ĐÔNG LA
BÀN THÊM VỀ THƠ SIÊU THỰC
Gần đây tôi có đăng
bài “Biên độ của trí tưởng” tham gia diễn đàn thảo luận về thơ Trẻ của
báo Văn Nghệ Trẻ. Sau đó có vài người phê phán tôi hiểu sai về thơ siêu thực.
Tôi muốn viết thêm đôi điều.
Thực
tế, trên diễn đàn văn chương đã có khá nhiều người viết hoặc nhắc tới thơ
siêu thực. Nhưng hiểu về nó không phải đã nhất quán. Riêng anh Trần Mạnh Hảo
cũng đã dấy lên những cuộc tranh luận: “thơ muốn siêu trước hết phải thực đã,
đi tới tận cùng cái thực sẽ đạt được cái siêu”. Hàn Vũ Hùng phản đối: “Nếu
tôn trọng cái logic của sự thực thì siêu thực thế quái nào được”; anh Đỗ
Minh Tuấn cũng tham gia: “Chúng tôi chỉ muốn trao đổi vắn tắt với nhà thơ Trần
Mạnh Hảo rằng, không nên quan niệm “muốn siêu thực, thơ phải đi tới tận cùng, tới
đầu mút của hiện thực cái đã”. Chủ nghĩa Siêu thực và chủ nghĩa Hiện thực là
hai phương pháp sáng tác xây dựng trên những nền tảng triết học và mỹ học hoàn
toàn khác nhau... không nên nghĩ rằng muốn bay như chim phải bò thật giỏi như
bò sát đã”. Riêng tôi cũng đã có viết một số bài có đôi nét nói đến thơ siêu
thực.
Với
tôi, sự quy kết đúng sai của người này người nọ khi chưa hiểu thấu đáo những ý
tưởng của mình, tôi không bận tâm lắm; mà sự hiểu biết lơ mơ, mỗi người một kiểu
về những tri thức có tính nền tảng, khiến tôi thực sự e ngại. Bởi chỉ có thể định
giá đúng khi dựa trên môt nền tảng tri thức sâu rộng và đúng đắn. Và, chỉ có định
giá đúng mới thúc đẩy được sự phát triển mà thôi.
Vì
vậy, tôi buộc lòng phải viết lại đôi điều về
chủ nghĩa Siêu thực và cũng để xem lại một số ý kiến đã phê phán
tôi.
Trước
hết, tại sao có sự hiểu biết khác nhau về thơ siêu thực khi người ta đã bàn nhiều về nó? Người thì cho siêu thực nghĩa là cái gì đó cao siêu,người
thì cho là những gì hư ảo, ma quái… Có lẽ bởi chính nó là một vấn đề trừu tượng
và phức tạp. Ta đã có những giáo trình, nhưng hình như mới chỉ dừng lại ở mức độ
liệt kê có tính văn học sử trong dòng văn chương suy đồi. Người ta bàn
luận, tranh luận về nó nhiều, nhưng hình như ở ta chưa có bài phê bình thơ siêu thực thuần tuý nào, ngay cả về thơ
của những người sáng lập ra trường phái này, để có thể chỉ ra những đặc tính
siêu thực và bình giá chúng. Chế Lan Viên viết về Hàn Mặc Tử có nhắc tới,
nhưng cũng mới chỉ là nói phớt qua về “yếu tố siêu thực”. Nói chung, người
biết thì nhiều, nhưng người hiểu được tường tận thường ít. Ngay như khái niệm “chủ
nghĩa lãng mạn”, theo Trần Đình Sử, cũng có tới 28 cách hiểu!
Chữ suréalisme (chủ nghĩa siêu thực) do G.Apollinaire đề
xuất năm 1917 cũng có tính quy ước, bởi trước đó ông đã đề nghị chữ surnaturalisme, nhưng không dùng vì chữ này các nhà triết học đã
dùng rồi. Cơ sở lý luận của chủ nghĩa Siêu thực,
như đã nói nhiều, được xây dựng trên một nền tảng có “thế chân vạc”: Phân tâm học của S.Freud; thuyết trực giác của H.Bergson;
thuyết tương đối của A.Einstein. Đầu thế kỷ, Freud đã phát minh ra vô thức, một tầng tâm lý chìm sâu chi phối mọi chuyện mà ý thức con người
không nhận biết được; một trong những biểu hiện của nó chính là những giấc mơ.
