Trang molang mới có bài viết về Huy Đức (San
“hô”) khi tay này lại ngo ngoe viết nhân dịp cựu thứ trưởng Trần Quang Cơ từ
trần và có nhắc đến bài Lich-sử-nhìn-qua-lỗ-đồng-xu của tôi. Trong suốt hơn 3 năm qua từ
khi lập trang blog, bài đó chính là bài được đọc nhiều nhất, đến nay đã gần
15000 lượt. Đặc biệt có lượng comment khủng khiếp, in ra có thê thành cả một
cuốn sách! Với người viết không ai không thích có nhiều độc giả đọc bài của
mình, có điều với tôi, ý thích của độc giả lại không trùng với tôi, như những
bài tôi tâm đắc nhất, khó viết nhất, là những tri thức cơ bản nhất, cao nhất,
sâu nhất mà trí tuệ của cả loài người suốt bao năm mới đưa đưa ra được, như
bài KHOA
HỌC VÀ TÂM LINH TƯƠNG ĐỒNG VÀ DỊ CẢM tôi
vừa mới đăng chẳng hạn, lại không có nhiều người đọc. Đó là điều tất nhiên vì
trình độ quần chúng nhưng vẫn thấy buồn buồn.
Bài Lich-sử-nhìn-qua-lỗ-đồng-xu tôi đăng đã lâu, những người mới
quen tôi chắc chưa đọc nên hôm nay xin đăng lại cái bài “nổi tiếng” này:
2-7-2015
ĐÔNG LA
|
ĐÔNG LA
LỊCH SỬ NHÌN QUA
LỖ ĐỒNG XU
(Về cuốn Bên thắng cuộc của
Huy Đức)
Trong bài ben-thang-cuoc-vi-sao-toi-viet?,
Huy Đức viết:
“Không ai có thể đi đến tương lai
một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực về quá khứ”; “Một hôm ở nhà Đỗ
Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh, người vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi
ca sỹ bị coi là chống cộng Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại
những gì diễn ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”. Gần như không mấy ai để ý đến
câu nói đó của Tuấn Khanh, nhưng tôi thì cứ bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công
việc thu thập tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử
đầy bi kịch của Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách”; “Đây là công trình
của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật. Lịch sử cần được biết như nó đã từng
xảy ra và sự thật là một con đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc”.
Những sự
thật quan trọng liên quan đến vận mệnh của đất nước ai cũng muốn biết, có điều
những chuyện con con liên quan đến chính bản thân ta đây còn bị xiên xẹo tùm
lum thì những sự thật lớn lao đâu dễ biết được.
Theo triết học, có cái tận mắt ta nhìn thấy cứ tưởng là sự thật nhưng lại không
phải, bởi nó là hiện tượng chứ không phải bản chất. Như than chì và kim cương,
người không biết cứ tưởng là hai chất khác nhau, nhưng thực chất chúng lại cùng
là các bon. Có những chuyện người thật việc thật vẫn không phải là sự thật bởi
chúng chỉ là những mẩu của sự thật mà thôi. Trong khi đó với tôi, sự thật cũng
vẫn chưa phải là lịch sử, không phải cái sự thật nào cũng là lịch sử, bởi với
mênh mông sự thật trong đời sống thì lịch sử nào chứa cho đủ?
Vậy lịch sử là gì?
Có lẽ chỉ sự thật nào có thể trở
thành văn hóa, những sự thật chủ chốt, bao quát, có thể nói lên được bản chất
của vấn đề, giúp cho hậu thế những bài học bổ ích thì sẽ thành lịch sử. Tất
nhiên không chỉ có những bài học về sự thành công mà có cả những bài học về sự
thất bại. Vì vậy những từ “minh triết”, “hiền minh” là đúng nhất dùng để chỉ
những phẩm chất cần phải có của một nhà viết sử. Người ta cần phải thấu suốt
hết mọi lẽ, với tấm lòng thiện đức, thì mới có thể viết được sử.
