VỀ HƯỞNG PHÚC
Sau ngày vui, mọi người được cô Vũ Thị Hòa chúc phúc, ăn bữa
cơm nhân phúc của cô vào ngày 8 Tết Ất Mùi vừa qua, hôm sau, tôi được chứng kiến
trọn một ngày cô thị hiện như một Quán Thế Âm Bồ Tát cứu nhân độ thế.
Khi nói chuyện với mọi người cô Vũ Thị Hòa thường bảo phải “nói
có đầu có đuôi” nên tôi cũng sẽ như vậy để chứng minh cho mọi người hiểu.
Trước hết tôi phải nói thêm về những người tham dự. Vì đông quá
tôi không biết hết, gặp hết, nhưng những người tôi gặp không thể không nhắc đến
trước hết là “Đoàn Tâm Đức Yên Bái”, bởi không có đoàn thì sẽ không có ngày chúc
phúc của cô.
Cái tên Đoàn Tâm Đức chỉ là danh xưng của nhóm thiện nguyện không
phải là tổ chức thuộc cơ quan, đoàn thể nào cả nên sẽ không chịu ràng buộc bởi
các quy định của pháp luật đối với các cơ quan nhà nước, mọi việc của nhóm chỉ
tuân theo pháp luật chung mà thôi. Người đầu tiên là anh Thu, quen biết cô
trước khi cô “phát sáng”. Khi cô xuất hiện những khả năng siêu phàm, được trao
sứ mệnh cứu nhân độ thế, cô đã rủ anh Thu và người chị dâu của chồng, như trên
con tầu không số, “hành phương Nam”.
Người giúp cô lộ phí đầu tiên chính là chị Lâm là người quen thân với cô ở Yên
Bái. Khi vào Nam nhà đầu tiên cưu mang đoàn của cô là chị Loan, từ nhà chị Loan
cô gặp gia đình và tìm giúp hài cốt của cha Đại tá Cao Thanh Hoa, mở đầu việc
tìm hài cốt liệt sĩ ở Mây Tầu, Xuyên Mộc. Tiếp theo khi cô về Hóc Môn thì gặp
Lịch, một chàng trai đã tốt nghiệp đại học, có tín tâm đã nguyện theo cô, rồi
Trường là em rể Lịch, sau nữa là Lực, cháu ruột của anh rể Lịch, cũng nguyện
đồng hành cùng cô, đi khắp các nơi giúp tìm mộ liệt sĩ và làm các công việc từ
thiện khác.
(Bà Ba (mẹ Lịch),
Lịch, anh Thu,
Đông La (lần đầu gặp cô Hòa tại nhà Đại
tá Sử), cô Hòa)
Ngày vui cũng không thể không nhắc đến người thân của cô, tôi
đã gặp anh Sửu và ba cô gái xinh xắn con của cô là Hiền, Hạnh, đều học ngành Y,
còn cô út là Phương còn học phổ thông. Anh chàng con trai cô là Phúc tôi không
được gặp vi phải vào Nam
nhập học.
Tôi cũng được gặp hai người anh trai cô là anh Sậu, anh Hùng,
và thấy có ba người chị gái của cô mà tôi chưa biết tên.
Còn Phật tử phía Bắc thân thiết nhất của cô tôi chỉ biết và gặp
vợ chồng Hường, Việt là hàng xóm của cô ở Yên Bái; Huyền (chị Hường) và con cháu
Huyền; TS Văn học Hà Lâm Anh; vợ chồng Trường “hói”; vợ chồng người anh của
Trường hói; Hà Văn Tuấn và vợ là cô giáo Hiền.
