Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2023

GIẢI TRÍ VĂN CHƯƠNG CUỐI TUẦN, TRUYỆN NGẮN: LỄ TƯỞNG NIỆM VÀ HƯƠNG ỔI

 GIẢI TRÍ VĂN CHƯƠNG CUỐI TUẦN, TRUYỆN NGẮN: LỄ TƯỞNG NIỆM VÀ HƯƠNG ỔI

Vừa rồi tôi nhận được tin nhắn: “Bạn Hùng ơi! …Mình muốn bạn tham khảo cho mình một … Truyện ngắn! Bạn xem được không?”
Tôi “ok” và nói chị tự giới thiệu chút để tôi góp ý hay hơn, phù hợp hơn. Chị cho biết mình sinh 1950, là giáo viên, và “Mình thích viết và đang tập viết”.Thật đáng nể một người trên 70 như vậy mà còn đang “tập viết” và say mê văn chương như thế. Còn tôi hồi nhỏ chỉ thích khoa học tự nhiên, rất ghét học môn văn, nhưng rồi vào đời cả năng khiếu và sự đam mê văn chương mới dần dần bộc lộ. Nhưng tôi chỉ thích những cái tinh tuý, cao sâu, nên chỉ thích được rất ít văn chương người khác, ngay cả với những tác phẩm của những tác giả hàng đầu VN, các tác giả được Nobel, và cả những tác giả được coi là bất tử, vĩ đại trên thế giới. Tôi cũng lại không sống bằng nghề văn, vì vậy có lúc hứng lên tôi viết như điên, có lúc tôi lại muốn “quẳng mẹ văn chương chữ nghĩa đi”. Nghề văn là “viết lách”, tức viết phải luồn lách mới thành công, điển hình là cái thằng Nguyễn Quang Thiều. Nó ngoại giao rất khéo, duy nhất một lần ông Hảo chửi nó quá làm nó mất bình tĩnh, đã chửi lại, còn thì không bao giờ nó làm mất lòng ai. Một lần nó dẫn tôi đi ăn phở ở vỉa hè, với bà bán phở mà nó cũng trò chuyện thầm thà thầm thì. Tôi nghĩ, thằng này sẽ thành công bởi cái cách quan hệ như vậy. Còn tôi thì thích ai, và phải quý trọng tôi thì tôi mới chơi, còn không, dù bất cứ là thằng nào tôi cũng cóc cần. Đến chơi với Nguyễn Quang Thiều ở Báo Văn Nghệ, ông Hữu Thỉnh là Tổng Biên tập, là Chủ tịch Hội Nhà văn, ở ngay tầng trên, nhưng tôi không gặp lần nào. Rồi thú vị là có ngày chính Hữu Thỉnh phải gọi điện làm quen với tôi. Với một xã hội còn nặng chất phong kiến, tiểu nông, người như tôi tất nhiên là không thành công.Lẽ ra tôi không bị lún sâu vào giới văn chương với cái tính nết như vậy, nhưng đúng là cái số, thậm chí còn là sứ mệnh, nên cơ duyên cứ xô đẩy khiến tôi bị vướng vào cái lưới văn chương mà buồn là trong đó văn chương tinh tuý thì ít mà rác rưởi thì lại quá nhiều.
***
Giống chị độc giả nhờ tôi “tham khảo” truyện ngắn của chị, 40 năm trước, tôi cũng như vậy.
