ĐÔNG LA
SAU 30-4
Mọi
bữa tiệc đều tàn, lễ hội nào rồi cũng qua đi, cuộc sống lại trở lại với nhịp
điệu bình thường.
Nhớ
lại ngày 30
- 4 40 năm về trước, tôi là một binh
nhất của một trung đoàn lính kiểng mới
được thành lập trực thuộc Quân khu Miền Đông để tham gia tổng tấn công, hướng Định Quán - Long Khánh – Sài Gòn. Giờ xem
phim ảnh tái hiện cảnh tiến công ào ạt, tôi
chỉ nhớ trong
cái không khí hừng hực như thế, mình chỉ
như một giọt
nước bị cuốn theo dòng thác lũ mà thôi. Chưa bao giờ bộ đội lại
đông như thế, chúng tôi phải bám ba-lô nhau để không lạc sang đơn vị khác. Tôi không có may mắn được đến tận đích cuối cùng của
cuộc chiến, để được tận mắt chứng kiến thời khắc lịch sử, thời khắc toàn thắng của
cuộc chiến giành lại nền độc lập kéo dài hơn 100 năm của đất nước. Đến trưa 30 - 4, khi đơn vị tôi chiếm khu Kỹ nghệ
Biên Hòa, thì chúng tôi biết được
tin “Miền Nam hoàn toàn
giải phóng”! Trong lòng mỗi người lính, niềm tự hào về
chiến thắng trộn lẫn với niềm vui “thoát chết” thành một cảm xúc sung sướng
không thể nào diễn tả được.
Hồi
ấy trẻ măng, da trắng bóc, hình như trông cũng “dễ thương” hay sao ấy, một
chiều sau phiên gác tôi về nơi đóng quân là một xưởng làm quạt điện trong khu
kỹ nghệ; tôi ngạc nhiên khi thấy một người phụ nữ trung niên dẫn theo cô con
gái, xách một túi đồ hộp, nói với đồng đội của tôi là “cho cái chú bộ đội trăng
trắng gác hồi nãy đó”.
(Tiến, Duyệt, Nhẽ, Lộc, Hùng (Đông La))
Có
lẽ chị ấy làm ở nhà máy đồ hộp gần đó. Xưởng làm quạt nơi chúng tôi đóng quân thì
ở sát bên một nhà máy cà-phê. Chúng tôi đã sang lục soát. Từ rừng núi, giường
nằm là võng, nhà là mái tăng, chúng tôi ai nấy đều choáng ngợp khi trông thấy
phòng làm việc và phòng ngủ của “ông chủ”: bộ sa-lông sang trọng; giường ngủ nệm
bọc vải trắng muốt, phẳng căng:
-Mẹ
kiếp, mấy thằng tư bản quả là sướng thật!
Sau
này được biết hình như chủ nhà máy cà phê ấy chính là cái nhà ông Alan Phan bây
giờ!
Rồi tôi đã được chuyển lên trung đoàn bộ, ở ban tham
mưu làm lính vẽ bản đồ, đóng tại Biên Hòa. Ban bệ cho có thôi chứ hòa bình rồi
đâu còn cần vẽ bản đồ tác chiến nữa. Tôi được ông tham mưu trưởng tên là Đinh
Ngọc Thập rất quý nên chỉ là binh nhất thôi nhưng được ăn ở cùng với ông. Mấy
ngày đầu sau Giải phóng hàng hóa còn nhiều nên sinh hoạt sung sướng hơn hồi ở
rừng rất nhiều. Nhưng tôi đúng là khác người ngay từ hồi đó, tôi không có trong
đội quân đi lùng radio-caset, khung xe đạp và búp bê, trong đầu chỉ muốn được về đi học thôi.