Thuyết Trực
giác coi việc nhận thức bằng trực
giác để đối lập với nhận thức lý tính, tư duy logic. Những điều này đã khiến Breton
cho rằng, thơ ca đích thực chính là sản phẩm của quá trình tâm lý này, đó chính
là những hình ảnh giống như trong mơ, xuất hiện một cách tự động, ngẫu nhiên,
phi logic, không qua sự kiểm soát của lý
trí. Sau đó các nhà cách mạng siêu thực còn tìm thấy ở những cuộc cách mạng lớn của khoa học xảy ra đồng
thời một cơ sở khoa học cho quan điểm nghệ thuật của mình. Khi Einstein chứng minh được rằng, khả năng nhận thức thế giới
của các giác quan con người vô cùng hạn hẹp và đầy định kiến sai lầm, tất cả
không có gì là tuyệt đối như chúng ta vẫn tưởng; mà cả không gian, thời gian,
kích thước mọi vật thể đều bị biến đổi
theo chuyển động và không gian quanh các thiên thể đều bị uốn cong, ông
từng viết: “Bản
chất của cái thế giới đích thực không phải như ta tưởng”. Thêm nữa Cơ học lượng tử cũng cho thấy rằng, sự chuyển động của các hạt vi mô cấu tạo nên muôn
loài muôn vật của thế giới chúng ta lại là quá trình có tính bất định. Vì thế,
các nhà siêu
thực cho rằng: Định luật ngẫu nhiên mới
chính là định luật bao trùm mọi định luật.
Câu thơ của Lautréamont được coi là một trong tính chất chủ yếu của chủ
nghĩa Siêu
thực: Đẹp như một cuộc gặp gỡ
tình cờ của một cái máy may với một cây dù trên bàn mổ.
Từ những cơ sở lý luận đó, nhiều tác phẩm kỳ dị
của chủ nghĩa Siêu thực ra đời. Dali vẽ những hình ảnh không có
trong tự nhiên. Delvaux vẽ những
cô gái chân là gốc cây, Magritte
vẽ con cá mà thân dưới là người đàn bà… Tương tự, Breton làm những bài
thơ với những hình ảnh không hề có trong đời thực. Bài “Tự do kết hợp” (L’Union
libre) như một tuyên ngôn bằng thơ về thơ siêu thực của ông,
trong đó ta thấy rất rõ tính gán ghép kỳ lạ, sự liên tưởng đa chiều và tất
nhiên là không thể có trong đời thực. Ông tả cái lưỡi : vừa bằng hổ phách và thủy tinh, lại cũng
có thể bằng bánh thánh. Hình dáng người đàn bà : vừa như đồng
hồ cát, lại cũng như con rái cá ...
Vợ tôi có mớ tóc của lửa
gỗ...
Có vóc hình của
đồng hồ cát
...có vóc hình con
rái cá trong hàm răng con hổ.
(Tự do kết hợp,
Quỳnh thư Hiên dịch)
Nếu trong Tự do kết hợp của A.Breton
giàu tính gán ghép kỳ lạ thì trong Tận thế (La fin du monde) của
P.Éluard lại có sự cụ thể hóa những cái trừu tượng. Ông đã nhân cách
hóa ngày tận thế, gọi là no
(elle) :
Những con mắt thâm quầng theo cách của
những
lâu đài hoang tàn
Một con đường ngầm sâu
và cái nhìn mới
đây của nó
Qua một tiết trời hoan lạc
của mùa xuân
Khi những bông hoa điểm
trang mặt đất
Sự từ bỏ tất cả này.
Tận the (Quỳnh Thư Hiên dịch).
Ở đây có một chuyện thú
vị về chuyện dịch, nó liên quan đến chuyện khó hiểu của thơ, mà cũng không ít
người coi sự khó hiểu là một tính chất
cao siêu. Tôi thì không quan niệm đơn giản như vậy. Ta không nên lầm lẫn giữa
hai điều khó hiểu : một do chính sự cao
siêu (thí dụ như những tri thức cao cấp, những tư tưởng trừu tượng, cao
sâu, độc đáo...), còn một chỉ do sự “tung hỏa mù”. Tôi tin là, không thể
chỉ bằng những thao tác ngôn ngữ lập dị mà có thể biến được một điều bình thường
thành điều cao siêu. Đoạn thơ trên có câu thứ hai dịch không sát nghĩa
khiến cho cả đoạn hoàn toàn khó hiểu: “Une
bure de ravins entre elle et son dernier
regard: Một con đường ngầm sâu và cái nhìn mới đây của nó”. Câu dịch
đã lược bỏ những yếu tố chính nên đã biến
nó thành một sự liệt kê bâng quơ đơn giản
và vô nghĩa, không nói lên cái gì cả : Con đường ngầm va cái nhìn mới
đây. Thực chất ý của tác giả muốn nói
con đường ngầm sâu ấy đã ngăn
giữa ngày Tận thế với cái
nhìn sau cùng của nó. Ngày tận thế, với con mắt của lâu đài
hoang tàn, với cái nhìn sau cùng, qua một vực thẳm cách ngăn,
về phía mùa xuân, về hoa... Như vậy, ta
thấy ý tưởng của P.Éluard cũng được thiết kế khá mạch lạc...