Sau khi tôi được Nhà thơ Anh Thơ tình cờ “phát hiện”, được cô khuyến khích, tôi đã xác định thái độ nghiêm túc với chuyện viết lách, đã nghiên cứu về lý luận và kỹ thuật viết, rồi viết một số tác phẩm. Tôi đã bất ngờ, cái chuyện tôi rất muốn nhưng không dám nghĩ đến nhưng nó đã xảy ra. Đó là văn chương của tôi sẽ được đọc và nhận xét bởi hai người được coi là thông minh nhất làng văn VN là Chế Lan Viên và Nguyễn Khải. Sau một thời gian ngắn quen cô Anh Thơ, vì bà thấy tôi “thông minh nhất trong số những người mà bà đã gặp” nên bà đã viết thư giới thiệu tôi đến nhà gặp cả CLV lẫn Nguyễn Khải. CLV sau khi đọc chùm thơ đầu tay của tôi, ông rất vui nói “được đấy”, rồi ông còn cho tôi giải thưởng luôn trong cuộc thi thơ của HNV TPHCM mà ông là một giám khảo. Còn với Nguyễn Khải, khi trả lời chị độc giả kể trên, tôi đã mang kỷ niệm thủa ban đầu đến với văn chương của mình ra để trả lời chị:
“Kỷ niệm của mình thì cái gì cũng quý nhưng với độc giả thì tuỳ. Tác phẩm cần có cấu trúc, có cốt truyện, cần dựng chuyện hơn là kể chuyện. Về truyện ngắn, chị đọc "Chiếc lá cuối cùng", truyện Mỹ, của O.Henry, là mẫu mực. Mỗi truyện ngắn, chị cần đặt mục tiêu viết về chuyện gì và viết như thế nào? Chuyện gì là xương sống tác phẩm, viết như thế nào là cách viết dẫn người đọc phải theo dõi hết cái chuyện ấy.
Hồi năm tám mấy, tôi gặp Nhà Văn Vũ Thị Thường (vợ CLV), bà có cho tôi cuốn “Sổ tay truyện ngắn” viết: “Cách viết giống như cơ thể con hổ phải không có chút mỡ thừa mới đủ sức mạnh để vồ mồi (mồi ở đây là sự chú ý của độc giả)”. Nói chung chung khó hiểu, từ từ tôi sẽ gởi cho chị vài truyện ngắn đầu tay của tôi làm dẫn chứng, từ mấy chục năm trước tôi đã đưa cho ông Nguyễn Khải đọc, có cái ổng bảo cả đời may ra mới viết được vài cái, có cái ổng bảo phải đọc đi đọc lại”.
Hôm nay tôi sẽ đăng lại Truyện “Lễ tưởng niệm” chính là cái truyện ngắn mà Nguyễn Khải đã nhận xét như trên, tôi viết năm 1984.
Nhớ lại hôm đó tôi đã mang thư của cô Anh Thơ và 3 truyện ngắn đầu tay đến nhà Nguyễn Khải ở bên Cảng Sài Gòn, trước khi đi tôi xé tờ lịch ghi “Hôm nay đi gặp nhà văn NK”, coi như một sự kiện của đời mình. NK rất niềm nở tiếp tôi, bảo để ông xem rồi hẹn ngày trả lời. Đúng hẹn, tôi quay lại nhà ông. Ông không chê truyện nào, chỉ nói ông thích nhất cái truyện “Lễ tưởng niệm”. Ông bảo:
- Một đời người viết may ra thì viết được vài cái truyện thế này. Công nhận cái gì có thật vẫn hay.
Tôi trả lời:
- Không phải thật đâu, em bịa đấy!
- Ồ, bịa như thế mới tài chứ!
Lần sau, tôi còn tặng Nguyễn Khải cuốn “Những dấu vết không phai”, mà lần gặp sau đó, ông bảo tính đọc để dỗ giấc ngủ nào ngờ đọc đi rồi lại phải đọc lại.
Truyện “Lễ tưởng niệm” tôi viết về cái viện của mình. Giờ có chị Lợi là dược sĩ, vợ anh Thái Thăng Long, mới kết bạn facebook, hồi đó chị là một trưởng phòng. Đọc truyện ngắn của tôi có thể chị nói tôi có nhiều cái xạo. Đúng thật, tác phẩm của tôi vừa là thật, vừa là xạo, ở chỗ, thật là ở viện tôi có người, có chuyện thật (như chuyện ông viện trưởng đi viện tưởng chết), nhưng để thành tác phẩm thì tôi phải xạo, tức phải hư cấu, dựng chuyện, xây dựng nhân vật với tâm tư, hình ảnh và hành động. Tôi đã trả lời Nguyễn Khải tôi “bịa” là vì như thế.
Truyện đó tôi viết về sự tham ác của con người, vì quyền lợi mà người ta mong người tài đức chết đi, xã hội cũng chính vì thế mà loạn! Giá trị vĩnh cửu là tính cảnh báo của truyện là thế.
