Đây là bài mà Báo
VNTPHCM trích đăng bài dưới đây của tôi, xin đăng lại nguyên văn:
|
ĐÔNG LA
MỘT VIỆC TÔN VINH
DỰA TRÊN SAI LẦM LỚN CỦA
SỰ ĐỔI MỚI NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ
Đó là việc ông Đặng Phước Thành xây nhà thờ họ, nhiều tiền
xây luôn công trình Nam phương Linh Từ ở Xã Long Hưng, Huyện Lấp Vò, Tỉnh Đồng
Tháp, là nhà thờ những người mà ông ta cho là có công khai mở, giữ gìn và làm
rạng danh vùng đất phương Nam của Tổ quốc. Nếu chỉ khuôn trong phạm vi gia đình
thì việc ông thờ phụng, tôn sùng ai không quan trọng. Vấn đề e ngại ở chỗ ông
Thành còn xây dựng cả viện bảo tàng, có cả sân đỗ máy bay và bãi đậu ô tô, muốn
biến khu thờ tự này thành khu du lịch. Vì vậy việc ông tôn vinh các nhân vật
không còn là việc riêng của cá nhân mà tác động đến nhận thức của công chúng,
nhất là, như lời giới thiệu công trình, để cho: “học sinh, sinh viên và thế
hệ trẻ tìm hiểu, nghiên cứu và học tập”. Điều đặc biệt là để giúp cho ông
Thành lựa chọn các nhân vật để thờ phụng, tôn vinh chính là Tạp chí Xưa
& Nay. Tạp chí này đã tổ chức tọa đàm, mời “các nhà khoa học” tham
gia Hội đồng xét chọn, trong đó “Nhà Sử học Dương Trung Quốc là cố vấn”,
đã chọn ra 125 nhân vật, trong đó Nguyễn Ánh được đặt ngang hàng với Nguyễn Huệ!
Tạp chí Xưa & Nay vốn là cơ quan của Hội Khoa học Lịch
sử Việt Nam.
Ông Dương Trung Quốc lại là Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội, Tổng Biên tập
Tạp chí Xưa & Nay. Phải chăng việc đặt ngang hàng Nguyễn Ánh với Nguyễn Huệ
đã dựa trên cơ sở kết quả của cuộc Hội thảo quốc gia do Hội KHLSVN tổ chức về "Chúa
Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế
kỷ XIX" đã diễn ra tại Thanh Hóa ngày 18/10/2008 mà một số người
cho là “những nhận định công bằng, khách quan dựa trên sự thật lịch sử”,
là “sự đột phá trong nhận thức về các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn”.
Vậy để hiểu được bản chất vấn đề cào bằng trên cần phải tìm hiểu tận gốc sự
việc, đó chính là cuộc hội thảo nói trên.
***
Trong lời khai mạc cuộc hội thảo đó, ông GS Phan Huy Lê, Chủ
tịch Hội KHLS VN, cho rằng từng có thái độ phê phán gay gắt Nhà Nguyễn là “có
nguyên do sâu xa”:
Thứ nhất là do “trong bối cảnh chính trị của đất
nước thời bấy giờ”, “thời kỳ cả dân tộc đang tiến hành cuộc chiến tranh
vô cùng ác liệt hoàn thành nhiệm vụ giải phóng đất nước, thống nhất tổ quốc.
Trong thời kỳ đó, độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia là mục tiêu cao cả, có
ý nghĩa thiêng liêng của cuộc chiến đấu. Vì vậy khi nhìn lại lịch sử, bất cứ
hành động nào xúc phạm hay đi ngược lại độc lập và thống nhất đều bị phê phán”.
Như vậy theo ông GS, chỉ trong thời chiến tranh “hành
động nào xúc phạm hay đi ngược lại độc lập và thống nhất” mới đáng bị phê
phán còn thời hòa bình thì không. Nói như vậy có khác gì cho việc Trung Quốc
xâm lấn biển đảo của ta trong những ngày hôm nay và nếu những người có trọng
trách lại dâng đất cho Trung Quôc trong những ngày hôm nay sẽ là chuyện bình thường,
không bị phê phán. Hoàn toàn không phải vậy, dù thời chiến hay thời bình thì “hành
động nào xúc phạm hay đi ngược lại độc lập và thống nhất” đều bị phê phán
như nhau cả, sự xâm lấn, xâm lược, cướp đoạt thì luôn luôn là điều ác, điều xấu!