Trước hết tôi muốn nói đến vài chuyện về cách đối nhân xử thế
của cô. Trong bữa tiệc, ngày 8 tết, khi cô đến bàn tôi cụng ly bằng chai nước
Lavie, ngoài chút nước dừa, là thực phẩm chính của cô:
Tôi nghĩ việc chính đã xong, tôi muốn theo xe BS Thành về trước,
ở HN một ngày, để bạn bè chuyện trò trao đổi, nhất là về khả năng chữa bệnh và
những khả năng siêu phàm khác của cô. Tôi nói với cô, cô đã trả lời bằng cách
“một đi không trở lại” lập tức. Tôi lắc đầu lè lưỡi nói với Thành: “Không được
cấp phép rồi”. Cô lo cho tôi ra chuyến này là ra với cô, vậy tôi hành xử như
vậy là quá dở. Sau buổi tiệc, đến tối có chương trình văn nghệ, xong mọi người
ngồi đầy sân nghe cô thuyết giảng, cô thường vạch ra những sai trái cả trong
suy nghĩ lẫn hành động của Phật tử. Sức khỏe của cô cũng là chuyện siêu phàm,
chúng tôi ăn uống no nê, nghỉ ngơi đầy đủ nhưng vẫn mệt không theo nổi cô chỉ
với việc ngồi nghe cô nói thôi. Còn cô chỉ có vài chai nước Lavie, từ 10 giờ
sáng, cô nói liên tục về hết người này đến người kia, chuyện này đến chuyện
kia, đến tận 3 giờ đêm. Đêm ấy mấy người SG chúng tôi tính chuồn ra ngoài kiếm
cái khách sạn ngủ cho thoải mái, cô biết, nói tất cả mọi người hết giường thì
trải chiếu ngủ, quen nằm nệm ấm gối êm, ôm vợ đẹp, có một đêm mà không chịu
được, người ta lán trại trong rừng, trường kỳ tìm mộ liệt sĩ thì sao. Mấy
“thằng già” chúng tôi chỉ biết ngẩn mặt ra, nhe răng cười trừ thôi. Trước cô,
già trẻ lớn bé, học vấn cao thấp, đúng chỉ là những đứa trẻ. Hầu hết người có
phúc quen thân với cô đều gọi cô là cô xưng con là vì thế. Cỏn tôi gọi cô xưng
em thấy cũng thật đúng, cô đúng là một cô giáo của tôi về thế giới tâm linh và
cả những sự ứng xử trong đời sống.
***
Hôm sau, tức mồng 9 tết, tôi đã chứng kiến trọn một ngày cô Vũ Thị Hòa thị hiện những khả năng như Quán
Thế Âm Bồ Tát cứu nhân
độ thế. Mỗi động
tác của bàn tay, các ngón tay cô là có các công lực khác nhau. Cô nói cô từng
chỉ cây điều làm nó héo, có những người ở Xuyên Mộc có mặt, đã chứng kiến. Với
kẻ ác như Thu Uyên cô chỉ búng tay một cái là chết ngay. Nhưng tại sao cô không
làm gì Thu Uyên vì tất cả chúng sanh đều là con của Phật, Thu Uyên là một đứa
con hư, làm điều gì sai đã có luật nhân quả, cô không cần phải ra tay. Không
như hồi trước có chuyện cô Chính là em ông Sửu chồng cô, mua một căn nhà của
người hàng xóm là Phúc, nhưng anh này làm ăn vỡ nợ, đã cắm giấy chủ quyền nhà
nên cô Chính đã nộp khá nhiều tiền rồi mà họ không chịu làm giấy tờ. Tay Phúc
đã trốn đi, bàn với cô em là ủy quyền cho cô em cũng tên là Hòa đòi tiền tiếp.
Chị Hòa này là giáo viên ở Dưới Thiên, Minh Quân, Trấn Yên, Yên Bái, nói
cô Chính nộp hết tiền mới lấy giấy tờ nhà được, còn phải nộp thêm tiền cho miếng
đất dính liền còn chưa tính. Cô Chính mới gọi điện cho cô, cô thấy là lừa đảo
rồi, đất lấn chiếm phạm pháp không dùng được sao đòi tiền. Cô mới gọi cho chị
Hòa này, chị này mới bảo cô “Mày mà thần thánh, thày bà cái gì, mày mù à!” Cô
tức quá mới búng tay một cái vào cái điện thoại và nói: “Chị này mù mắt”. Lúc
đó khoảng 8 giờ sáng, đến chiều thì mắt chị ta bị lồi ra, đau đớn không chịu
nổi, phải đi bác sĩ nhưng không sao chữa được. Bị như thế rồi chị ta mới biết
cô là ai, sợ quá đã van lạy cô tha cho, cuối cùng thì cô cũng cho trở lại bình
thường. Nhưng rồi cô nghĩ mình là Bồ Tát đi cứu độ chúng sinh, nếu người ta sai
thì giảng giải cho người ta hiểu, không nên trừng phạt như vậy, nên từ đó cô
không trừng phạt ai nữa. Còn giả sử công an có bắt cô thì khi còng tay cô, đánh
vào người cô thì rồi con cái họ và chính bản thân họ chắc chắn sẽ bị nạn!
