đạo Phật, bố thí là một việc tạo nghiệp lành, sẽ được phước, mà bố thí được phước cao nhất chính là bố thí chính thân thể mình. Có tiền kiếp, Đức Phật từng bố thí thân mình làm thức ăn cho con hổ mẹ bị thương để nó có sữa cứu đàn hổ con sắp chết đói. Vì vậy, các liệt sĩ đã hy sinh thân mình đuổi giặc ngoại xâm, giành lại chủ quyền đất nước, tôi không dám nói họ sẽ thành Phật, thành Thánh cả, nhưng chắc chắn họ sẽ không bị đoạ thành súc sinh như mong ước của Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Chủ tịch Hội Nhà Văn VN, viết trong bài thơ trên. Bởi chỉ khi họ đã phạm tội ác mới bị như vậy. Với Nguyễn Quang Thiều thì nghĩ và viết như vậy là rất logic, vì Thiều từng ca ngợi là “nhà văn tìm đạo cho dân” đối với Nguyễn Huy Thiệp, người từng “nhổ vào cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc”; từng ca ngợi “chạm vào mẫu số chung nhân loại” với “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, người từng viết ý cha dặn con đi bộ đội “đừng ngu mà mà chết vì lý tưởng”!
Không chỉ vậy, trong thơ, Thiều cũng hay mong mình trở thành con vật, như “Ở đó tôi được tự do làm con giun… làm con chim…” hoặc khẳng định kiếp sau mình “phải là con vật” và mong được làm chó:
“Trong những chiếc tiểu sành đang xếp bên lò gốm/ Một mai đây tôi sẽ nằm trong đó/ Kiếp này tôi là người/ Kiếp sau phải là vật/ Tôi xin ở kiếp sau là một con chó nhỏ/ Để canh giữ nỗi buồn - báu vật cố hương tôi”.
Xem chừng với những sai trái trong sáng tác, trong nhận định, khi làm giám đốc NXB, Chủ tịch HNV, Thiều đã linh cảm về chuyện mình sẽ bị đoạ làm súc sinh ở kiếp sau.
***
Còn tôi làm bài thơ “ĐÊM ĐẮP MỒ BẠN TRONG RỪNG”, quả thực nếu không trải qua hiện thực “vàng ròng”, không ai có thể viết được: “Tưởng như đất không muốn nhận về lòng mình/ Người lính trẻ chưa đầy 19 tuổi/ Lưỡi cuốc chúng tôi bật trên đá sỏi”. Đất đỏ Miền Đông, sỏi, đá gan gà chặt như nêm, đúng là bổ cuốc chim xuống là cứ bật lên. Điều này đã làm Nhà Thơ Đông La bật ra cái tứ, trước sự hy sinh của người bộ đội quá trẻ, đất cũng muốn họ hồi sinh, không muốn chôn họ trong lòng mình. Khi nằm, thông thường người ta gối đầu lên gối, dã ngoại nằm trên cỏ thì có thể kiếm cái ụ đất gối đầu, nhưng tôi viết đồng đội tôi nằm trong huyệt mộ “đầu gối Phương Nam”. Nghĩa là cả đất nước, quê hương Miền Nam thân yêu nâng niu người lính trẻ yên giấc ngàn thu. Một lần thấy hình ảnh một bà mẹ thăm mộ con LS ở nghĩa trang, tôi đã làm bài thơ BIA MÒN có 4 câu. Làm thơ ngắn chỉ có 4 câu mà hay, còn khiến người đọc xúc động được thì bút lực đúng là phải cao cường. Tôi đã dùng cái tứ, nước mắt của người mẹ khóc con rơi mòn cả bia đá để viết nên bài thơ này.
Xin đăng 2 bài thơ của tôi và bài của Nguyễn Quang Thiều để “nói có sách, mách có chứng”.
21-7-2024
ĐÔNG LA

BIA MÒN


Nghĩa trang mẹ thường đến thăm con
Khắc trong tim hình dáng ấy mãi còn
Có phải thời gian trôi mòn bia đá?
Hay bia đá mòn bởi nước mắt mẹ tuôn?