Mỗi lần đi qua Trường cấp III Ngô
Quyền, thấy học trò đông vui, tôi nhớ vô cùng những ngày mình còn đi học. Một
hôm tôi vô cùng sung sướng khi biết tin: tất cả những ai có bằng tốt nghiệp phổ
thông đều được tập trung trong trường văn hóa của quân khu để ôn thi vào đại
học. Nhưng thật oái oăm, ông tham mưu trưởng đang thương tôi như em út, khi
thấy tôi muốn đi ôn thi, đã rất giận tôi. Chắc ông không muốn xa tôi? Thế là,
thay vì cho tôi đi tập trung ôn thi, ông lại bắt tôi đi phát rẫy ở bên sông
Đồng Nai. Tôi ức đến trào nước mắt nhưng biết làm sao được! Trước đó tôi đã
viết thư về cho cha tôi nói ông kiếm rồi gởi sách giáo khoa toán, lý, hóa cấp
III cho tôi. Người mang sách vào cho tôi chính là người anh họ tên là Lưu, cũng
là bộ đội đã được về phép trước tôi. Tiếc là anh mới mất cách đây vài năm vì
ung thư. Còn tôi hồi ấy chỉ biết ôm đống sách về rừng, sau những buổi phát rẫy
máu tóe ở hai bàn tay, người thì đau ê ẩm, tôi vẫn lao vào ôn tập. Tôi tự soạn
chương trình cho mình, học thuộc tất cả các công thức, các định lý, giải các
bài toán mẫu. Tôi cũng kiếm sách luyện thi trong Nam , tìm hiểu các đề thi vào đại
học, các đề thi học sinh giỏi. Cứ thế, cái tự tin trong thằng bé học sinh bướng
bỉnh ngày nào lại dần dần trở về trong tôi.
Tôi cũng quan tâm đến việc lựa chọn một hướng đi phù
hợp với sở thích và khả năng của mình. Nhớ lại chuyện năm lớp 9 tôi đã đoạt
giải “kiện tướng nhớ từ” ở trường cấp III Thanh Miện mà cô giáo dạy tiếng Trung
tên là Đức đã tổ chức kỳ thi. Giải thưởng là một cuốn sách viết về cuộc đời của
các nhà bác học. Đọc sách tôi đã vô cùng khâm phục các nhà bác học và thầm ước
ao được như họ, chính vì thế mà cuốn sách đã ảnh hưởng nhiều đến thiên hướng của
tôi. Trong hai trường đại học Tổng hợp và Bách khoa, tôi thấy Trường Bách khoa
là trường kỹ thuật thực hành, rất nhiều học sinh ham thích, nhưng tôi lại thích
công việc nghiên cứu, công việc tìm kiếm những cái chưa biết hơn, vì thế tôi
thích trường Tổng hợp. Mỗi khi xem ti vi thấy những cán bộ nghiên cứu mặc áo
choàng trắng say mê bên những dàn dụng cụ thí nghiệm bằng thủy tinh trong suốt,
lòng tôi luôn dậy lên một niềm rạo rực. Phải chăng với những kiểu lựa chọn như
thế mà người ta sau này đã gọi tôi là “hâm” chăng? Sau này với thằng con trai
thì tôi đã chọn cho nó ngược lại, là Bách Khoa chứ không phải Tổng hợp. Để chắc
ăn nó thi đậu vào ngành công nghệ thông tin lấy điểm cao nhất, tôi đã “xắn tay”
luyện thi cho nó môn lý luôn! Nó chỉ phải học thêm môn toán còn môn hóa thì
không.
Thấy chuyện ôn thi đã khơ khớ, tôi đã làm hồ sơ dự thi.
Nhưng vẫn còn nguyên đó cái rắc rối là ông tham mưu trưởng lại không muốn cho
tôi đi thi! Tôi mới trổ tài văn chương, tìm cách thuyết phục ông tham mưu
trưởng, dù hồi đó chưa sáng tác được một chữ nào. Biết ổng rất quý tôi, tôi mới
giở một cái mẹo là phải đánh vào tình cảm của ông ấy. Tôi viết một lá thư rất
dài, kể chuyện đi phát rẫy khổ lắm, nắng cháy da, khát nước vô cùng, gần đó
người ta lại bán kem ngon quá mà tôi không có tiền mua, “anh cho em tiền mua
kem ăn đi!” Không ngờ mẹo của tôi thành công, vừa được tiền mua kem ăn vừa được
ông ấy đồng ý cho về đi Sài Gòn nộp hồ sơ dự thi!