Ngồi nghe cô kể có ông Chắt, người từng nhờ cô tìm được hài cốt
hai người chú ở Xuyên Mộc, từng nói với tôi nhìn thấy vầng hào quang từ tay cô
chiếu xuống lòng huyệt mộ, từng nói “nghe đứa nào nói xấu cô Hòa tôi đập chết
ngay”, ông từng xin cô cho ông tạc một tấm bia ghi khắc công ơn của cô, đã quỳ
gối dâng tặng cô mà tôi có chứng kiến vì đúng vào hôm tôi theo cô đến nhà Thượng
tá Châu ở Xuyên Mộc:
Ông đang về thăm quê ở Thái Nguyên, biết tin đã gọi điện hỏi
tôi rồi đã đến ngay Đồng Câu tham
dự. Ông xin cô cho ông phụ họa một câu chuyện. Ông nói:
-Hôm đó cô đang chiêu hồn rất nhiều các liệt sĩ, có cả chú Kép
nhà tôi cứ níu cô xin về đầu tiên nên bây giờ cô hay gọi tôi là chú Kép đấy,
thì có một con dơi bự lắm cứ bay qua bay lại làm nhiễu, cô nhìn thấy các liệt
sĩ về rất đông, cô mới điều khiển con dơi bay xuống ngồi xuống đất thì con dơi
ngồi xuống đất, hai cánh nó vẫy vẫy như lạy cô, cô nói lên trên kia để cô nói
chuyện, “im cho, im cho”, con dơi liền bay lên đậu trên cây bạch đàn, cứ đứng
im suốt.
-Đấy là ông trực tiếp chứng kiến đấy hở?
-Cả đống đoàn người chứng kiến chứ không phải mình tôi, cả ông
Trung tướng Triệu Xuân Hòa. Ông cứ về ông cứ đăng báo tôi là người dám nói đây.
Những thằng này hôm ấy cũng có mặt hết ở đấy chứ đâu. Đông, ở đấy nó vui gì là
vui trong rừng, đặc biệt không có cái xe nào hư, lủng ruột, lủng săm.
Ông còn kể, người ta lạ khi thấy cô nằm võng không cần đưa nhưng
võng vẫn đung đưa, cô bảo do có nhiều liệt sĩ đưa cho cô, cô giơ tay bảo họ
dừng là võng dừng ngay.
(Ông Chắt đang kể)
Thực ra với cô Hòa thì chuyện con dơi không có gì là kỳ lạ. Bởi
khi thật cần thiết cô đã bắt một ít con rắn làm thuốc, khi ấy cô nói chuyện với
các con rắn ở các cánh rừng, cô thấy con nào tu tốt, có thể chuyển kiếp thành
người, nguyện hiến thân cứu người, nó sẽ vâng lời cô điều khiển từ xa, nằm im
một chỗ cho người đến bắt về làm thuốc.
Khả năng nhìn xuyên không gian, thời gian của cô cũng thể hiện
qua việc cô thường quán chiếu khắp nơi, khi thấy có chuyện không tốt, các Phật
tử làm sai, cô sẽ gọi cảnh báo, nhắc nhở.
Hôm lập bàn thờ tại nhà ông Ba ở Hóc Môn, cô gọi một cô
bé lên, cô bảo khóc đi, khóc xong cô bảo con là con gái sao bỏ học, tụ tập làm
những việc du côn, du đãng, có đúng không? Cô bé thú nhận đúng, lúc này bố mẹ
mới biết con mình như thế và đã gởi gắm nơi cô giáo dưỡng. Chính là cô bé trong
ảnh này đây:
Nếu ai sai trái nhiều, như đàn ông bài bạc, nghiện hút, đàn bà
ngoại tình, tin cô nhưng còn sĩ diện, tự ái xấu hổ, nên tránh xa cô, vì gặp cô
là cô “bổ vào mặt” ngay. Có người đi đánh bạc, chưa kịp chơi thì đã thấy vợ, được
cô điện từ xa, đến “bắt sống”. Trai gái ngoại tình, cô còn làm phép không cho
chốt cửa, cô báo cho chồng hoặc vợ đến cũng “bắt sống”! Tùy người, người biết
hối cải cô giữ sĩ diện, nói riêng cho biết, còn người nào cứng đầu, phải huỵch
toẹt làm mất mặt giữa đám đông mới sửa được, thì cô nói toạc ra ngay giữa đám
đông.