ĐÔNG LA
ĐÊM ĐẮP MỒ BẠN TRONG RỪNG
Tưởng nhớ Khu, Thinh
Tưởng như đất không muốn nhận về lòng mình
Người lính trẻ chưa đầy 19 tuổi
Lưỡi cuốc chúng tôi bật trên đá sỏi
Đêm rừng sâu mưa rơi giọt ngậm ngùi
Những nhát cuốc làm đau nhói tim tôi
Đời trai trẻ chưa từng chôn người chết
Nay lại đi chôn thằng bạn thân thiết
Mưa ướt đất rừng, Khu ơi lạnh lắm không?
Chúng tao chôn mày đầu gối phương Nam
Trên mảnh đất súng mình vừa ran nổ
Còn mặt hướng về ngôi sao Bắc Đẩu
Quê hương chúng mình ở phía ấy Khu ơi!
Rừng Miền Đông 1974
Viết năm 1983

NGUYỄN QUANG THIỀU
TRONG CHIỀU NGHĨA TRANG
Mẹ ơi mẹ về đi, chiều phủ kín hết rồi
Sông ngửa mặt lên trời thở từng hơi trắng
Ai gọi đò bơ phờ bến vắng
Mẹ về đi, gió lạnh, cỏ đầy sương
Mẹ run run thắp những nén hương
Cắm trước từng bia mộ
Kìa khói lên... khói lên… lặng lẽ…
Những con đường cát trắng của làng quê
Hồn những chàng trai giờ ở đâu?
Nhìn thấy khói mà về với mẹ
Chim khách góc vườn mười mấy năm nói dối
Cau mười mấy năm trời vô ý trổ buồng đôi
Các anh về với mẹ một đêm thôi
Cho đèn khuya đỡ giật mình phụt tắt
Cho nồi cơm lại một lần đầy đặn
Cho đũa trong nhà một bữa được so thêm
Các anh về không hóa được thành người
Thì xin hóa ngọn lửa cười trong bếp
Hóa chú cá con dưới ao nhà đợi mẹ
Hóa thạch sùng thưa lời mẹ trong mơ
Chiều phủ kín hết rồi, gió lạnh đổ từng cơn
Trăm mắt hương trăm mắt người hoe đỏ
Trong hoàng hôn hàng trăm bia mộ
Cùng dâng hương lặng lẽ đến bên người.
1984

Thứ Bảy, 20 tháng 7, 2024

NGUYỄN QUANG THIỀU VÀ HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM- HÌNH MẪU ĐẤT NƯỚC TRƯỚC NGUY CƠ TỒN VONG

 NGUYỄN QUANG THIỀU VÀ HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM- HÌNH MẪU ĐẤT NƯỚC TRƯỚC NGUY CƠ TỒN VONG


Sự thể hiện thái độ của một người trước cái chết của TBT Nguyễn Phú Trọng cũng chính là thái độ đối với chế độ, đối với lịch sử cách mạng, đối với tất cả những gì thuộc về giá trị chân chính của xã hội VN hôm nay. Bởi ông cả đời đã sống và chiến đấu vì những điều đó. Tò mò, tôi thử vào các trang fb của những người thành danh, thành đạt xem sao, thì thấy GSTS Nguyễn Cảnh Toàn là người đầu tiên, trước cả truyền thông chính thống, đã đưa tin và thể hiện tình cảm trước cái chết của TBT. Anh đúng là không hổ danh là một cựu chiến binh của một quân đội anh hùng, từng sống sót trở về từ mặt trận Quảng Trị được ví như “cối xay thịt”. Thật khâm phục anh!