Thứ hai là do “trong cách vận dụng phương pháp luận sử
học của các nhà nghiên cứu”; “Đây là thời kỳ nền sử học hiện đại xây
dựng trên hệ tư tưởng Mácxít đang hình thành và trong vận dụng phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nhĩa duy vật lịch sử phạm những sai lầm
của chủ nghĩa giáo điều, công thức, máy móc. Theo lý thuyết về hình thái kinh
tế xã hội, thời bấy giờ đang thịnh hình quan điểm cho rằng chế độ phong kiến
Việt Nam hình thành trong thời Bắc thuộc, phát triển đạt đến độ cực thịnh ở
thời Lê sơ thế kỷ XV và bắt đầu suy vong từ thế kỷ XVI, rồi lâm vào tính trạng
khủng hoẳng trầm trọng vào thời cuối Lê và nhà Nguyễn.
Như vậy là thời kỳ các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn
được đặt vào khung suy vong, khủng hoảng của chế độ phong kiến và trong bối
cảnh đó thì giai cấp phong kiến không còn vai trò tích cực, không còn đại diện
cho lợi ích dân tộc. Áp dụng lý thuyết hình thái kinh tế xã hội và đấu tranh
giai cấp một cách giáo điều đã dẫn đến những hệ quả đưa ra những phân tích và
đánh giá lịch sử thiếu khách quan, không phù hợp với thực tế lịch sử”.
Việc chế độ phong kiến, quân chủ chuyên chế không còn phù
hợp với sự phát triển của thời đại, đã bị thay thế bằng các chế độ dân chủ trên
phạm vi toàn thế giới là hiện thực khách quan, tuân theo đúng quy luật của Chủ
nghĩa Mác, sao ông Phan Huy Lê lại cho các nhà sử học ở ta sai lầm khi vận dụng
phương pháp luận sử học xây dựng trên hệ tư tưởng Mácxít, vận dụng phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nhĩa duy vật lịch sử? Việc cuối
Nhà Lê suy vong, thời kỳ các Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn được đặt vào
khung suy vong cũng đúng với thực tế, sao ông Phan Huy Lê cũng cho là sai do
dựa vào hệ tư tưởng Mác xít? Như vậy ông Phan Huy Lê không chỉ hiểu sai về Chủ
nghĩa Mác mà còn nói ngược với tiêu chí mà ông luôn hô hào: “Nhận thức lịch
sử một cách khách quan, trung thực, công bằng là trách nhiệm của giới sử học”.
Các Chúa Nguyễn là một phe gây ra nội chiến, khi Vua Quang Trung qua đời, Chúa
Nguyễn Ánh tiêu diệt được triều đại Tây Sơn, lập ra Vương triều Nguyễn thay
thế. Rồi Vương triều Nguyễn đã để mất nước vào tay Pháp, Vua thì bị bắt đi đầy,
tên nước cũng bị xóa, Pháp duy trì Nhà Nguyễn sau đó chỉ là chế độ bù nhìn, làm
tay sai cho Pháp thống trị nước ta. Sự thực lịch sử là như thế, đặt Nhà Nguyễn
vào khung suy vong sao lại cho là sai lầm do có cách nhìn theo tư tưởng Mác xít?
Viết như trên ông GS Sử Phan Huy Lê thực chất không hiểu Chủ
nghĩa Mác. Cơ sở nhận thức thế giới khách quan của Chủ nghĩa Mác là Chủ nghĩa
Duy vật biện chứng. Đó là cách nhìn dựa trên các quy luật của tự nhiên trong
quá trình vận động biến đổi và liên quan lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng,
để có thể nhìn xuyên qua cái vỏ bề ngoài của các hiện tượng, thấy được bản chất
bên trong của sự vật; ngược với cái nhìn siêu hình cố định, bề ngoài, không bản
chất. Chủ nghĩa Duy vật lịch sử vận dụng cách nhìn trên vào trong xã hội. Vì
vậy có đâu do “vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nhĩa duy vật lịch sử” lại “phạm những sai lầm của chủ nghĩa giáo điều,
công thức, máy móc”. Nếu có thế thì chính ông Phan Huy Lê và các nhà sử học
thời kỳ đó đã sai lầm khi hiểu một cách “giáo điều, công thức, máy móc”
về Chủ nghĩa Mác.
