Xã
hội Việt Nam
có sự phân hóa kỳ lạ, về tận hai đầu cực của sự tiến bộ. Chúng ta đã có những
người tham gia nghiên cứu và đạt thành quả trong những lĩnh vực khoa học tiên
phong của toán và vật lý lý thuyết quy mô toàn thế giới, như Ngô Bảo Châu, Vũ
Hà Văn, Đàm Thanh Sơn. Đặc biệt ở trong nước các kỹ sư trẻ của VN cũng đã chế
tạo và phóng thành công vệ tinh Pico Dragon (rồng nhỏ) lên quỹ đạo.
Ở cực bên này, thật kỳ lạ, xã hội
ta lại có những hành động y như ở tận cái thời mông muội.
Thu Uyên và VTV lại tìm mọi
cách vu khống, kết tội cô Vũ Thị Hòa, một đại ân nhân của bao người, vì công
việc tâm đức vĩ đại, siêu phàm của cô, giúp cho linh hồn các liệt sĩ hoang
lạnh cô độc nơi rừng sâu đoàn tụ với gia đình, về những nghĩa trang liệt sĩ
ấm cúng. Hội Nhà Văn Hà Nội cũng không kém VTV về phần mông muội đó khi lại
trao giải tôn vinh một tác phẩm “đạo văn” của cả Vua (Trần Nhân Tông), “cướp
chữ” của cả thầy, “đoạn thai, hoán cốt” công trình của cả trò. Đó là tác phẩm
của ông Huệ Chi. Ấy vậy mà người ta còn ca ngợi Huệ Chi là“TÀI HOA VÀ UYÊN
BÁC” nữa!!!
Dưới đây là bài viết của tôi để
bạn đọc thấy ông Huệ Chi thực chất có “tài” gì? Bài được đăng tiếp liên tục trên báo
Văn Nghệ TPHCM số 287, 16-1-2014:
|
ĐÔNG LA
NGUYỄN HUỆ CHI “TÀI HOA VÀ
UYÊN BÁC”?
Cuốn
“Văn học cổ cận Việt Nam từ góc nhìn văn
hóa đến các mã nghệ thuật” của Nguyễn Huệ Chi (Nhà xuất bản Giáo dục) mới
được Hội Nhà Văn Hà Nội trao giải thưởng “Thành
tựu”. Khi viết về nó, GS Vũ Khiêu đã ca ngợi GS Nguyễn Huệ Chi là “một nhà nghiên cứu văn học tài hoa, uyên bác”
(phebinhvanhoc.com.vn,
18 - 05 – 2013). Trước đó TS Đặng Thị Hảo cũng ca ngợi hết lời GS Nguyễn Huệ
Chi trong bài: “Nguyễn Huệ Chi và những
dấu ấn khoa học sau hơn nửa thế kỷ nghiên cứu văn học cổ cận đại Việt Nam” (phebinhvanhoc.com.vn, 10
- 5 - 2013). Như trước đây, ông Huệ Chi có thể yên tâm mà hưởng vinh quang,
nhưng ở thời mà trình độ xã hội và tinh thần dân chủ đều đã được nâng cao hơn
ngày xưa rất nhiều, thì không có ý kiến của bất kỳ ai có thể là chân lý được.
Ai cũng có thể đúng, ai cũng có thể sai, dù đó là GS, Anh hùng Vũ Khiêu, người từng
được ca ngợi là một “nhà văn hóa”, “một nhà triết học”. Gọi GS Vũ Khiêu là
một nhà triết học tôi cũng hơi e ngại vì không biết ông đã có những phát minh
tư tưởng triết học gì? Còn không, ông cũng chỉ là một học giả có nghiên cứu
triết như hầu hết các “nhà triết học”
của Việt Nam
mà thôi. Mà việc nghiên cứu triết học của ông GS cũng cần phải xem xét thận
trọng, vì ngay trong bài ca ngợi ông Huệ Chi này, những ý của GS Vũ Khiêu về
triết học đã sai mất tiêu rồi!
Còn chuyện
ông Nguyễn Huệ Chi có đúng là “tài hoa,
uyên bác” như sự ca ngợi của GS Vũ Khiêu không ta hãy thử phân tích xem.