Ngay hôm mồng 9, có người phụ nữ cô bảo tội chị nặng lắm, ra
ngoài cô nói riêng cho mà nghe. Khi những người cùng làng ra về, cô bảo người quen
về hết rồi, cô nói luôn cho mọi người biết, chị không ngủ với một mà ngủ với
hàng chục người đàn ông cơ, còn nạo thai nữa. Chị có nhận tội không? Người kia
chỉ biết lạy lia lịa xin cô tha tội. Có bà cụ trông đẹp lão, vẻ phúc hậu, cô
bảo trông bà đẹp đấy nhưng miệng bà hay chửi bới hàng xóm, đối xử con cái không
công bằng, bà có nhận tội không? Bà cụ cũng cúi lạy cô lia lịa xin cô tha tội:
(Trong hình này
có bà cụ và người phụ nữ nói trên)
Hết người này đến người kia, cô đều nói ra những điều chỉ họ
biết, tất cả đều chắp tay cúi đầu thành kính trước cô, kể cả những người chị ruột
của cô.
Đặc biệt ấn tượng nhất là việc cô cảnh báo tai ương và cô gia
hộ để cứu nạn.
Sáng sớm mồng 9, tôi thấy một gia đình gồm người mẹ, vợ chồng
anh con trai và đứa cháu nội còn nhỏ, ăn mặc đàng hoàng, nghiêm trang, đeo băng
tang là miếng nhựa đen gài trước ngực. Bà mẹ sốt ruột hỏi giờ cô tiếp khách.
Không ai có thể trả lời được. Tôi hỏi nhà chị có chuyện về tâm linh phải không,
chị phải đợi cô, cũng là thể hiện sự kiên trì của chị đấy. Sau đó tôi được biết
gia đình đó, người chồng, cũng là ông nội chở hai cháu đi chơi bị đụng xe, mình
ông nội chết còn hai đứa cháu may mắn thoát được. Gia đình này có họ hàng với
ông thông gia của ông Phó Văn Tư chủ nhà cô Hòa trọ. Được biết cô chúc phúc
mồng 8 thì lên chơi thôi. Không ngờ cô trông thấy người con trai nói là
sẽ gặp họa nặng, tin cô thì hôm sau lên gặp cô cô nói cho mà nghe. Đến tận trưa
hôm sau, tức mồng 9, cô mới ra gặp. Cô nói người cha đã chết vào ngày phản
phúc, bại nhân nên làm hại con cháu, anh con trai rồi đứa cháu nội cũng sẽ
chết, cũng may gia đình có phúc gặp được cô, nếu tin cô, cô sẽ cứu được. Còn
không tin thì tùy cô không cần gì cả. Có người có duyên gặp cô nhưng không
hưởng phúc vì không tin cô. Cô nói ngay gia đình cô cũng “dao sắc không gọt
được chuôi”, cách đây mới có mấy hôm, có đứa cháu rể con chị ruột cô, cô cảnh
báo sẽ chết đuối, nghe cô sẽ thoát, nhưng không nghe nên đã chết. Hai mẹ con
ngồi nghe mà khiếp vía, xin cô cứu mạng. Cô nói phải nghe theo lời của cô dặn,
rồi cô gia hộ cho mười mấy chai nước. Sau khi cô gia hộ, công lực cô như truyền
hết vào những chai nước, cô bị mất tiếng hoàn toàn, trông thần sắc như không
còn chút sinh lực nào:
Cô phải tĩnh tâm ngồi thiền để nạp năng lượng một lúc mới hồi
sức lại. Còn hình ở dưới chính là ông Đảm đang cầu cứu cô:
Cô nói ông Đảm có đứa con trai là sĩ quan quân đội, từng yêu
một cô nhưng trục trặc, giờ yêu cô khác. Đứa con sẽ bị giết vì ghen tuông, bị vùi
xác nên công an cũng không tìm thấy đâu, lại phải đến nhờ cô thôi. Bây giờ muốn
cứu nó bác phải bảo nó đến đây, nhưng đừng nói ra, nó sẽ bảo là cô huyên thuyên
sẽ thêm tội đấy, đến đây cô nói ra bí mật của nó nó mới tin, nó mới nghe cô chỉ
cho nó thoát nạn.