Còn Huy Đức cũng có tham vọng viết
sử thì có cái gì?
Đó là một chú bé sau giải phóng bị
lóa mắt bởi: “Mấy
chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một
người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; con búp bê nhựa – biết nhắm mắt khi
nằm ngửa và có thể khóc oe oe … Những chiếc máy Akai, radio cassettes”. Từ
đó thấy: “Có một
miền Nam không giống như
miền Nam
trong sách giáo khoa của chúng tôi”.
Tôi khi ấy gần như thuộc lớp bộ đội
sau cùng, cũng kịp trực tiếp tham gia chiến dịch HCM. Từ rừng về tôi
cũng thấy SG to đẹp, nhưng có lẽ tôi là số rất ít bộ đội không đi lùng mua
khung xe đạp, búp bê, radio cassettes, mà cái mong ước lớn nhất của tôi lúc ấy
là được về thăm nhà và được vào đại học, chỉ thế thôi!
Huy Đức, đến tận 1983
mới “có một năm
huấn luyện ở Sài Gòn… Tôi bắt đầu biết đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân
khấu ca nhạc. Cho dù, đã kiệt quệ sau 8 năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn
là một “nền văn minh””, để rồi với cách nhìn ấy đã viết nên cuốn sách: “Cuốn sách của tôi bắt
đầu từ ngày 30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam.
Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác
bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc”.
Đó thực sự là cách nghĩ từ một cái
nhìn thiển cận. Và với cách nhìn ấy, cái nhìn lịch sử qua lỗ đồng xu như thế
thì sẽ viết được cái gì?
Trước
khi phân tích cụ thể, ta thử xem qua dư luận về cuốn sách của Huy Đức.
Thật kỳ lạ cả phía “ta” lẫn “địch” đều
có người chê Huy Đức dữ dội thì có nhóm nhỏ “xuất thân việt cộng” nhưng đang
làm thuê cho những ông chủ thuộc “thế giới tự do” thì rất ca ngợi cách nhìn lộn
ngược của Huy Đức.
Trong bài ĐỌC “BÊN
THẮNG CUỘC” CỦA HUY ĐỨC Posted on 10.12.2012 by nguyentrongtao , ông GS TRẦN HỮU DŨNG, con Bác sĩ
Trần Hữu Nghiệp nguyên là bác sĩ riêng của Bác Tôn, một người đang dạy học bên
Mỹ, viết:
“Bên Thắng
Cuộc” của Huy Đức là quyển sách hay nhất về lịch sử Việt Nam sau 1975 mà tôi
được biết… Cuốn sách đầy ắp những thông tin mà tôi chưa từng đọc được trong bất
cứ sách báo nào đã xuất bản. Huy Đức là một trong số rất ít (có thể đếm
trên ngón một bàn tay!) ký giả Việt
Nam hiện nay có khả năng nghiệp vụ cao, dày dặn kinh nghiệm, và nhất là có biệt
tài tạo sự tin cẩn ở những người được phỏng vấn về những sự kiện vô cùng “nhạy
cảm”, thậm chí “thâm cung bí sử”… “Bên Thắng Cuộc” lột trần nhiều “huyền
thoại” về một số lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam ”.
Trần Hữu Dũng cũng viết: “Trong chương 1, Ba
mươi Tháng Tư, Huy Đức đặt một tiểu tựa khiến người đọc ngỡ ngàng. Họ ngỡ ngàng
vì biết tác giả là người trưởng thành từ bên kia nhưng dùng hai chữ Tuẫn Tiết
đặt cho câu chuyện của các tướng lãnh bên này tự kết liễu đời mình trong ngày
chế độ sụp đổ… chỉ có thể dùng hai chữ “tuẫn tiết” chứ không thể có từ nào hay
hơn”.