Vào trang fb của ông Nguyễn Quang Thiều, một cán bộ đảng viên, đương kim Chủ tịch Hội Nhà Văn VN, một tổ chức quan trọng của Chế độ XHCN Việt Nam, của những người từng được coi là “những chiến sĩ cầm bút”, lạ là thấy Đảng viên Nguyễn Quang Thiều đến lúc này, 8h30’-20-7-2024, vẫn im re, hoàn toàn vô cảm trước cái chết của người đứng đầu Đảng của mình. Thì ra Thiều từng phấn đấu, thề thốt vào Đảng là để tiến thân chứ không hề có một chút sự tin yêu gì. Chỉ thấy từ hôm qua Thiều đăng lại bài thơ TRONG CHIỀU NGHĨA TRANG. Những tưởng Thiều nhớ ơn, ca ngợi các anh hùng liệt sĩ, nhưng Thiều viết thế này: “Các anh về không hóa được thành người/ Thì xin hóa ngọn lửa cười trong bếp/ Hóa chú cá con dưới ao nhà đợi mẹ/ Hóa thạch sùng thưa lời mẹ trong mơ”.
Thiều từng viết về Đạo Phật, còn khoe được trò truyện với cả một vị Pháp vương. Theo luật Nhân quả, Đạo Phật cho con người phạm tội ác thì khi chết sẽ bị đoạ làm súc sinh, xuống cõi Địa ngục. Vậy viết như trên, Thiều đã cho các anh hùng liệt sĩ đã phạm tội ác sao? Nếu không thì quá kém về thơ, quá dốt về Đạo mới viết như vậy.
Vậy sáng nay tôi đăng lại bài này.
20-7-2024
ĐÔNG LA
Tài năng lớn nhất của TBT Nguyễn Phú Trọng chính là chuyện ông đã nhìn ra và nhiều lần nói về nguy cơ tồn vong của thể chế. Cụ thể, một lần khi phát biểu tại một hội nghị ngày 30.6.2022, ông nói: “Tham nhũng, tiêu cực vẫn là một trong những "kẻ thù hung ác", nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”. Điều này chính là động lực đã giúp ông thực hiện công cuộc “đốt lò” vĩ đại.
***
Nếu suy xét kỹ nỗi lo của TBT Nguyễn Phú Trọng về những nguy cơ tồn vong của thể chế, ta thấy tham nhũng có thể làm nghèo đất nước nhưng đất nước ta vẫn giầu hơn xưa, mức sống nói chung của người dân vẫn hơn xưa rất nhiều. Hiện có những lực lượng chống phá, những người trở cờ, nhưng không thể nào mạnh bằng những đội quân từng xâm chiếm nước ta thời chiến.
Như vậy gian khổ, hy sinh, đói kém, sự chống phá của thế lực chống VN vẫn chưa phải nguy cơ lớn nhất của sự tồn vong. Mà nguy cơ lớn nhất của sự tồn vong chính là sự thoái hóa, biến chất của chính con người. Đầu tiên là sự thay đổi các hệ giá trị, từ đó cái xấu sẽ biến thành cái tốt, cái ác sẽ thành cái thiện và vì thế mà người xấu sẽ thành người tốt. Nhớ lại, khi Liên Xô tan vỡ cũng chính là vào lúc sự thoái hoá lên đến người giữ vị trí lãnh đạo cao nhất. Từ Khơrutsop đến Goocbachov, chính họ đã làm tan vỡ Liên Xô chứ không phải là những quan chức tham nhũng hay những kẻ bất hảo quấy rối, chống phá. Thật e ngại là cái điều tệ hại này đã xảy ra trong lĩnh vực văn chương. Như Hội Nhà Văn Hà Nội một thời cứ họp đại hội là bầu Phạm Xuân Nguyên làm chủ tịch, và nay ở tầm cao hơn, Hội Nhà Văn VN đã bầu Nguyễn Quang Thiều làm Chủ tịch.
***
TBT Nguyễn Phú Trọng không chỉ nói nhiều về sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" của cán bộ, đảng viên, mà ông còn đưa ra khái niệm “tham nhũng chính trị tư tưởng, tư cách đạo đức”. Nói vậy, ông như tiên tri về chuyện Nguyễn Quang Thiều. Nguyễn Quang Thiều từng bỏ sinh hoạt Đảng, nhưng khi cần lên chức Chủ tịch Hội Nhà Văn VN thì lại cần cái thẻ Đảng. Dù được vậy, nhưng chỉ thành đạt trong đất nước VN thì vẫn chưa đủ cho tham vọng của Nguyễn Quang Thiều, nên Thiều mới thể hiện đủ kiểu để phía Mỹ và phương Tây chú ý! Thiều hay ca ngợi Giải Nobel của nhà văn Mỹ, hay khoe gặp gỡ, giao lưu, thể hiện tình cảm với cựu chiến binh Mỹ, v.v…
Trong đơn tôi viết ngày 27-10-2021 đã gởi cho chính TBT Nguyễn Phú Trọng, có ý:
“Nguyễn Quang Thiều đã được thể chế Việt Nam vinh danh, đã đoạt được chức Chủ tịch Hội Nhà Văn VN trong thể chế, bây giờ đã và đang dùng danh vị để thể hiện những quan điểm và những hành động sai trái về chính trị, tư tưởng, lịch sử, và về văn chương một cách bài bản, kể cả sai trái một cách “nên thơ”, biến sự phản bội, phản động thành hành động của hiệp sĩ, là sự dấn thân dũng cảm”.