Ngoài ý trên, ông Phan Huy Lê cho biết theo tinh thần của
Công cuộc Đổi mới khởi đầu từ năm 1986, năm 1988 Hội Khoa học lịch sử Việt Nam
được tổ chức lại, các cuộc Hội thảo khoa học đã được
tổ chức, bên cạnh khẳng định những thành tựu của nền sử học hiện đại Việt
Nam đồng thời nghiêm khắc nêu lên những mặt yếu kém. Có ba mặt yếu kém,
ngoài sự giáo điều do vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử nói trên còn có “khuynh hương "chính trị
hóa lịch sử", dùng lịch sử để minh họa một số quan điểm chính trị, tự hạ
thấp tính độc lập, vai trò sáng tạo của khoa học lịch sử và khuynh hướng
"hiện đại hóa lịch sử", trình bày lịch sử quá khứ như hiện đại,
không tôn trọng tính đặc trưng của từng thời kỳ lịch sử”.
Sự “chính trị hóa” lịch sử, khuôn cái nhìn lịch sử
theo cái nhìn của lực lượng nắm quyền phản động, phản tiến bộ, phục vụ cho việc
cai trị, không đúng bản chất của sự thật lịch sử, rõ ràng là sai trái. Nhưng
chế độ nước ta sau triều Nguyễn đến hôm nay là chế độ dân chủ cộng hòa, theo lý
tưởng XHCN. Lực lượng lãnh đạo được hiến định “lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng”. Như phân tích ở trên về Chủ
nghĩa Mác, có lẽ nào sự “chính trị hóa”, nhận thức lịch theo cái nhìn
biện chứng, khoa học, khách quan theo Chủ nghĩa Mác lại sai? Nếu sai có chăng
chính nhận thức chính trị sai chứ “sự chính trị hóa” không sai. Vì vậy
cho rằng việc tuân theo phương pháp nhận thức chung của thế chế là “tự hạ
thấp tính độc lập, vai trò sáng tạo của khoa học lịch sử” là một quan niệm
sai. Viết vậy, phải chăng ông Phan Huy Lê muốn Hội Lịch sử của ông là Hội vô
chính phủ?
Thực tế, không riêng ngành sử, nhận thức của tất cả các lĩnh
vực trong xã hội chúng ta trước đây đều từng yếu kém, trong đó có cả nhận thức
chính trị. Chúng ta từng nhận ra sự nhận thức chính trị sai và đã gọi đó là căn
bệnh chủ quan, duy ý chí. Giống như sai lầm của Trung Quốc mà Liên Xô từng diễu
cợt là xây dựng thứ “Chủ nghĩa Cộng sản mặc quần đùi”. Chính vì thế Công
cuộc Đổi mới đã ra đời. Dù còn nhiều yếu kém, thiếu sót, công cuộc đổi mới đã
thành công nên mới đưa nước ta thoát ra khỏi khủng hoảng và phát triển đến ngày
hôm nay. Nhưng đã có những đánh giá sai lầm cho với sự đổi mới như vậy thực
chất ta đã từ bỏ Chủ nghĩa Mác và chứng tỏ Chủ nghĩa Mác sai. Cần phải hiểu cho
đúng, chúng ta chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa sang nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN thực chất là tuân theo đúng nguyên lý của Chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa
Mác cho quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất. Nước ta từ một
nước phong kiến, nô lệ, có nền sản xuất tiểu nông, tất không thể thực hiện một
quan hệ sản xuất của một nền đại công nghiệp.
Sự đổi mới tư duy kinh tế nói trên thực chất là đổi mới tư
duy chính trị lãnh đạo kinh tế. Sự nghiên cứu sử học cũng như mọi lĩnh vực khác
tất cũng phải đổi mới theo xu hướng chung đó.
Một trong những sự thay đổi đó là chúng ta đã thay đổi thái
độ đối với những sự sai phạm trong quá khứ. Như trong lĩnh vực văn chương,
chúng ta đã trao giải thưởng cho những người thuộc nhóm Nhân Văn giai phẩm.