***
Hồi ấy, các khoa tự nhiên của trường ĐH Tổng hợp còn
là Trường Đại học Khoa học. Lần đầu đến Sài Gòn, đến trước cổng trường có hàng
chữ to tướng “Khoa Học đại học đường”, tôi bỡ ngỡ vô cùng. Nhìn bộ quân phục
còn vương bụi đỏ và khét mùi khói rẫy, tôi cảm thấy rất ngượng ngùng trước
khung cảnh trăm hoa đua sắc của sinh viên đại học. Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng
nộp được hồ sơ cho phòng tổ chức.
Rồi ngày thi đã đến. Tôi được xếp thi tại trường Phan
Sào Nam ,
ngã Bảy. Vì chưa đi trọ bao giờ, cũng chưa biết ai là thân thích, nên tôi chưa
biết tính sao. Cùng lắm cứ ở ngay cổng trường, mấy năm đánh nhau ngủ rừng gian khổ
thế còn chịu được huống chi có vài đêm ở hè phố! Đâu có ngờ, sau này mới biết,
cách chỗ tôi thi có mấy trăm mét có nhà bà chị họ gọi mẹ tôi bằng dì di cư vào Nam 1954. Nhưng
rồi như có Trời Phật phù hộ, một anh chàng tên là Hoan, cũng bộ đội đi thi, đã rủ
tôi về ở cùng chỗ trọ của anh chàng ở trên đường Lý Thái Tổ gần đó! Đêm trước
ngày thi tôi và Hoan thi nhau giải toán, Hoan là dân chuyên toán nên khiến tôi
phải vì nể. Nhưng rồi cuối cùng Hoan lại không đậu vì còn phải thi lý, hóa nữa;
mấy năm trong quân ngũ, kiến thức của Hoan chắc rơi rụng đi nhiều. Từ đó đến
nay tôi không gặp lại vị ân nhân này nữa.
Nhớ lại hôm thi, khi trời sáng, học sinh từ các ngả lũ
lượt đổ vào trường thi. Dù rất tự tin nhưng tôi vẫn không khỏi hồi hộp khi thấy
những đối thủ học sinh phổ thông dân Sài Gòn của mình, mặt còn non choẹt, đã xệ
trên đôi mắt những cặp kính cận dầy cộp. Tôi đã bước vào phòng thi với hai mươi
tư thằng khác đều tên là Hùng!
Chúng tôi thi môn toán đầu tiên. Mới hết ba phần tư
giờ, bỗng có một chuyện làm tôi vô cùng hoảng hốt: tất cả học sinh trong phòng
tôi đã nộp bài hết, phòng thi chỉ còn trơ lại một mình tôi. Tôi luống cuống như
một kẻ bị rượt đuổi sắp bị bắt. (Sau đó tôi mới biết chương trình hệ 12 năm trong
Nam
trước đây học toán rất cao). Đến giờ nộp bài, tôi chỉ làm được khoảng 80% đề
thi, đúng sai còn chưa biết. Tôi nghĩ, so với những đấu thủ tài giỏi như vậy
thì chắc chắn mình sẽ bị thua mất thôi.
Đến chiều chúng tôi thi lý. Tôi đã nộp bài cùng với
các thí sinh khác, làm bài cũng hơn môn toán chút ít. Tôi đã thất vọng. Còn môn
hóa cuối cùng, liệu tôi có làm tốt hơn không? Nếu tôi thất bại thì còn mặt mũi
đâu mà gặp lại ông tham mưu trưởng được nữa. Tôi đã tự xỉ vả mình: “Học hành
như vậy mà cũng đòi đi thi !”
Rồi buổi sáng hôm sau môn thi hóa bắt đầu. Khi thầy
giáo mới đọc lướt đề thi, tôi đã phấn chấn vô cùng. Mới hết có nửa thời gian
tôi đã làm gần xong đề thi. Chỉ còn lại phần đòi hỏi sự sáng tạo của mỗi thí
sinh, tôi cắn bút suy nghĩ, rồi mạnh dạn viết vào bài làm của mình. Xong xuôi,
tôi xin phép ra ngoài rửa mặt mũi, tay chân, rồi trở lại chỗ ngồi ung dung xem
lại bài. Thấy lạ, người cán bộ coi thi, sau tôi biết là sinh viên khoa Địa chất
năm cuối, đã đến bên tôi kiểm tra ngăn bàn xem có “phao” gì không, và tất nhiên
là không có. Tôi đã nộp bài thi trước sự ngạc nhiên của cả cán bộ coi thi lẫn
các thí sinh trong phòng. Khi tôi ra về, người giám thị đã tiễn tôi ra cửa và
nói:
-Tôi rất mong và tin là sẽ được gặp lại anh trong
Trường Đại học Khoa học của chúng tôi.