25-2-2023
ĐÔNG LA
LỄ TƯỞNG NIỆM
(Truyện ngắn)


Ngay từ sáng sớm, khi tôi đang lúi húi làm thí nghiệm bỗng bà Kim, trưởng phòng cung tiêu, thư ký công đoàn viện, một người tướng đàn ông có dáng đi chữ bát ngửa hềnh hễnh lừng lững vào phòng. Bà hỏi tôi với vẻ sốt sắng:
- Làm gì mà cặm cụi một mình sớm thế cậu? Cô Nhạn đã đến chưa?
- Cô ấy đi họp ngoài Hà Nội cơ mà?
- À, thế mà tôi lại quên mất. Này cậu này, tôi báo cho phòng cậu biết một tin buồn: Ông Huấn chết rồi! Ông ấy bị ung thư dạ dày. Bệnh này mà để đến giai đoạn cuối phải đi cấp cứu như thế thì cậu bảo làm sao mà sống được! Anh Đức họp ngoài ấy đã điện cho tôi…
Trời ơi! Tôi không còn tin vào đôi tai của mình nữa, mặc dù tôi cũng biết lắm tình trạng nguy kịch của bác viện trưởng. Hôm ông đòi đi Bắc điều trị tại bệnh viện Việt Xô, thực ra không chỉ vì muốn được các giáo sư là bạn ông mổ, mà còn vì, nếu không qua khỏi thì ông muốn được chết trên quê. Thể trạng ông đã quá yếu. Hàng tuần lễ ông ăn cái gì vào cũng ói mửa hết. Trông ông không khác gì một thây ma gầy trơ xương, xám xịt. Và mới chiều qua thôi, khi nhận được điện, anh con trai đã cho tôi biết: Khi bác sĩ vừa rạch lớp da bụng, dạ dầy của ông chợt phồng tướng lên như chiếc bong bóng cao su của trẻ em khiến cho các bác sĩ chủ chốt phải tập trung lại hội chẩn. Tuy vậy, tôi vẫn còn hy vọng mong manh. Bởi người trực tiếp mổ cho ông là một giáo sư đầy kinh nghiệm, một nhà khoa học danh tiếng; chính ông đã đưa ra phương pháp cắt dạ dày hổng tràng đã được giới Y học thế giới đánh giá cao. Có lẽ nào… Việc bác viện trưởng mất đi, với chúng tôi, những kỹ sư mới của viện, không chỉ có tình cảm tiếc thương đơn thuần mà còn mất đi một chỗ dựa. Mất ông, chúng tôi có khác gì như rắn mất đầu. Một nỗi trống vắng bỗng tràn ngập lòng tôi. Tôi cảm thấy mình như một chú bé con trong đêm rừng sâu, theo một người thợ săn lành nghề, bất thần một con hổ nhảy ra vồ mất người thợ săn ấy.
Tôi chưa kịp hỏi lại cho rành rẽ câu chuyện thì bà trưởng phòng cung tiêu đã đi ngay, dáng vội vã. Có một vẻ gì đó rất tích cực, sốt sắng trong bộ dạng của bà ấy. Bà ta vốn là một dược tá, cũng dân Bắc đi B đàng hoàng, cùng cơ quan với ông viện phó hồi ở rừng. Vì thế, tất nhiên bà ta thuộc phe ông viện phó.
Nghĩ mà thương bác viện trưởng quá. Cuộc đời ông với bao tâm huyết mà gần như ông chưa làm được việc gì trọn vẹn. Ông kể:
“Có thời tớ đi xây một nhà máy tại Việt Trì, xây gần xong thì mấy thằng phi công Mỹ lại tặng cho mấy quả bom, thế là xong. Đểu thế!”. Rồi: “Có hồi xí nghiệp mình, có cậu làm công đoàn mình bồi dưỡng cho thành anh hùng. Thành anh hùng rồi cậu ấy lại chơi lại mình. Trò đời đúng là hay thật”. Khi thành lập viện này, ông mừng lắm. Chính phương án thành lập viện là của ông. Nghe nói nước ngoài còn viện trợ hàng mấy triệu đô để ông thực hiện nó. Có lần ông nói: “Cậu có biết trong chuỗi phản ứng bán tổng hợp từ Diosgenin có một phản ứng phải cần đến công nghệ sinh học không? Công nhận mấy con vi khuẩn hay thật, có bao nhiêu vị trí trên cái khung steroidmà nó lại gắn đúng cái nhóm chức mình cần vào đúng cái vị trí mình cần! Hay thật”.