***
Một lần nữa tôi lại phải nói cho mọi người hiểu, tôi không phải
Đảng viên, không phải công chức, bị bao bất công thiệt thòi, nhưng tôi vẫn viết
bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, vì là người hiểu biết, với sứ mệnh người cầm bút,
tôi phải bảo vệ cái tốt nhất có thể có với thực trạng Việt Nam.
Cũng như lần đầu viết về cô Hòa, tôi hoàn toàn không quen cô,
tôi viết chỉ để bảo vệ lẽ phải, nay quen thân rồi thì chỉ viết ra sự thật, không
phải là kết hợp với cô mở công ty, viết quảng cáo để kinh doanh trục lợi. Nếu
là quảng cáo thì cô Hòa phải luôn mở rộng quan hệ với mọi người để liên kết làm
ăn. Nhưng sự thực cô không làm ăn gì cả, Trời Phật ban cho cô phép mầu, không
cần kinh doanh nhưng vẫn có tiền làm từ thiện. Nên cô không cần liên hệ với ai,
có lúc cô cắt hết điện thoại, chỉ liên lạc với tôi và Hiền là con cả cô mà
thôi. Còn bình thường, đệ tử thân thiết gọi cho cô cũng khó, nhưng có việc thì
cô sẽ chủ động gọi.
Dù vậy, viết ra sự thật cô là ai, người chưa hiểu cô vẫn thật
khó tin. Nhất là những người có chút học vấn, có cái nhìn khuôn theo tri thức
hạn hẹp của họ về khoa học và triết học. Hôm qua, khi tôi đã về Sài Gòn, cô lại
gọi:
-Anh Đông La, em buồn quá, nhiều người cứ bảo chỉ tin vào khoa
học chứ không tin vào cô. Anh cũng làm khoa học nên nói ra điều này em ngại quá.
-Cô cứ nói, em đã có lần viết ông Einstein là nhà bác học giỏi
nhất loài người mà còn tin Đạo Phật cơ mà.
-Vậy anh phải viết ra cho cô câu này, cứ bảo cô Hòa nói, Tạo
Hóa sinh ra con người, rồi con người mới làm ra khoa học, nhưng có nhiều cái khoa
học cũng không biết, không làm nổi.
-Đúng quá cô ạ. Nhưng có chuyện gì mà cô phải buồn vậy?
-Chuyện là cái Loan em cái Phương đấy. Nó lấy chồng mà không
có con, đến các bác sĩ và thuốc men đủ kiểu cũng không có. Nó mới xin em, em mới
gieo phúc cho nó đậu thai. Nhưng chồng nó cứ bảo đậu thai là theo khoa học, không
tin em. Như vậy em thấy gia đình nhà đó không xứng đáng được hưởng phúc nên em
đã lấy lại, nó sảy thai rồi. Rồi hai vợ chồng cứ đổ lỗi cho nhau, cãi qua cãi
lại. Em bực mình quá!
Trong giới khoa học, không ít người tin có thế giới tâm linh,
ngược lại cũng có không ít người, giỗ tết vẫn cúng kiếng, khấn vái như bổ củi,
nhưng vẫn lớn tiếng phủ nhận thế giới tâm linh, cho chết là hết, không có luật
nhân quả, có nghĩa là họ không tin Đạo Phật. Trong khi Einstein,
nhà khoa học vĩ đại nhất, đã nói: “Nếu có bất cứ một tôn giáo nào đó có thể
đương đầu được với những nhu cầu của khoa học hiện đại thì nó sẽ là Phật Giáo”.
(If there is any religion that could cope with modern scientific needs it
would be Buddhism). Trong khi thực tế, với thế giới hữu hình, nhiều cái
khoa học còn bó tay. Như nhận thức nền tảng về thế giới khách quan còn có sự
không tương thích giữa Thuyết Tương đối rộng và Cơ học Lượng tử. Về y học,
nhiều bệnh nan y, cả nền y học còn bó tay. Ngược lại, lại có những trường hợp y
học bó tay nhưng lại khỏi bệnh như được uống thuốc tiên, mà một trong những
người hiếm hoi có thuốc tiên đó chính là cô Vũ Thị Hòa. Bằng khả năng đặc biệt cô đã cứu giúp không ít
người khỏi ung thư, khỏi thoái hóa khớp. Nhà bác học giỏi nhất cũng không thể
nhìn xuyên qua được tờ giấy, còn cô, với con mắt thiên nhãn thông, cô có thể
nhìn xuyên được cả không gian thời gian, xuyên trong lòng đất. Gần đây những vụ máy bay rơi ở Lào, việc giàn khoan Trung Quốc, máy bay rơi
ở Bình Chánh, v.v.. cô đều báo trước, đều có những người chứng kiến cô nói.