Điều đó đúng là đã trở thành sự thật.
***
Tôi đã trở về đơn vị với vẻ mặt hốc hác sau một kỳ thi
đầy căng thẳng. Khi tính toán lại bài thi, không biết có được cộng điểm ưu tiên
gì không, nhưng tôi tin là mình sẽ đậu.
Sau đó tôi đã được về phép gặp lại quê hương thân yêu
của mình. Tôi đã mang theo về một niềm tự hào của một người đã vượt qua được
những thử thách, thử thách ác liệt trong chiến tranh và thử thách về trí tuệ
của một kỳ thi. Dù chưa có kết quả nhưng tôi đã nói với thầy, mẹ tôi là chắc
chắn tôi sẽ đậu. Tôi đã được gặp lại cha, mẹ và anh em. Ông nội tôi đã mất,
nhưng tôi tin là mình đã làm hài lòng ông. Đến giờ ngẫm lại chuyện ông nội tôi nói
về số mệnh của tôi, ông bảo năm sinh, tháng sinh của tôi cùng là một con vật
(niên cốt, nguyệt bì), tức là vừa khít, là hiếm có, rồi tôi sẽ khác người! Vậy
hôm nay tôi thành “Nhà văn Đông La”, “cái gì cũng biết” thì không biết tôi có
đúng là “khác người” như ông nội tôi đã tiên tri không?
Sau kỳ phép đầu, tôi vào đơn vị. Quả đúng là tôi đã
đậu. Trung đoàn tôi có 5 người dự thi, nhưng những người được tập trung có thầy
dạy ôn thi thì không ai đậu, chỉ mình tôi tự ôn thi thì lại đậu. Một hôm, tôi
thấy trên trang tư của tờ Sài Gòn giải
phóng đã đăng tên và số báo danh của tôi trong danh sách thí sinh trúng
tuyển vào đại học Khoa Học. Tôi đã mua tờ báo ấy với một niềm vui không kém bất
cứ niềm vui nào mà tôi đã được trải qua.
***
Hôm nay, một ngày 30 - 4 nữa
lại đến, ngẫm lại thấy ngay từ ngày vào đời ấy, chuyện đi thi thôi, tôi cũng đã
gặp chuyện bất công rồi. Sau này còn cả một chuỗi như vậy nữa. Dường như số tôi
là thế. Nhưng thú vị ở chỗ tất cả những bài toán mà số mệnh đặt ra trước tôi,
tôi đều giải được! Cũng vì thế mà tôi không có thù hận, cay cú chuyện được mất cái
gì cả. Tôi luôn hiểu hòa bình là điều quý giá nhất. Tôi lại thấy cuộc đời tôi sóng
gió như thế hóa ra lại hay hơn nếu nó chỉ bằng phẳng và nhạt nhẽo!
Có lần nói điện thoại với cô
Hòa :
-Cô Hòa ơi, sao em tài 1000
không được hưởng 1, có người tài 1 lại được hưởng 1000. Ông Trời cũng bất công
quá!
-Em còn muốn anh khổ hơn nữa
cơ. Cõi tạm mà anh chấp làm gì. Anh ơi những người đang hưởng phúc cứ nghĩ là
sẽ hưởng đời đời kiếp kiếp, nhưng không gieo nhân tiếp, bóc ngắn cắn dài, rồi
sau này còn được hưởng gì?
Biết lời cô là vàng ngọc,
nhưng mấy khi được sống trên cõi phàm này, cuộc đời mỗi người vẫn thật quý giá.
Vì thế làm sao mà vừa làm được tốt đời lại vừa giữ được đẹp đạo sẽ là hay nhất !
4-5-2015
ĐÔNG LA