Trước
nay, tôi đã viết khá nhiều về ông Huệ Chi, chủ yếu bàn về khoa học, triết học
và chính trị xã hội, còn chuyên môn Hán Nôm của ông thì quả thật tôi chưa quan
tâm. Dù vậy, tôi vẫn biết có ba người từng phê phán ông Nguyễn Huệ Chi về lĩnh
vực này, đó là Nhà phê bình Nguyễn Hòa, GS Nguyễn Đình Chú và GS Mai Quốc Liên.
Gần
đây, trên báo Văn Nghệ của Hội Nhà Văn Việ Nam, số 41, 12-10-2013, đã đăng bài
của Nguyễn Hòa: “Đôi điều gởi tới GS
Nguyễn Huệ Chi”. Về ý kiến cho việc phát hiện ra Trần Tung của Huệ Chi là
một khám phá lớn, Nguyễn Hòa đã dẫn đầy đủ chứng cớ và có những lý lẽ xác đáng để
“thách đố” Huệ Chi trả lời câu hỏi
của mình: “GS Nguyễn Huệ Chi “đạo văn”
hay “phóng tác” từ tác phẩm của Trần Nhân Tông nhưng lờ đi, không nói rõ nguồn
gốc…?” Nguyễn Hòa đã đưa ra chứng cớ bằng hai đoạn văn, bài viết về Trần
Tung của ông Huệ Chi và một đoạn trong Thượng
sĩ hành trạng của Vua Trần Nhân Tông, rồi so sánh và thấy là: “tương tự”, ông Huệ Chi chỉ “thêm mắm thêm muối”. Tôi đã coi kỹ hai
đoạn văn và thấy đúng như vậy. Trong Thượng
sĩ hành trạng trên thientongvietnam.net, Vua Trần Nhân Tông xưng là “tôi” (theo tôi nên dịch là “ta” hoặc “trẫm” có lẽ hợp với giọng văn cổ hơn); còn bài Trần Tung một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền thời Lý-Trần (trong
cuốn được giải của ông Huệ Chi) thì ông Huệ Chi biến Vua thành nhân vật, nghĩa
là ông Huệ Chi ngang nhiên thế chỗ tác giả của Vua. Một người dám thay tên Vua như
vậy quả là gan cóc tía. Thảo nào đầu tháng 1 – 2012, Huệ Chi cũng cho Đảng “không là gì” khi trả lời phỏng vấn của
BBC:
“Đảng đối với chúng tôi không là cái gì cả… Vậy
tôi không quan niệm rằng Đảng ở đây có vai trò gì hết cả. Mặc dù Đảng là quyền
lực tối cao nhất…”.
Về
vấn đề “diện mục Tuệ Trung”, Nguyễn
Hòa viết: “Huy động rất nhiều tài liệu…
để chứng minh Tuệ Trung Thượng sĩ là Trần Quốc Tung chứ không phải Trần Quốc
Tảng, xem ra GS Nguyễn Huệ Chi… đã hì hục phá khóa một cánh cửa mà Nguyễn Lang
đã mở sẵn từ 4 năm trước”. Còn bài của ông Huệ Chi viết về “truyện thơ lục bát” của chí sĩ Phan Châu
Trinh in trên tạp chí Thời đại mới
(11-2006) của Trần Hữu Dũng (một ông “Việt
Cộng con” nay do “đột biến gen”
lại theo đuôi đi chống Cộng rồi) thì Nguyễn Hòa trích trong bài viết của GS Mai
Quốc Liên Vu cáo chính trị mập mờ học
thuật cho Huệ Chi đã “đoạt thai, hoán
cốt”, tức đã “rút ruột” luận án
tiến sĩ của bà Trần Hải Yến, tức tác phẩm đó thực chất là “của em” Hải Yến chứ không phải “của
thầy” Huệ Chi! Ông Huệ Chi phải thừa nhận chuyện này qua hành động gỡ bỏ
bài báo mà không dám đăng lại ở đâu nữa.
Giống
y như việc “thế chỗ” tác giả của Vua
Trần Nhân Tông, “rút ruột” văn của “em” Hải Yến, GS Mai Quốc Liên cho biết:
“Đối chiếu bản dịch thơ của ông NHC và
của Trúc Thiên thì thấy: ngoài việc lấy lại vần, lấy chữ, lấy nguyên si một số
câu; ông NHC “xuất nhập” một số ý, “biên tập” lại để thành bài của mình và rồi
ký luôn tên mình, xóa mất tên Trúc Thiên vốn là người đầu tiên dịch bài thơ ấy”.