Phải chăng, sự khó hiểu của thơ siêu thực nói riêng, thơ dịch nói chung,
một phần là do chính cái sự dịch?
Trở
lại bài viết Biên độ của trí tưởng, tôi đã nhấn mạnh rằng, tôi “không
viết về toàn bộ thơ trẻ, không định giá thơ trẻ, mà chỉ nói đến đôi điều khác
biệt rõ nét nhất”, nhưng cũng là “cái khác có tính biện chứng, trong
khác có giống, trong giống có khác”.
Sự khác biệt tôi đã đưa ra là: sự thiết kế ý tưởng và tính
siêu thực cao hơn (so với thơ giai đoạn trước). Có tác giả phê là: “...Hai
đặc tính... có vẻ hấp dẫn đấy, nhưng khi
anh đưa ra dẫn chứng thì chính dẫn chứng
đã phản anh”. Thực tế bài viết của tôi có nhiều dẫn chứng hơn nên rõ ràng hơn,
chặt chẽ hơn. Nhưng anh Nguyễn Quang Thiều bảo phải cắt đi, vì anh ấy làm biên
tập mà tôi lại trích dẫn thơ anh ấy thì kỳ quá. Bàn luận những vấn đề có tính học
thuật nghiêm túc, khó khăn, mà bị câu nệ vào điều này điều nọ thì thật khó cho
người viết, vì sự khác biệt rõ nét trong sáng tạo không nhiều.Tôi đã dẫn bài Bầy
chó của tôi của Nguyễn Quang Thiều
và bài Tấm thảm của tôi. Nguyễn Quang Thiều dựng lên đàn chó cắn xé
tranh giành nhau là nói về sự đấu tranh sinh tồn. Tôi vẽ lên một tấm thảm
là nói về những buồn vui của cuộc đời. Tôi nói sự thiết kế ý tưởng
qua cách dựng các hình ảnh tượng trưng là như thế. Nói cụ thể về một điều
gì đấy, ta chỉ nói được một ý ấy, nhưng nếu nói một cách tượng trưng một
điều gì, ý tưởng sẽ được mở ra nhiều chiều. Tất nhiên, làm một bài thơ ai cũng
có ý, có tứ, nhưng ý tứ trong rất nhiều
bài thơ thường được diễn giải, bộc bạch theo mạch cảm xúc một cách trực tiếp, được
trải theo vần điệu, nhiều khi bị chính những vần điệu khống chế một cách khiên cưỡng. Sự Việt hóa thơ dịch, mà
nhiều dịch giả thường cho là dịch thơ, cũng thường mắc phải lầm lỗi này,
nó đã vô tình tầm thường hóa các nguyên
tác. Tôi từng rất ngạc nhiên khi không tài nào thích được thơ của những nhà thơ
lớn mà cả thế giới ngưỡng mộ. Nhưng đến khi được đọc bản dịch nghĩa chứ không
phải bản dịch thơ thì ngược lại. Thì ra cái sự dịch thơ kia đã vo tròn, cắt gọt
hết phong cách ngôn ngữ, cách biểu đạt ý tưởng của nhà thơ. Thật tai hại khi đến
giờ mà vẫn còn rất nhiều người cho rằng, tính thơ chính là tính vần
điệu, êm êm, đều đều ấy. Thơ đích thực, nhất là thơ hiện đại, không phụ thuộc
vào những hình thức sơ khai ấy. Thời đại ngày nay, khi ta sống trong một nền văn
minh cao hơn, tiếp cận những thành tựu tri thức cao hơn, thơ ca cũng phải có những
thuộc tính cao hơn. Cuộc đời đầy hạnh phúc êm đềm, nhưng để đạt được cái êm đềm,
người ta thường phải vượt qua những bão tố. Thơ ca chính là những khoảnh khắc
tâm trạng, giai điệu của nó không thể chỉ là êm êm, trong khi cuộc đời sinh ra
nó lại đầy sôi động. Nó phải như những ngọn roi đầy ấn tượng quất vào sự bình
thản, vào sự thờ ơ của con người. Sự thiết kế mà tôi đã nêu
trong thơ Trẻ chính là sự thiết kế những ấn tượng ấy, nó chính là sự “mã
hoá” cảm xúc của thơ ca. Trong đó có tăng cường “tính lãnh đạm thẩm mỹ,
có sự “giao nhiệm vụ”cho từng hình ảnh, từng đối tượng của thơ. Như
thế, những tầng ý tưởng sẽ được gợi mở chứ không bầy sẵn lồ lộ. Như vậy, một người
không cần thông minh lắm cũng nhận ra được những phần khác biệt mà tôi đã phân
tích. Mà trong bài viết, tôi cũng chỉ nói những điều tôi đưa ra là khác, chứ không hề bảo là cao siêu
hơn, hay bảo thơ trước là không hay đâu! Có tác giả đã hiểu sai cách nói
mềm dẻo của tôi, biến những ý nghĩa tương đối thành tuyệt đối, nên có những câu
phê phán không đúng như : “Những gì khác với thơ trẻ anh bảo là thơ vịnh”...