Ông đã gần 60 tuổi. Đối với các nhà khoa học làm việc chủ yếu bằng kinh nghiệm và trí tuệ thì tuổi này còn đang xoan. Nhưng sức khỏe ông lại không được tốt. Căn bệnh dạ dầy đã gặm mòn cơ thể ông. Có lẽ việc thành lập viện, rồi ông được về làm viện trưởng sẽ là cơ hội cuối cùng để ông thực hiện những ước nguyện của cuộc đời mình. Không ngờ…
- Cậu này!
Tôi giật mình. Mải suy nghĩ nên tôi không biết bà trưởng phòng cung tiêu đã quay lại. Bà tiếp:
- Cậu này, lúc nãy tôi quên mất không nói, tôi muốn cậu đi đặt cho cơ quan một cái vòng hoa lớn. Cậu ra ngoài chỗ Lê Lợi ấy, ngoài đấy có nhiều lắm. Nhớ đi ngay rồi về. Chiều nay công đoàn họp bàn kế hoạch làm tang lễ cho ông ấy. Chiều nay anh Đức cũng đã về, xem binh tình ra sao. Mai cơ quan sẽ tổ chức.
Nói rồi bà xăng xái bỏ đi ngay.
Tôi không nhớ là mình có nhận lời không, chỉ thấy khi nhìn vào đôi mắt ti hí, dưới đôi mi mắt nhẵn bóng, hùm hụp của bà ấy, tôi không chịu được. Không biết có phải do có thành kiến hay không mà tôi nhìn thấy một nụ cười mỉm, một niềm vui man rợ trong cái vẻ trang nghiêm của bà ta. Một con người mà trí tuệ thì rất nghèo nàn song thủ đoạn lại hết sức giầu có. Ai cũng biết, sau lần bác viện trưởng phát biểu: “Tôi chỉ muốn mọi người cùng nhau làm việc hết mình để sớm đưa ra được những quy trình tối ưu. Tôi nghĩ chính cái quy trình sản xuất sẽ sắp xếp đúng đắn vị trí của từng người”. Bà ta đã tỏ ra rất hằn học. Nếu ông viện phó là tổng chỉ huy thì bà là một chiến tướng hùng hổ nhất trong vụ đấu đá này. Bà đã tụ tập tất cả những nhân vật mà bộ máy hành chính cồng kềnh của thời ông Đức từng đẻ ra, những người có nguy cơ không giữ nổi chiếc ghế của mình vì không tìm được chỗ đứng trong cái quy trình nghiêm khắc và khó tính kia. Bà đã tổ chức một cuộc họp công đoàn, thực chất là họp với quân của bà, rồi đưa ra một bản tố cáo bác viện trưởng gồm 10 điểm với rất nhiều chữ ký. Sau đó lại còn kiến nghị với bộ, đưa viện nghiên cứu này trở lại là xí nghiệp sản xuất như cũ.
Không biết có phải tại việc làm độc hại này cùng với việc một người con bị tai nạn của bác mới bị mất đã tiếp tay với căn bệnh ung thư quỷ quái giết chết bác viện trưởng hay không? Ông đã vĩnh viễn ra đi, mang theo bao dự định dở dang và những tâm sự nặng nề…
Tôi chợt nhớ đến việc bà trưởng phòng cung tiêu nhờ, mà tôi cũng muốn mình được làm công việc này. Trong mấy đứa về viện ông có gần gũi với tôi hơn. Bà vợ ông thì quý tôi ra mặt. Bà không đến viện bao giờ, cũng không biết chúng tôi làm gì, nhưng đi đâu bà cũng tuyên bố tôi là đứa giỏi nhất viện. Khi người ta có cảm tình với ai thì rất dễ có thiên vị. Tôi xuống phòng đọc tài liệu ở tầng dưới, nói với mấy đứa phòng tôi đang đọc sách:
- Bác Huấn mất rồi! Bà Kim phòng cung tiêu đã báo cho tớ thế.
- Ổng bị bao tử, sao mất được? - Nghiêm ngạc nhiên.
- Trời ơi! Tội nghiệp bác ấy quá! - Thư kêu lên.
Tôi rủ Công:
- Bà Kim nhờ tao đi đặt một cái vòng hoa lớn, tao với mày đi đi.