Nhưng cần phải hiểu đúng bản chất sự việc. Trong bài viết liên quan đến Trần
Dần gần đây, tôi đã viết ý của GS Hoàng Ngọc Hiến cho việc “Trần Dần đã được
truy tặng Giải thưởng Nhà nước” là một sự chiêu tuyết là không đúng. Vì
chiêu tuyết (昭雪) là sự vạch tỏ nỗi oan ra mà Trần Dần thì không bị oan. Nên
coi việc tặng thưởng cho Trần Dần cũng như một số người khác là sự gạn đục khơi
trong và có sự tha thứ. Cũng như theo lý, ứng xử như thời phong kiến hoặc như
nhiều nơi trên thế giới, Bảo Đại khó tránh được án tử, nhưng Bác Hồ lại trọng
dụng ông ta làm cố vấn. Có cách ứng xử nhân đạo như vậy có lẽ bởi chúng ta thấy
được khởi nguồn cho tất cả những sự đúng sai, tốt xấu đều là do nước ta bị xâm
lược, dân ta bị quá nhiều đau khổ rồi thì khi cuộc sống tốt đẹp hơn nên tha
thứ.
Một vấn đề rất lớn là sự hòa hợp dân tộc sau ngày thống nhất
30-4 cũng vậy. Chúng ta cần phải tha thứ, cần phải bỏ qua lỗi lầm. Thực tế đã
là như vậy. Ông Nguyễn Cao Kỳ, cựu Phó Tổng thống VNCH, đã được chào đón trở
lại Dinh Thống Nhất. Nhưng cũng cần phải hiểu, chúng ta thay đổi thái độ ứng xử
như vậy không có nghĩa là cào bằng tất cả, thay đổi chuẩn mực của các giá trị
và đạo lý, coi công lao những chiến sĩ giải phóng cũng như những người làm tay
sai và đánh thuê cho phía xâm lược. Ông Nguyên Ngọc từng mắc cái lỗi đó khi
được giao trọng trách lãnh đạo Hội Nhà Văn VN. Ông ta đã kêu gọi và thực hiện
sự đổi mới văn chương bằng việc làm bà đỡ và ca ngợi các tác phẩm lộn ngược các
giá trị.
Và hôm nay, tôi lại không ngờ rằng ông Phan Huy Lê cùng
nhiều người trong Hội Khoa học Lịch sử VN cũng có lối đổi mới dẫn tới việc cào
bằng hoặc lộn ngược các giá trị như vậy. Cụ thể chính là cái việc Tạp chí Xưa
& Nay và ông Dương Trung Quốc đã cố vấn cho ông Đặng Phước Thành làm nhà
thờ tôn vinh Nguyễn Ánh ngang với Nguyễn Huệ.
***
Nguyễn Ánh, một người chính sử cho là “cõng rắn cắn gà
nhà”; “rước voi về giày mả tổ” bởi vào cuối năm 1783, để chống lại
quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã giao cho Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine), một Giám
mục người Pháp, một tờ quốc thư, quốc ấn cùng người con cả là Nguyễn Phúc Cảnh
như là con tin, để vị giám mục này thay mặt mình sang Pháp cầu viện triều đình
vua Louis XVI. Nguyễn Ánh chấp thuận nhường cửa biển Đà Nẵng và quần đảo Côn
Lôn cho Pháp, cho phép người Pháp được quyền tự do buôn bán và kiểm soát thương
mại của người nước ngoài ở Việt Nam, mỗi năm sẽ phải trả dần tiền viện trợ cho
Pháp đồng thời cung cấp lương thực và quân nhu thiết yếu cho Pháp khi Pháp có
chiến tranh với một nước khác ở khu vực Viễn Đông. Sự cầu viện chưa thành, với
sự đại bại trước quân Tây Sơn, Nguyễn Ánh lại đi cầu viện quân Xiêm, dẫn đến
họa quân Xiêm làm đủ điều tàn bạo với dân chúng. Nguyễn Ánh đã bất lực buông
xuôi, giao hết việc lại cho thuộc tướng rồi bỏ ra các đảo.
Như vậy, với sự thực lịch sử khách quan đó, cơ sở
khoa học nào để Tạp chí Xưa & Nay và ông Dương Trung Quốc làm “cố vấn” xếp
Nguyễn Ánh ngang hàng với Nguyễn Huệ, một vị anh hùng dân tộc!
Đổi mới nghiên cứu lịch sử không phải là chuyện thay đổi các
giá trị, thay đổi các chuẩn mực của đạo lý, thay đổi bản chất các vấn đề. Mà
đổi mới là cần phải đánh giá lịch sử một cách biện chứng hơn, để tiếp cận bản
chất các sự kiện, tiến gần tới chân lý hơn. Trên quan điểm đó nhiều thái độ đối
với các nhân vật, sự kiện lịch sử cần thay đổi, nhưng nhận thức bản chất các
vấn đề thì không thể thay đổi. Người ta không thể đổi trắng thay đen, lộn ngược
các giá trị về thiện ác, đạo lý.