Và tệ hơn nữa là, khi chế biến bản dịch của người thành bản dịch của mình, GS
Liên cho ông Huệ Chi còn biến “lợn lành
thành lợn què”:
“Hai câu cuối:
- Thấy chăng đàn én lầu Vương Tạ
Nay hết vàng son lạc vạn nhà.
(Ngữ Lục, Sđd)
- Hãy xem đàn én lầu Vương Tạ
Nay xuống làm thân với mọi nhà.
(Thơ văn Lý – Trần, Sđd, tr.250) (Huệ Chi dịch-)
Theo ý tôi, câu dịch Trúc Thiên sáng tạo hơn, hay hơn,
nhất là chữ vàng son, chữ lạc thật đắt…”
Với cụ
Nam Trân mà Huệ Chi là học trò ở lớp Đại học Hán học, GS Mai Quốc Liên cũng cho
biết: “…bản dịch Ngục trung nhật ký của
Nam Trân (1907-1967)… ông NHC đem ra “duyệt” lại bản dịch của thầy và bậc tiền
bối đó… ông đã sửa chữa: 8 bài sửa 1 từ, 4 bài sửa 2 từ, 1 bài sửa 3 từ, 3 bài
sửa 4 từ, 1 bài sửa 3 từ, 1 bài sửa 4 từ, 1 bài sửa 5 từ, 15 bài sửa từ 6 từ
trong 3 câu trở lên. Chỉ sửa chữ, không sửa vần! Sửa có 1 chữ cũng ký tên mình
vào! Thí dụ thì vô khối. Bài Dạ túc Long Tuyền, 3 câu trên gần như lấy lại
nguyên văn, đến câu 4, Nam
Trân dịch:
Mừng sáng nghe oanh hót xóm gần
(Cách lân hân thính hiểu oanh đề: Mừng nghe chim oanh
bên láng giềng báo sáng) (Nhật ký trong tù, 1960, tr.66).
Ông NHC bèn chữa lại:
Oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần
rồi ký tên mình bên cạnh. Đúng là “lợn lành chữa thành
lợn què”! Câu thơ dịch của Nam Trân đã là tối ưu so với câu thơ nguyên tác,
xuôi thuận, đẹp về tiếng Việt. Còn oanh sớm là oanh gì? Có oanh chiều, oanh tối
không? HIỂU là sáng sớm, ở đây nó là trạng ngữ của oanh, con chim oanh hót vào
buổi sáng sớm, tức là nó báo sáng, chứ oanh sớm thì tiếng Việt chẳng ai nói
thế, viết thế cả. Mà không chỉ có Nam Trân. Đến cụ Nguyễn Sĩ Lâm, Viện
trưởng Viện Đông Y, một nhà Hán học cự phách, cẩn thận, chắc chắn, sâu rộng một
tâm hồn thơ…, thầy chữ Hán chúng tôi ở lớp Hán – Nôm Sau Đại học (1972-1975)
cũng bị NHC cướp chữ! Cả bài của cụ Nguyễn, 12 câu dịch, ông NHC thực ra chỉ
chữa có 2 chữ: Vô ngần thành dữ dằn … nhưng ông lại ký tên mà là ký trước tên
như là người dịch chính vào bài của cụ Nguyễn là cớ làm sao?”
Bài
viết của Nguyễn Hòa trên Báo Văn Nghệ cũng nhắc đến việc GS Nguyễn Đình Chú cho
biết sự thực là nhạc phụ của ông là cụ Nguyễn Đức Vân mới chính là có “vai trò chủ công” đối với “Thơ văn Lý – Trần” mà qua tay Huệ Chi “bạn đọc hôm nay dễ thường không biết”.
Cụ thể trong Lời mở đầu sách Thơ văn Lý – Trần tập I xuất bản năm
1977, ông Huệ Chi với tư cách trưởng nhóm kiêm chủ biên đã ghi rõ từ năm 1960,
tổ Hán Nôm của Viện với cụ Nguyễn Ðức Vân, Ðào Phương Bình và cán bộ trong tổ
đã trực tiếp tiến hành công việc: “đến
năm 1965 thì việc sưu tầm cũng như phiên dịch bước đầu đã hoàn thành”.