Về
tính siêu thực của ngôn ngữ thơ Trẻ, hay dở còn phải bàn, nhưng sự hiện
diện của nó đã là hiển nhiên. Nhưng tác giả nói tôi “đề cao thơ siêu thực”
thì không phải. Ngay từ đầu bài viết tôi
đã nói đến sự cực đoan của nó. Tôi cũng còn hiểu, chủ nghĩa Siêu thực
chủ trương đứng ngoài thiên kiến thẩm mỹ và đạo đức, “Đẹp là gì? Xấu
là gì? Vĩ đại, hùng mạnh, yếu đuối là thế nào? Không biết! Không biết! Không biết!”
(R.Đê-xê-nhơ, dẫn theo Phương Lựu, Cơ sở lý luận văn học). Tôi không tán dương
điều này. Trong vài bài viết tôi đã nói muốn làm được một loại thơ có tính siêu
thực về ngôn ngữ, về hình ảnh, nhưng lại hướng tới thẩm mỹ, tới đạo lý, tức
siêu thực có định hướng, là “tiếp thu có chọn lọc”. Tôi nghĩ vậy
bởi tôi rất chú ý đến tính phong phú, độc đáo của thơ siêu thực. Chỉ có
tăng cường trí tưởng tượng, thả lỏng ý thức, người ta mới tìm được sự độc đáo,
tìm thấy cái của riêng mình, nếu không, chỉ có sự coppi hiện thực giản
đơn thôi, thường chỉ làm ra được những cái na ná nhau.
Vì
thế trong bài viết trước tôi chỉ nói thơ Trẻ, ngoại trừ vài tác giả, giàu tính siêu thực thôi
chứ không hoàn toàn là thơ siêu thực. Nhưng mấy câu mà tôi đã trích dẫn có
tính siêu thực không, hay chỉ là “ngoa ngôn”, là nhân cách hóa như
tác giả nọ đã phê phán? Như tôi đã nói, sự xác nhận tính siêu thực là dựa
vào tính ngẫu nhiên, tính phi logic, không có thực của những hình ảnh thơ...
Rõ ràng: Khi gặp em/ Anh thấy cơn khát của cánh đồng/ Cánh đồng bị rang trên
cái chảo mùa hạ/ Móng tay của nắng để lại những vết xước hình mắt lưới/ Những vết
bỏng phồng rộp như bánh đa nướng/ Trên da thịt đất... không thể có thực
được. Bởi khao khát tình yêu chỉ là một trạng thái tâm lý vô hình. Chỉ bằng
tưởng tượng, bằng một giấc mơ trong khi thức, người ta mới dựng được những
tầng hình ảnh chồng chất như thế. Cũng như P.Éluard diễn tả ngày
tận thế : Với con mắt của lâu đài hoang tàn, nhìn mùa xuân bằng
cái nhìn sau cùng, lại qua một đường hầm ngăn cách... Vậy, thơ có siêu
thực hay không không phải do ngoa ngôn hay không ngoa ngôn mà do
toàn bộ tính chất của nó. Tương tự, những câu thơ của Nguyễn Quyến cũng siêu thực
không phải ở chỗ thao tác nhân cách hóa mà ở toàn bộ phương pháp sáng tác. Như
hai câu: Cây đa dứt hết chùm râu cổ thụ/ Rồi phục sinh râu bằng tiếng hát của
bầy trẻ và hương trầm, thì chúng siêu thực ở chỗ cây đa không
thể phục sinh râu bằng tiếng hát và hương trầm được, nếu
có thì chỉ có thể phục sinh bằng phân bón và thời tiết tốt thôi! Tương tự
như thế, Những chiếc lá của Nguyễn Bình Phương cũng không thể
biếc xanh bởi giấc ngủ tự tin tràn trề của cây được. Tôi biết, còn nhiều
người hiểu siêu thực tức là những gì hư ảo, ma quái. Không phải, siêu
thực là tất cả, nhưng là một hiện thực trong giấc mơ sáng tạo của người nghệ sĩ, nó có dấu vết, có tính chất của hiện
thực, nhưng không tuân theo cái logic của hiện thực vốn có. Chỉ là thế thôi !
Cuối
cùng, rất mong các báo, không mở thì
thôi, đã mở ra các cuộc tranh luận thì nên để người ta được tranh luận cởi mở đến
tường tận, mới mong có được những hiệu quả.
Phú Nhuận
trưa 1 -1998
(Tạp chí Sông Hương, 8 - 1998)