Trong bản tổng kết của ông Phan Huy Lê về cuộc Hội thảo về
Nhà Nguyễn ở Thanh Hóa năm 2008 nói trên đã cho rằng cuộc hội thảo đã đi đến
một số nhận thức đạt sự nhất trí cao, trong đó có việc “Các chúa Nguyễn đã
có công mở rộng lãnh thổ về phía nam”.
Không ai có thể phủ nhận công lao các Chúa Nguyễn mở mang bờ
cõi về phương Nam
để nước ta có được hình hài như hiện nay. Nhưng cũng phải hiểu việc này không
phải là kết quả của mục đích khai khẩn hoặc chiến tích của Nhà Nguyễn mà là
việc các Chúa Nguyễn khi chạy trốn, xây dựng căn cứ địa để chống quân Tây Sơn.
Khi Pháp xâm lược thì kết quả đó lại rơi vào tay Pháp nghĩa là “của thiên
lại trả địa”! Nhưng dù vậy ta vẫn không thể phủ nhận công lao mở cõi của
Nhà Nguyễn bởi có việc mở cõi đó, ĐCS mới lãnh đạo dân ta có “cõi” mà đòi lại.
Còn việc Hội thảo cho Nhà Nguyễn “Tiếp tục thành tựu của
phong trào Tây Sơn đã xóa bỏ tình trạng phân chia Đàng Trong - Đàng Ngoài, đặt
cơ sở cho sự khôi phục nền thống nhất, Nguyễn Ánh và triều Nguyễn đã hoàn thành
công cuộc thống nhất đất nước trên lãnh thổ rộng lớn bao gồm cả Đàng Trong và
Đàng Ngoài” thì theo tôi là hơi buồn cười vì chẳng ai tôn vinh một thế lực đi
giết người ta để mà tiếp tục thành tựu của người ta cả!
Trong bối cảnh Nhà Lê suy tàn, trên bất chính hạ tắc loạn,
nên mới gây ra cuộc Trịnh, Nguyễn phân tranh, đẩy dân ta vào cảnh nồi da xáo
thịt mấy trăm năm. Trong cảnh loạn ly đó, nếu ai có tài, có lực tất có chuyện
thời thế tạo anh hùng. Người như vậy lại có đức để dân tin theo, ủng hộ, rất dễ
đi đến thành công. Chính Vua Quang Trung Nguyễn Huệ là người như thế. Ông đã
dẹp loạn trong nước, thắng giặc ngoại xâm hai đầu đất nước, khi vua cuối triều
Lê chạy trốn lưu vong, đã lên ngôi vua. Theo thông lệ thời đó, ông đã được Nhà
Thanh công nhận, tức việc lên ngôi của Nguyễn Huệ đã hoàn toàn chính danh. Vậy
Nguyễn Ánh nhân cơ hội Vua Quang Trung bệnh chết đột ngột, tiêu diệt Nhà Tây
Sơn, chính là sự phản nghịch, cướp ngôi, như ngôn ngữ hiện đại, đó chính là sự
đảo chính phi pháp. Vì vậy cho Nguyễn Ánh có công thống nhất đất nước đúng là
chuyện buồn cười!
Theo Nhà văn Bác sĩ Nguyễn Văn Thịnh “người đầu ngành sử
học Phan Huy Lê” còn có chuyện buồn cười khác khi cho rằng: “Nhân vật
lịch sử anh hùng Lê Văn Tám hoàn toàn không có thật”; do “Anh Trần Huy Liệu
tự viết về nhân vật Lê Văn Tám”! Ông nhà văn bác sĩ còn cho biết “ông Lê
mất công lần mò đi “hỏi một số bác sỹ, và họ cho rằng với sức nóng của lửa
xăng, một em bé không thể chạy xa như vậy (50mét)”. BS Thịnh cho rằng: “Vụ
một thiếu niên đốt kho xăng Thị Nghè vào những ngày đầu Nam bộ kháng chiến là một
sự thật hiển nhiên nhưng nó đã bị người ta nhân danh sử học lấy sự dối trá trùm
lên sự thật!”; “Phải chờ bốn năm sau, khi công luận của Đảng bộ và những
vị lão thành cùng những chiến sỹ từng chiến đấu ở mặt trận Nam Bộ – Sài Gòn tỏ
thái độ công phẫn bất bình … sử gia Lê thòi cái đuôi ra… công bố bài viết với
những luận điệu nửa nạc nửa mỡ, nửa xuề xòa xí xóa, nửa quanh co bịp bợm …: “Lê
Văn Tám không phải là tên của nhân vật lịch sử có thật nhưng phản ánh một sự
kiện lịch sử có thật, một tinh thần hy sinh vì Tổ quốc có thật”!