Công đồng ý. Hai đứa chúng tôi chở nhau ra đại lộ Lê Lợi. Đến nơi, chúng tôi thấy bên những ki-ốt bán cá cảnh, cây cảnh, người ta bày bán rất nhiều vòng hoa. Một bà đang kết hoa, khung và vòng ngoài cùng là những cành đủng đỉnh, cành măng màu xanh rất tươi, phía giữa là đủ các loài hoa rực rỡ. Bà ấy nói với chúng tôi, nếu người mất mà chưa có gia đình thì kết một vòng toàn cúc trắng, còn đã có rồi thì lấy vòng nhiều màu cũng được. Tôi đặt bà kết một vòng thật lớn, nhưng chỉ có hai mầu thôi, gồm những vòng bông màu trắng xen kẽ những vòng bông màu đỏ. Tôi tự gán cho chúng những ý nghĩa. Màu trắng tượng trưng cho cuộc đời trong sạch, thanh khiết, còn mầu đỏ tượng trưng cho cuộc đời say mê làm việc, suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp của bác viện trưởng. Thỏa thuận xong chúng tôi về viện.
Về đến nơi, tôi thấy chị bí thư chi đoàn đang chỉ huy mấy người chuẩn bị phông màn, cắt chữ, lồng ảnh… trang trí cho buổi lễ tưởng niệm. Bà Kim thì đi đi lại lại, lúc chỗ này, lúc chỗ khác, luôn giữ vẻ mặt nghiêm trang của một chủ tang gia. Bà nói với bí thư chi đoàn:
- Cô Tuyết này, phải chừa sẵn chỗ cho các nơi họ đến đặt vòng hoa, phải kiếm một cái bình nhang lớn. Khoa học khoa khiếc gì thì cũng phải có hương có khói chứ.
Đến chiều, chúng tôi đi lấy vòng hoa về, để tạm trên một chiếc bàn. Bà Kim trông thấy liền nói:
- Sao các cậu không đặt làm một cái nhiều mầu cho nó đẹp, lại chọn cái chỉ có hai mầu chòng chọc như thế này!
Chúng tôi im lặng không nói gì.
Sau đó, với tư cách thư ký công đoàn viện, bà triệu tập một cuộc họp gồm một số cán bộ hành chính, cán bộ đoàn thể và mấy đứa nghiên cứu chúng tôi.
Bà nói:
- Tôi xin thông báo cho anh chị em được rõ, hôm qua anh Đức ngoài Hà Nội đã điện cho tôi biết là tình hình đồng chí viện trưởng rất xấu, đồng chí đã bị ung thư rất nặng, đã ở giai đoạn cuối, nên đã không qua khỏi. Đơn vị chúng ta là cơ quan đầu ngành, lại là viện nghiên cứu, nên tôi muốn chúng ta tổ chức một lễ tang thật long trọng để tưởng niệm đồng chí viện trưởng, một nhà khoa học đã có nhiều công lao đóng góp cho sự phát triển của ngành Dược chúng ta. Cũng là để cho các xí nghiệp họ nhìn vào. Tôi muốn chúng ta chuẩn bị sẵn sàng, đâu vào đó, chỉ lát nữa anh Đức sẽ ở ngoài Hà Nội vào, ảnh sẽ chỉ đạo thêm. Tôi đã cho lái xe đi đón ảnh…
Bà ấy nói rất nhiều, rồi một số người phát biểu này nọ. Tôi chán không muốn nghe, thấy trong lòng trĩu nặng. Tôi nhận thấy vẻ côi cút trên khuôn mặt bạn bè. Rồi thời gian sẽ trôi đi vào trong lãng quên của người đời, nhưng tôi tin là sẽ có không ít người vẫn giữ được những kỷ niệm sâu nặng về những ngày làm việc cùng ông. Trong lòng tôi cũng dậy lên niềm chua xót khi nhận thấy có những bộ mặt trang nghiêm giả tạo, vẻ buồn đau giả tạo. Ánh mắt họ chạm nhau đầy ẩn ý.
Chợt tôi thấy phía sau lưng, ngoài hội trường, có người đi vào. Tôi quay lại thì thấy ông Đức và cô Nhạn, trưởng phòng của chúng tôi. Hai người mới ở sân bay về, mặt cô Nhạn còn đỏ lịm vì nắng. Thấy tôi, cô ngạc nhiên hỏi:
- Trời đất! Cơ quan có chuyện chi vậy em?