Với khoa học, chỉ với hiện tượng phát xạ của vật đen khi
nung nóng, kết quả lý thuyết không khớp với thực nghiệm, Cơ học lượng tử đã ra
đời; hiện tượng không có phép cộng của vận tốc ánh sáng (nghĩa là vận tốc ánh
sáng là hằng số), Thuyết Tương đối hẹp cũng đã ra đời; đó chính là hai cột trụ
chính của khoa học hiện đại. Tiếc là trình độ xã hội chúng ta còn thấp, những
người có trách nhiệm và những lĩnh vực liên quan không có người thông thái như
Planck, như Einstein, nên những hiện tượng chứng tỏ khả năng siêu phàm của cô
Vũ Thị Hòa rất nhiều, to lù lù như trái núi, họ vẫn không thấy gì cả. Lẽ ra nhà
nước phải lập ra một viện nghiên cứu riêng về hiện tượng cô Vũ Thị Hòa. Giáo
hội Phật giáo Việt Nam
nếu hiểu sâu sắc về Đạo Phật đã phải tìm về với cô, biết ứng xử phải phép
với cô, tiếc là họ cũng không thấy gì cả. Cũng như những người Do Thái thờ Thiên
Chúa từng không tin Chúa Giê Su là Đấng Cứu Thế vì ngài chỉ sinh ra từ gia đình
người thợ mộc, trong một máng cỏ. Cũng như tôi tâm sự với một người bạn rất
thân, rất nổi tiếng, về cô Vũ Thị Hòa, ông bạn tin có thế giới tâm linh nhưng
không tin thần thánh lại ngự nơi một người từng mò cua bắt ốc như cô, trong khi
cũng ông bạn này lại rất tin Đức Pháp Vương Nêpan là Phật sống từng thăm nước
ta. Như vậy ông bạn tôi không căn cứ vào khả năng thực tế mà tin vào những danh
xưng của đời phàm phong tặng hơn. Có ông sư là chức sắc của giáo hội viết một
bài về hiện tượng ngoại cảm rất buồn cười, vừa hiểu rất ít về hiện tượng đó và
cũng hiểu sai cả Đạo Phật. Tôi định viết một bài từ lâu mà vẫn chưa có duyên
viết được.
Cũng hôm qua, quá lạ lùng khi cô Hòa gọi cho tôi:
-Anh Đông La ơi, những việc em làm cũng đúng theo Chủ nghĩa
Mác-Lê Nin đấy nhé, vì nó đúng là duy vật thực chứng.
-Cô nói duy vật thực chứng cũng rất hay, nhưng theo sách vở
người ta gọi là duy vật biện chứng.
-Anh thấy nhé cái gì em cũng thực cả, nhìn thực, nói thực,
làm thực, mọi cái đều đúng thực, vậy là thực chứng còn gì. Chính những người có
trách nhiệm để chuyện đồng cốt, bói toán, đốt tiền, hàng mã tràn lan, chuyện đi
chùa rải tiền lẻ, nhét tiền vào tay tượng Phật, tất cả chẳng có gì chứng thực
cả mới là duy tâm anh ạ. Anh viết ra cho cô nhé!
Về triết học, cũng có không ít người từng mang triết học duy
vật Mác xít ra phê phán các hiện tượng tâm linh, người ta trích dẫn câu nói của
Mác: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Câu nói của Mác hoàn toàn đúng với
lịch sử thực hành tôn giáo và tín ngưỡng của loài người, bởi có rất nhiều sự mê
mụ. Đã có những cuộc thánh chiến trên quy mô thế giới xảy ra, còn hiện tại vẫn
không ngưng nghỉ những sự xung đột vì tôn giáo. Tất cả chỉ vì sự mê tín, mà sự
mê tín xuất phát từ việc thế giới tâm linh không nhìn thấy được bằng con mắt
phàm trần, kể cả những thiết bị tối tân nhất của khoa học, người ta đã hiểu về
thế giới tâm linh khác nhau, ai cũng cho mình đúng, xúc phạm niềm tin của
nhau, nên đã “uýnh” nhau! Vì vậy lấy một câu của Mác để phê phán nhận thức khách
quan về thế giới tâm linh là thái độ của những con mọt sách, biến học thuyết
của Mác thành ao tù, trong khi học thuyết của Mác về vận động và phát triển có
quy luật “Phủ định của phủ định”, có quy luật “Thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập là là nguồn gốc của sự vận động và phát triển”. Nghĩa là thực chất
họ không hiểu về Mác.