***
Nguyễn Quang Thiều từng viết “cố hương” của mình - sống trong chế độ mà Đảng, Bác đã lãnh đạo dân ta đổ biết bao xương máu mới giành lại được nền độc lập, được sống trong hoà bình, nền tảng quan trọng nhất để đi tới hạnh phúc - là “mê mẩn và lạc đường/ Trong những cánh rừng đầy quỷ”; viết những người phụ nữ “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” của đất nước chúng ta như bị giam trong đáy “lưới”, thụ thai không sinh ra con trẻ mà chỉ đẻ ra “những quả trứng ung”, ám chỉ nước ta không sinh sôi, phát triển sẽ bị tuyệt diệt; nhân ngày Trung Quốc xâm lược biên giới nước ta, Thiều đã viết có cuộc xâm lược đó “bởi có những kẻ phản bội dân tộc”, ám chỉ đường lối ngoại giao của nước ta đối với Trung Quốc là sự “phản bội”, là “xảo ngôn”, là “xảo quyệt”; v.v…
Nguyễn Quang Thiều từng ca ngợi Nguyễn Huy Thiệp là “Nhà văn tìm đạo cho dân”, trong khi Nguyễn Huy Thiệp, khi trả lời nhà báo bên Thụy Điển, từng “nôn mửa vào cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc”. Nguyễn Huy Thiệp từng viết truyện ngắn như “rửa mặt” cho sự xâm lược của Pháp, cho Anh hùng Dân tộc Vua Quang Trung như tay du côn, giặc cỏ, “Nguyễn Ánh mới là nòi vương giả”; trong truyện ngắn “Tướng về hưu” cho việc BS phụ sản mang xác thai nhi về nấu cho chó, cho lợn ăn là “chẳng quan trọng gì”; viết về con người với con mắt bất nhân: “Chẳng có khuôn mặt nào đáng là mặt người. Mặt nào trông cũng thú vật, đầy nhục cảm, không đểu cáng, dối trá thì cũng nhăn nhúm đau khổ”, v.v…
Về cuốn “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, Nguyễn Quang Thiều cũng tâng bốc là “chạm vào mẫu số chung nhân loại”, nhưng chính Bảo Ninh đã thú nhận mình xuyên tạc sự thật khi miêu tả đội quân anh hùng toàn là hiếp dân lành, hành lạc tập thể, hút hồng ma, trốn chạy, chôn sống tù binh, con ra trận bố dặn đừng ngu mà chết vì lý tưởng, và coi cuộc kháng chiến vĩ đại giành lại chủ quyền và nền độc lập của dân ta là “nỗi buồn”. Đồng đội từng cùng chiến hào với Hoàng Ấu Phương (tên thật Bảo Ninh) là GSTS Nguyễn Cảnh Toàn cho biết, Bảo Ninh đã xuyên tạc sự thật khi viết về đồng đội, khi làm ở Viện sinh học đã bỏ chất độc vào thí nghiệm của bạn để hại bạn, đã bị công an điều tra, bị kỷ luật, cuối cùng bị đuổi việc!
***
Tôi đã nhận được một cuộc điện thoại:
-A lô! Đông La nhớ mình không? Mình là bạn của Lê Quang Trang (nguyên Phó Chủ tịch HNV VN; nguyên Chủ tịch HNV TPHCM). Hôm liên hoan Hội nghị Lý luận Phê bình ở Tam Đảo, mình ngồi bên Đông La đó.
-À, em nhớ rồi.
Hôm đó tôi nhớ vào tiệc, biết người ngồi bên tôi là nhà văn Bùi Việt Sĩ, từng làm ở báo Lao động.
Tôi hỏi anh:
-Có chuyện gì mà hôm nay anh gọi cho em vậy?
-Có nhiều chuyện về thằng Nguyễn Quang Thiều hay lắm. Riêng chuyện nó bỏ sinh hoạt Đảng, không có chứng chỉ về Lý luận Mác-Lê nin là nó không đủ tiêu chuẩn làm Chủ tịch HNV VN rồi. Nó còn chưa có bằng đại học, mới tốt nghiệp (trung cấp hay cao đẳng gì đó tôi không nhớ chính xác). Đặc biệt có chuyện nó sử dụng kinh phí của Hội nhập nhèm. Những cái này mới quan trọng, còn Đông La phê phán quan điểm của nó không có tác dụng đâu.
Tôi trả lời anh là những thông tin của anh rất cần cho những người muốn kiện Thiều, còn tôi quả thật không hứng thú và chưa kiện ai bao giờ. Mà phải là cán bộ điều tra mới có đủ chứng cớ mới kiện được. Với tư cách là nhà Lý luận Phê bình tôi thích viết về đúng sai trong học thuật hơn, bởi chúng liên quan đến chính trị tư tưởng, liên quan đến chuyện tồn vong của thể chế, đến sự ổn định và cuộc sống thanh bình của nhân dân, trong đó có gia đình tôi. Với những người có trọng trách hiểu biết thì sẽ thấy là quan trọng hơn chuyện nhập nhèm tiền nong kia.

20-7-2024
ĐÔNG LA