- Công đoàn họp bàn, chuẩn bị làm lễ tưởng niệm bác Huấn, cô.
Tôi thấy vẻ mặt cô vô cùng ngạc nhiên. Còn ông viện phó thì lẩm bẩm:
- Trời ơi! Thế này thì bả giết tui rồi!
Tôi ngạc nhiên chưa hiểu chuyện gì thì thấy cô Nhạn đi rất nhanh lên phía trên hội trường. Tôi thấy mặt bà trưởng phòng cung tiêu chợt biến sắc. Bà lúng túng trong miệng câu gì đó. Cô Nhạn cầm micro nói lớn:
- Tôi xin báo cho anh chị em biết một tin mừng. Đồng chí viện trưởng của chúng ta vẫn còn sống. Tuy phải cắt gần hết bao tử trong lúc thể trạng vô cùng nguy kịch, chết đi sống lại nhiều lần, tin ảnh chết quả là có lan ra ngoài thật nhưng thực tế đến nay ảnh vẫn còn sống. Với sự tận tình cứu chữa của những giáo sư là bạn của ảnh nên ảnh đã qua khỏi. Với những phương pháp điều trị rất mới, các giáo sư nói ảnh sẽ về làm việc bình thường nay mai. Sức khỏe sẽ còn khá hơn trước nhiều nữa. Bữa nay, trước khi lên máy bay, tôi có đến thăm ảnh. Tuy không được gặp vì ảnh còn nằm phòng cách ly, nhưng…
Tôi đang sung sướng lắng nghe thì lại thấy có tiếng ai đó đang lầm bầm sau lưng:
- Làm sao lại như thế anh?
- Thì tôi mới điện ổng bị ung thư nặng, chắc chắn là chết, chớ nói ổng chết hồi nào!
- Nhưng… nhưng… anh cũng còn nói cứ chuẩn bị là vừa…
- Thôi đi, thôi đi… Tôi nói chuẩn bị là chuẩn bị tinh thần chứ ai bảo bà làm như vầy!
Tôi quay lại thì nhìn thấy hai bộ mặt đang cúi xuống, bì bì. Một bộ mặt vuông chữ điền xám xịt của bà trưởng phòng cung tiêu, bên cạnh, trên một thân hình loắt choắt, là một bộ mặt trắng bủng xanh mét hình tam giác của ông viện phó. Trong câu chuyện này, có thể công nghệ viễn thông còn yếu kém có lỗi một phần. Nhưng tôi vẫn rất ngạc nhiên trước hành động của họ.
Tôi bỗng cảm thấy ghê tởm những con người này, bởi niềm vui và nỗi buồn của họ cũng nguy hiểm và độc hại như những hành động mà họ gây ra. Chính chúng là những động lực cho những hành động ấy.
Lúc này, phía trên hội trường, tấm phông đã được kéo lại. Mấy cô kỹ sư trẻ của phòng tôi thì đang tranh nhau xé tung vòng hoa, chia hoa cắm vào mấy cái erlen thủy tinh thành những bình hoa nhỏ. Anh chàng quản đốc phân xưởng sản xuất thử đang hét tướng lên, đòi viện phó chi tiền mua thuốc lá, bánh kẹo về liên hoan.
Còn tôi, trong niềm vui vô bờ, sao vẫn cứ dậy lên, dậy lên một nỗi buồn xót xa.
TPHCM
Viết 6/1984
ĐÔNG LA

HƯƠNG ỔI
(Trong cuốn Những dấu vết không phai)
Mẹ tôi có một người em họ, con cô con cậu, mà chúng tôi gọi là “dì Dạm”, nhà ở tận xóm trên. Dì có một đứa con trai kém tôi vài tuổi, tên là Bình. Chúng tôi vẫn thỉnh thoảng đi chơi với nhau. Người nó cao gầy, tóc thì quăn quăn, da rất trắng.
Mùa thu ấy, vào một buổi chiều, tôi đang câu ếch ở ao bèo bằng hoa mướp thì thấy thằng Bình đến. Nó nói:
- Anh Huy! Em đánh mấy cái rọ cá rô ở ruộng lúa bên Nghè ông Bí, mình đi nhấc đi. Anh câu thế này thì đến bao giờ mới được ăn.