Quay lại với việc đánh giá Nhà Nguyễn, việc xổ toẹt tất cả
cũng là sai trái. Với cái nhìn biện chứng, ta thấy việc các Chúa Nguyễn gây ra
cuộc nội chiến dù là điều không hay nhưng với bối cảnh lịch sử thời ấy, Chúa
Nguyễn Hoàng không kiếm cớ chạy trốn xuống phương Nam xây dựng lực lượng thì sẽ
bị Trịnh Kiểm giết. Thời phong kiến, nhiều cuộc thay đổi triều đại không ít thì
nhiều đều có những chuyện bất chính, nhưng tốt xấu phân minh, ai làm người nấy
chịu, nên những công trạng cũng như thành tựu của mọi triều đại đều được tôn
vinh, lưu danh thơm trong sử sách. Với Nhà Nguyễn, dù Vua Gia Long dựng lên
vương triều đã trải qua hành trình có nhiều điều bất chính, nhưng đời sau, các
vị vua yêu nước, dũng cảm chống Pháp như Hàm Nghi, Duy Tân vẫn mãi là những tấm
gương ngời sáng.
Còn ông Dương Trung Quốc, người “cố vấn” cho ông Đặng
Phước Thành chọn Nguyễn Ánh thờ ngang với Nguyễn Huệ, thì đã quá quen thuộc với
cư dân mạng với biệt danh “kịch nghị viên”. Tôi cũng đã viết nhiều về
ông này, từng cho ông ta vừa dốt về sử vừa dốt về chính trị khi ông ta cho Hiệp
Định Genève 1954 đã giao miền Nam cho phía VNCH cai quản nên Thủ tướng Phạm Văn
Đồng không có quyền công nhận Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Trung Quốc. Mang danh “nhà
sử học” mà ông ta cũng đã “đánh giá cao” cuốn sách lộn ngược lịch sử
là Bên thắng cuộc của Huy Đức!
Theo thông tin của một cán bộ ở Đồng Tháp làm trong ngành
Lịch sử Đảng thuộc Ban Tuyên giáo biết rõ vụ việc: “ông Đặng Phước Thành
muốn có được căn cứ chọn các nhân vật thờ phụng để biến khu thờ tự của ông ta
thành khu du lịch nên đã “nhờ người “câu móc” với Hội Sử học VN mà trực tiếp là
tạp chí Xưa & Nay (Tất nhiên ông Thành phải chi hàng tỷ đồng để “đài thọ”
cho Hội đồng lựa chọn nhân vật)”. Ngày 2-7-2014, Tạp chí Xưa & Nay đã
đánh công văn gởi ông Đặng Phước Thành thông báo việc đã mời “các nhà khoa
học” tham gia Hội đồng tuyển chọn với ông Dương Trung Quốc làm cố vấn, đã
chọn ra 125 nhân vật, trong đó có việc Nguyễn Ánh được đặt ngang với Nguyễn Huệ
như đã viết ở trên. Trong cuốn Sơ lược tiểu sử các nhân vật được chọn đó có đưa
tin: “ngày 9-5-2014, Đặng Tộc Nam Phương Linh Từ vinh dự đón tiếp Đoàn BCH
Hội KHLSVN, do nhà sử học Dương Trunmg Quốc, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội
làm trưởng đoàn, cùng hơn 40 vị khách quý là những “cây đa, cây đề” trong giới
sử học nước nhà đến viếng thăm”.
Dư luận đang e ngại tình trạng học sinh chán ghét và học dốt
môn Sử. Điều này xem chừng còn là chuyện nhỏ bởi đến chính Hội Khoa học Lịch sử
VN mang danh khoa học mà lại có những quan điểm về lịch sử phản khoa học, luôn
kêu gọi tôn trọng sự thật khách quan lại đi bóp méo, đổi trắng thay đen, biến ý
nghĩa cao quý việc học sử, hiểu sử để tự hào về các anh hùng thuộc các thế hệ
thành ra mất phương hướng, bởi các chuẩn mực về các giá trị bị cào bằng, lộn
ngược!
19-1-2015