Nhưng “sau ngày cụ Vân qua đời” thì “bộ sách Thơ văn Lý – Trần 3 tập lần lượt ra
đời”, tên tuổi của cụ Nguyễn Đức Vân dần biến mất!
GS
Nguyễn Đình Chú viết: “Trong bài viết
“Nguyễn Ðức Vân: một người xứ Nghệ”, tôi cũng nói đến thái độ của hai người con
trai của cụ là nhà văn Nguyễn Ðức Ðàn và nhà thơ Anh Ngọc đều có biết chuyện
nhưng chỉ nhếch mép cười khẩy và nói với nhau: “Thôi, vua nước Sở mất cung,
người nước Sở được””; “Còn tôi, con
rể có điều kiện biết chuyện nhiều hơn thì cũng chịu im mặc dù đã bị một vài
người bạn chê trách, thậm chí như là mắng rằng hèn, nhát”; “Nhưng không ngờ,
tôi đã nhận được hai cú điện thoại của ông Huệ Chi và giữa hai bên đã có sự đối
đáp với nhau. Và rồi tôi cũng nghĩ là mọi chuyện sẽ dừng lại ở hai cuộc điện
thoại này mà thôi.
Nhưng lại không ngờ, tôi được nghe nói lại là ông Huệ
Chi đã nói với một vài người rằng giữa ông và tôi đã có sự ổn thoả với nhau.
Thậm chí, lại còn nói với vài người rằng: ông Chú đã xin lỗi mình (?!)”
Thế
là cây muốn lặng mà gió chẳng muốn đừng, GS Nguyễn Đình Chú: “… buộc tôi phải nói thêm với ông (NHC) và cũng
là với bạn đọc trong và ngoài nước. Nếu không tôi sẽ bị coi là người không biết
điều, cố vơ quàng vơ xiên về cho ông bố vợ”. Trong 2 cú điện thoại mà ông
“đối đáp” với ông Huệ Chi, GS Nguyễn Đình Chú cho biết có một câu mà Huệ Chi
buộc phải xin lỗi ông:
“Nguyễn Ðình Chú: … Tại sao năm 1977, trong
“Lời nói đầu” sách Thơ văn Lý – Trần tập I, ông đã viết: Công trình “sưu tầm
cũng như dịch thuật” các đồng chí Nguyễn Ðức Vân và Ðào Phương Bình trực tiếp
tiến hành đến năm 1965 đã bước đầu hoàn thành, mà đến năm 2007 vừa qua khi cụ
Vân đã qua đời 33 năm, trong đề cương làm sách Tuyển tập Thơ văn Lý – Trần ở
Nhà xuất bản Hà Nội, ông lại viết là: “Việc sưu tầm nghiên cứu được đặt ra từ
năm 1968?
Nguyễn Huệ Chi: Tôi sơ suất – xin lỗi”.
Còn
chuyện thay tên, đổi chủ của ông Huệ Chi, GS Nguyễn Đình Chú cũng viết:
“… tôi và cả nhà tôi đã đến xin phôtô tất cả
những gì mà cụ Vân đã dịch ở Viện để lưu niệm cho con cháu lâu dài thì tình
hình là thế này. Những gì do thư viện bảo quản thì cơ bản còn đủ cả. Còn phần
do Ban cổ cận của ông (NHC) bảo quản thì chỉ còn lại rất ít. Ðặc biệt, trong đó
có một mẩu cụ Vân đã dịch nghĩa, dịch thơ và khảo đính mà ông đã pha chế thì
chẳng ra gì, thậm chí còn là hao hụt, rồi đề thêm tên mình cùng cụ Vân”.
Cuối cùng, ông kết luận: “Như thế là tôi đã đưa đến
quý vị một câu chuyện buồn mà với tôi cũng chẳng vui vì nó là chuyện nhếch
nhác, lẩm cẩm giữa trần gian… Chỉ mong quý vị trong suy nghĩ vẫn giữ cho sự
công bằng. Công bằng với người bị mất công bằng, nhưng cũng công bằng với cả
người làm mất công bằng…”.