Tôi đồng ý ngay, liền về nhà xin phép mẹ. Mẹ tôi nói:
- Đi thì nhớ mà về. Chúng mày hay la cà, tắm sông, tắm ngòi, chuột rút là chết đuối đấy, nghe không!
Chúng tôi theo nhau ra cánh đồng sau làng.Ở quê tôi có một câu nói: “Cá rô tháng tám chả dám bảo ai”, nghĩa là cá rô tháng tám rất béo, rất ngon, có ít thì giấu đi mà ăn. Quả đúng nhưvậy. Mùa thu, những ruộng lúa trổ bông, hoa lúa rơi trắng mặt nước đã vỗ béo đàn cá. Bây giờ tôi đã là kỹ sư, là dân của thành phố mang tên Bác, đã được thưởng thức đủ món của ngon, vật lạ được nấu nướng cầu kỳ, tại những nhà hàng sang trọng, nổi tiếng, thế nhưng tôi vẫn không bao giờ quên được nồi canh cá rô nấu rau cải có trứng cá nổi vàng trên mặt ở vùng quê tôi. Quê tôi cũng có câu nói về những thực phẩm có hương vị đặc biệt “Gan gà, tiết vịt, trứng cá rô”. Cách bắt cá rô ở quê tôi cũng rất khoa học. Người ta khoét một cái vũng nhỏ dưới ruộng, cho thóc đã ngâm chua vào, úp rọ lên; cá rô rất khoái cái món đó chui vào ăn, ngoi lên thở là bị chui vào rọ.
Nghè ông Bí là một khu đất có nhà ông Bí, ở cánh đồng sau làng tôi. Hồi nhỏ, lũ trẻ con ở những xóm gần cận không thể nào không liên quan đến khu đất như ốc đảo đó. Nhất là những trưa hè nắng gắt, chính nó đã xòe ô che cho tuổi thơ lũ chúng tôi. Đặc biệt, khu đất có dấu tích của những công trình cổ mà hồi nhỏ chúng tôi không chú ý lắm và cũng không có ai nói rõ nguồn gốc. Mãi sau này, khi bản Ngọc phả Thành Hoàng làng được tìm thấy sau bao năm lưu lạc, tôi mới biết. Lúc mới tìm thấy nó, chẳng có ai ở làng đọc được cả. Thế rồi, dân làng đã chuyển bản Ngọc Phả ấy đến tay tôi với một nhiệm vụ trọng đại, tìm một chuyên gia dịch bản Ngọc phả đó. Với người bình thường đúng là một việc khó khăn nhưng tôi lại hoàn thành nhiệm vụ của dân làng giao nháy mắt là xong, chỉ mất một bữa nhậu. Đơn giản là vì tôi rất thân với một ông nhà văn mà trong giới gọi là “Bách khoa Toàn thư” ( Hoài Anh – ĐL ghi chú), rất giỏi chữ nho. Thì ra “Đằng Nghè”, tên dân làng gọi khu đất ở cánh đồng phía sau làng, chính là hành cung của vị Thành Hoàng làng tôi; một vị tướng của Trần Hưng Đạo, sau chiến thắng giặc Nguyên, đã được phong đất gần với con cháu của Ngài ở phía Từ Ô, giáp với Ân Thi, Hưng Yên. Mà đúng là do duyên khởi, ông nhà văn dịch giúp bản Ngọc Phả lại chính là hậu duệ nhà Trần, nên trước đó rất lâu, có lần ông đã hỏi tôi: “Ông ở Hải Dương có biết vùng đất Từ Ô không?”.
Đến ruộng lúa bên gò đất, tôi theo thằng Bình xuống nhấc rọ. Tới gần mỗi chiếc, chúng tôi đều thấy bọt túa ra xung quanh, nhìn bên trong thì thấy cá rô lúc nhúc, đều đỏ hoét vì húc vào nan rọ. Có mấy chiếc mà chúng tôi bắt được đến gần trăm con cá. Chúng tôi khoan khoái nằm xoài trên một bãi cỏ, nghỉ. Bầu trời mùa thu xanh ngăn ngắt, cao lồng lộng. Liệu có một nơi nào đó trong cái mênh mông, xanh thẳm kia có những chiếc rọ cá rô như chúng tôi không nhỉ? Chợt chúng tôi thấy trong làn gió nhẹ của đồng nội có phảng phất hương ổi. Đúng rồi! Những cây ổi trên gò đất “đằng Nghè” đã có ổi chín. Thằng Bình liền rủ tôi:
- Hái ổi đi anh Huy! Mình chui ở ruộng lên, ông Bí không biết đâu.