Còn tôi thực chất tôi chỉ là một nhà nghiên cứu, đến nay tôi
vẫn không theo một tôn giáo, một tín ngưỡng nào cả. Vì tôi thấy nếu theo người
ta tất phải tôn thờ, ngưỡng mộ nên sẽ giảm đi tính khách quan của nhận thức. Vì
vậy tôi viết về cô Vũ Thị Hòa là viết về sự thật, viết về Đạo Phật là viết về
sự thật cách hiểu hoàn toàn khách quan của tôi. Vậy thôi!
Như vậy, nếu hiểu Đạo Phật, với những khả năng cô Vũ Thị Hòa
thị hiện, sẽ hiểu được rằng cô như Phật Bà, như Quán Thế Âm Bồ Tát giáng trần,
cứu nhân độ thế. Bởi chỉ có Phật, chỉ có Bồ Tát mới có khả năng lục thông như
thế. Đã có tới hàng ngàn người chứng kiến: Thiên nhãn
thông (nhìn qua khoảng cách,
chướng ngại); Thiên
Nhĩ Thông (nghe
được âm thanh từ xa); Tha Tâm
Thông (biết
được suy nghĩ của người khác)… của cô. Những khả năng đó cô đã thể
hiện trong rất nhiều vụ việc, từ tìm mộ liệt sĩ, cảnh báo tai ương, đi nhặt của
“phù du”, đến việc hàng đêm cô quán chiếu khắp nơi, thấy từ xa những việc làm
sai trái của Phật tử để rồi cô nhắc nhở, răn dạy, thậm chí mắng mỏ. Nhiều lần
tôi chứng kiến những vị to đầu, cô chỉ hơn con cái của họ vài tuổi, kể cả đại
tá đại tiếc, bị cô “bổ cho vào mặt”, vẫn phải cúi đầu chắp tay chịu trận.
Cô đã nhiều lần nói với Phật tử mình là ai, nhưng khi tôi nói
sẽ viết lên cô vẫn ngại vì không ít người sẽ không tin, nói bậy, họ sẽ bị tội.
Tôi nói với cô rằng tôi có sứ mệnh của một người cầm bút thấy mà không dám nói
ra sự thật, giúp cho mọi người giác ngộ, thực hành đúng đạo làm người, thì chính
tôi phải tội. Còn tôi đã viết hết lý, hết lẽ, trưng ra đủ nhân chứng, vật chứng,
việc chứng mà họ vẫn không tin và nói bậy thì họ rất đáng bị tội thôi!
Còn tôi thấy hiện tượng cô Vũ Thị Hòa xuất hiện là trường hợp
duy nhất trong toàn bộ lịch sử loài người. Đến Phật Tổ trước khi giác ngộ ngài
tu luyện theo phương pháp kham khổ, ngày ăn mấy hạt đậu, đến nỗi sờ da bụng
chạm xương sống, rung tay thì lông rụng ra, ngài nghĩ mình tu sai đường rồi,
bởi chết đi rồi thì còn đâu mà giác ngộ, nên ngài đã ăn uống lại bình thường,
và chính thiền định mới giúp ngài giác ngộ chứ không phải chuyện ăn uống. Còn
cô Vũ Thị Hòa đã mấy năm nay không ăn gì cả, chỉ uống chút nước dừa và nước
Lavie, càng ngày cô càng uống nước dừa ít đi. Nhưng sức của cô thì trai tráng
lội suối trèo đèo theo cô cũng mệt. Còn tôi không ít lần chỉ ngồi nghe cô nói
thôi cũng mệt không chịu nổi. Cô nói cô “ăn” bằng thiền là chính, khi ấy năng
lượng của vũ trụ sẽ được nạp vào cô.
Và hôm nay, một lần nữa, hoàn toàn khách quan, tôi viết ra sự
thật về cô Vũ Thị Hòa như một Đấng Cứu Thế đang hiển hiện ngay giữa chúng
ta. Cảm ơn Thượng Đế đã cho cô giáng trần tại đất nước Việt Nam đã có quá nhiều
khổ đau và còn nhiều vô minh này!
3-3-2015
(13-1-Ất Mùi)
ĐÔNG LA