Như
vậy, cái việc GS Vũ Khiêu bảo ông Huệ Chi là “tài hoa” xem chừng không phải mà là “tồi hoa” thì đúng hơn. Tức là khả năng làm việc tồi một cách khéo
léo. Còn bà Đặng Thị Hảo viết: “ … bộ Thơ
văn Lý – Trần – một công trình gắn với cả sự nghiệp sưu tầm, khảo cứu,
dịch thuật cổ văn của ông, khẳng định tên tuổi Nguyễn Huệ Chi, là niềm tự hào
của ngành nghiên cứu, sưu tầm, dịch thuật văn học cổ Việt Nam” xem ra nên
viết ngược lại, là nỗi “hổ thẹn” thì đúng với thực tế hơn!
xxx
Còn
cái vế “uyên bác” và “những tìm tòi có tính đột phá” mà GS Vũ
Khiêu khen ông Huệ Chi? Và Đặng Thị Hảo viết: “Nguyễn Huệ Chi là một nhà khoa học vững cổ thông kim”?
Một
người uyên bác phải hiểu biết rộng, cao, sâu hơn người cùng tầng lớp mình. Thực
tế Huệ Chi quả có tham vọng “đột phá”
vào những vấn đề mà giới nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và văn học cổ nói
riêng không dám nghĩ đến. Đó là việc nghiên cứu, bàn luận những vấn đề mà ông
ta tưởng tượng ra mối liên quan giữa tư tưởng cổ phương Đông với khoa học tự
nhiên. Cụ thể như GS Vũ Khiêu viết Huệ Chi đã: “sưu tầm, tập hợp, lý giải và chú giải bộ sách quan trọng đầu tiên và
duy nhất của cố GS. Cao Xuân Huy, một “người thầy, nhà tư tưởng” của anh. Đó là
cuốn Tư tưởng phương Đông, gợi những điểm nhìn tham chiếu (1995)”; và như
Đặng Thị Hảo viết, ông Huệ Chi đã: “viết
70 trang dẫn luận, nhằm khơi mở cho người đọc dễ dàng đến với những phát hiện,
những triết thuyết cao siêu, thâm thúy, không dễ hiểu chút nào về tư tưởng
triết học phương Đông của Cao Xuân Huy”.
Về
vấn đề này, tôi đã đọc những bài phản bác Nguyễn Huệ Chi của GS Trần Thanh Đạm
đã viết hình như trên Kiến thức ngày nay
và Đỗ Kiên Cường đã viết hình như trên Văn
nghệ Quân đội; còn tôi thì cũng đã viết và in trong cuốn Biên độ của trí tưởng tượng (Nxb. Văn
Học). Gần đây có internet, tôi có điều kiện viết kỹ hơn trên những trang cá
nhân của mình, và trong những ngày hôm nay, Báo văn nghệ TPHCM cũng mới in hai
bài của tôi về vấn đề nêu trên.
Nếu
GS Vũ Khiêu và bà Đặng Thị Hảo có đọc và hiểu được vấn đề trong các bài viết đó
thì sẽ không ca ngợi ông Huệ Chi như thế. Vì những tư tưởng của cụ Cao Xuân Huy
thực chất là phản triết học và phản khoa học vì cụ đã cho những cặp phạm trù cơ
bản của Triết học Mác như Tâm-Vật; Không
gian-Thời gian; Nhân-Quả là “hư cấu”; và Einstein là “Sai lầm cơ bản trong tư
tưởng logic”! Vì thế việc làm của ông Huệ Chi không phải vinh danh thầy mà
như bài trên Văn nghệ TPHCM số 282 (28-11-2013), tôi đã cho ông Huệ Chi là đã “vạch áo thầy cho thiên hạ xem lưng”!
Như
vậy ông Huệ Chi không phải “uyên bác”
như GS Vũ Khiêu viết, và cũng không “vững
cổ thông kim” như Đặng Thị Hảo viết; mà tri thức của ông thực sự lõm bõm,
ông ta “yếu cổ mờ kim” thì đúng hơn.