Tôi đồng ý, nhưng trong bụng vẫn áy náy. Cha tôi thường nói “ăn cắp là một trong những tật xấu nhất của con người”. “Một vài quả ổi con thì ăn thua gì !”, tôi đã tự trấn an như vậy. Lên gò, chúng tôi thấy có rất nhiều ổi chín. Nhiều quả đã bị chào mào khoét, rơi cả xuống đất. Mặt gò cỏ mật mọc rất rậm. Cả không gian dâng đầy một thứ hương thơm ngát, được trộn bởi hương ổi và hương cỏ mật. Nhưng tự dưng tôi bỗng cảm thấy chờn chợn. Hình như linh tính kỳ lạ đã báo cho tôi biết sẽ có một điều không may xảy ra: “Sẽ bị ông già bắt chăng ?” hay “bị ngã gãy tay ?”. Tôi chợt nhớ tới lời mẹ tôi dặn trước lúc đi nên định ngăn thằng Bình lại, nhưng những quả ổi lại có sức quyến rũ quá! Ôi, những quả ổi quê tôi! Chúng tuy nhỏ nhưng thơm và ngọt biết bao!
Thằng Bình đã đến gần một cây ổi, chuẩn bị trèo lên, chợt tôi thấy nó kêu thất thanh:
- Á! Anh Huy ơi, rắn!
Vừa sợ rắn, vừa sợ ông Bí phát hiện, chúng tôi vội quay ra, ôm rọ cá, chạy biến. Nhưng chạy được một lúc, tôi quay đầu lại thì thấy thằng Bình đã tụt lại một quãng xa. Tôi vội chạy quay lại bên nó, thì trời ơi, tôi thấy da mặt nó tái mét. Nó thở hổn hển một cách rất khó nhọc, rồi từ từ khuỵu xuống! Tôi biết là nó đã bị rắn độc cắn. Cõng nó chạy thì không đủ sức, tôi đành cắm đầu chạy một mạch đến trạm y tế báo cho cha tôi biết. Cha tôi là y sĩ, trưởng trạm. Được tin, cha tôi vội vàng vặt một nắm rau răm, lấy chai rượu thuốc có ngâm con rệp, rồi nhảy lên chiếc xe Liên Xô, mà chúng tôi vẫn gọi là xe “trâu”, đạp nhanh. Tôi cắm đầu chạy theo. Đến chỗ thằng Bình nằm, tôi kinh hoàng khi thấy mắt nó trợn ngược, miệng sùi bọt, da mặt thì tím ngắt. Cha tôi vừa đổ thuốc vào miệng nó vừa lấy dao khía vết thương ở chân để nặn máu độc. Nhưng đã quá muộn, nó đã ngừng thở nên không nuốt được, thuốc cứ tràn ra ngực.
Sau đó không biết ai đó đã lấy một tấm chiếu đắp lên mình nó. Người ta không dám đưa nó về nhà vì lo cho dì tôi. Thật tội nghiệp, bà đã ngất đi sau khi nhận được cái tin dữ dội ấy. Còn chú thì đang ở chiến trường. Sau ngày giải phóng ở nhà mới biết, chú cũng đã hy sinh!
Sau buổi chiều dữ dội ấy, nhiều đêm liền tôi không tài nào chợp mắt được. Trái tim non trẻ của tôi đã chịu một nỗi đau quá lớn. Hình ảnh thằng Bình, thằng em tôi, mắt trợn ngược, miệng sùi bọt, da mặt tím ngắt cứ hiện lên trong đầu tôi. Chính nó đã rủ tôi đi hái ổi, nhưng tại sao, tại sao tôi lại không ngăn nó, khi đã cảm thấy một điều không hay sẽ xảy ra. Có phải vì tôi đã tham ăn, đã vì những quả ổi chết tiệt ấy không ?
Viết tại Phú NhuậnTPHCM
9-1986
ĐÔNG LA