Còn cái tính “đột phá” của ông thì chỉ
là những ảo tưởng và tham vọng, nên sự “đột
phá” đó đã biến thành chuyện húc đầu vào đá. Trong bài “Nhà Hán Nôm Huệ Chi nghiên cứu vật lý” trên
Báo Văn nghệ TPHCM, số mới nhất 286, tôi đã viết về chuyện ông Huệ Chi từng đọc
bài tham luận Tư duy phương Đông nhìn
dưới ánh sáng học thuyết Einstein trong một cuộc “Hội thảo Khoa học” ở
Trường Đại học Phan Châu Trinh (Quảng Nam). Thật ghê gớm, bởi muốn làm được vậy
người ta đúng là phải “thông kim bác cổ”. Có điều khi đọc xong, tôi đã phải đặt
câu hỏi là “tại sao một cuộc Hội thảo
được tổ chức bởi một tạp chí của Bộ Khoa học và một trường đại học, với ban cố
vấn và ban lãnh đạo là những nhà khoa học và nhà trí thức hàng đầu VN, lại cho
tham luận một “công trình” phản khoa học, phản triết học, phản thực tiễn đến
thế?!” Vì ông Huệ Chi hoàn toàn không hiểu khoa học tự nhiên nói chung và Thuyết Tương đối nói riêng. Cả bài tham
luận của ông là một mớ những mâu thuẫn và những gán ghép khiên cưỡng, lầm lẫn.
Xin
nhắc lại tí, trong cái “công trình”
nghiên cứu buồn cười của ông Huệ Chi, ông ấy thấy trong xe đang chạy có một con
ruồi bay thong dong, ông cho rằng tại nó nhỏ, nên thuyết Tương đối có tác động,
còn ông ta to sẽ không chịu tác động, nên nếu cũng lơ lửng được, ông ta sẽ bị
đẩy về sau ngay. Tôi đã bảo ông ta là không phải đâu, con ruồi bay được là do
lực quán tính chứ không phải do tương đối tương điếc gì hết, mà lực quán tính tác
động mọi vật như nhau, cả khi trong xe nếu có con voi lơ lửng được thì nó cũng như
con ruồi, sẽ không bị đẩy về sau đâu. Quy luật vật lý nó thế chứ hoàn toàn
không phải là tôi tự nghĩ ra!
Xxx
Tôi
vốn làm nghiên cứu khoa học tự nhiên tại một viện dược, được nhà thơ Anh Thơ
phát hiện và giới thiệu đến Chế Lan Viên. Cảm động vì sự quý mến và quan tâm
của Nhà thơ lớn Chế Lan Viên, ông đã đề nghị trao giải thơ cho tôi trong một
cuộc thi của Hội Nhà Văn TPHCM 1986, rồi đứng tên giới thiệu tôi vào Hội Nhà
Văn TPHCM, tôi đã ấn thân vào con đường văn chương. Tôi không biết GS Nguyễn
Huệ Chi là ai. Một hôm tôi quá bất ngờ khi nhận được email của ông Triệu Xuân.
Nội dung email chính là “thư của ông Huệ Chi” gởi nhiều người, “tung truyền đơn
trên mạng”, trong đó có Triệu Xuân. Số là tôi có viết bài “Các Mác-một tình yêu bao la”, tôi muốn viết về chuyện người ta đã
hiểu sai Mác là chính chứ cũng không phải ca ngợi gì. Gửi báo trong nước không
được đăng, tôi mới gởi cho trang mạng talawas. Sauk hi được đăng, không ngờ
nhận được thư của Huệ Chi. Ông ấy cho là tôi muốn thế thân cho Mai Quốc Liên và
Trần Mạnh Hảo, vì hai ông này hết thời rồi. Phải với giọng điệu như tôi thì may
ra mới giúp được Đảng tiếp tục “thực hiện
canh bạc bịp” với thế hệ trẻ ngày nay. Quả thực, đây đúng là một sự vu cáo,
vì tôi viết độc lập, chỉ với tư cách một nhà nghiên cứu khách quan chứ không vì
cái gì hết. Mà tôi cũng không là một đảng viên và cũng đã bỏ công chức từ tận
năm 1994 rồi!
Thật
trớ trêu, một người hưởng nhiều danh lợi của chế độ lại đi chống chế độ. Còn
tôi không được gì nhưng lại đi bảo vệ như một “văn nô”. Đơn giản là vì tôi
thấy, chế độ hiện thời dù còn nhiều tệ nạn, còn nhiều yếu kém, nhưng “vẫn có
bia uống đều đều”, còn chế độ mà rơi vào tay những người có tâm và tài như ông Huệ
Chi thì đến nước lã cũng không có mà uống. Bởi với trí tuệ của họ như đã phân
tích, thì đôi cánh tư tưởng của họ chỉ là đôi cánh ruồi chứ không phải là đôi
cánh vũ trụ đâu!
6-1-2014