Việc Trần Hữu Dũng khen Huy Đức dùng
chữ “tuẫn tiết”
để ca ngợi dũng khí của mấy người tự sát, vậy phải chăng đó cũng là cách gián
tiếp chê gần một triệu người lính chế độ cũ khác không tự sát là hèn nhát? Còn
tôi thấy mấy vị tự sát chẳng cần phải uổng mạng như thế nếu các vị biết Nixon
đã thể hiện quyết tâm của Mỹ dứt khoát bỏ rơi VNCH khi quát lên với Kissinger
rằng (theo baomoi.com): “Tôi không biết liệu
lời đe dọa đó có đủ không, nhưng tôi sẽ làm bất cứ việc chết tiệt gì - hay cắt
đầu hắn ta, nếu cần thiết” (I don't know whether that threat goes far
enough or not but I'd do any damn thing that is -- or cut off his head if
necessary) khi nói về việc TT Thiệu không muốn ký vào Hiệp định Paris. Đó cũng chính là cái lý do
khiến tướng Nguyễn Cao Kỳ từng thốt lên:“Đây là cuộc chiến tranh của người
Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê”; rồi: “Việt Cộng gọi chúng tôi là
những con rối, những con bù nhìn của người Mỹ. Nhưng rồi chính nhân dân Mỹ cũng
gọi chúng tôi là những con bù nhìn của người Mỹ, chứ không phải là lãnh tụ chân
chính của nhân dân Việt Nam”. Vậy
thì các vị đã tuẫn tiết thì tuẫn tiết vì cái gì? Vì cái gì Huy Đức đã tôn vinh
họ? Và vì cái gì Trần Hữu Dũng ca ngợi Huy Đức?
Nguyễn Giang, hiện là Trưởng Ban
Việt Ngữ BBC, tra trên mạng thấy: “Name: Nguyen Giang. Born 1972 in Son La, Vietnam . High
school and first year of law studies in Hanoi”, nghĩa là cũng là “con Việt
cộng” ở Sơn La. Trên bbcvietnamese.com,
trong bài Về cuốn 'Bên Thắng
Cuộc', Nguyễn Giang viết:
“Các đoạn có giá
trị nhất, nhiều tư liệu mới nhất và tổng hợp được cách nhìn của
các bên nhất phải kể đến giai đoạn lực lượng cộng
sản Nam và Bắc tiến vào Sài Gòn, và thời kỳ quân quản rồi thống
nhất hai miền.
… ngòi bút Huy Đức tỏa sáng
trong giọng văn âm thầm, cố gắng giữ vẻ bình thản nhưng bên trong sôi
sục, thậm chí có chỗ nghẹn đi vì các biến cố đau đớn cho hàng
triệu người mà anh chứng kiện cận cảnh, nhất là ở trong tâm thức
một người đi bộ đội về và từ Bắc vào sống trong Nam…
Các vụ ‘thâm cung bí sử’ trong
chính trường Việt Nam, nhất là giới tướng lĩnh như cái chết của các
tướng Nguyễn Chí Thanh thời chiến tranh, rồi những chuyện đột tử của
các tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện sau này cùng
một âm mưu bao vây, hạ thấp tướng Võ Nguyên Giáp được mô tả thật sinh
động”.
Trong bài CÓ PHẢI MÁC LẠI LÀM KHỔ DÂN VĂN GIANG? phản bác TS Phạm Ngọc Cương ở
Canađa, tôi đã viết: “Từ cái nhìn phi lịch
sử, từ chỗ chê bai cuộc sống ở trong nước, ông Cương ca ngợi Canada, nơi ông là
một kẻ tha phương cầu thực. Mọi chuyện ông nói đều đúng cả, nhưng đó chỉ là tư
duy “phản xạ có điều kiện” của Pavlov, chứ không phải là cái nhìn biện chứng
của một tư duy triết học”, thì có lẽ ông Giang, ông Dũng cũng giống như ông
Cương thôi, cũng được những “điều kiện” ở Anh,
ở Mỹ đã tạo ra những “phản xạ” trong
nhận thức, nên các ông đã ca ngợi Huy Đức viết ngược như thế.
Ngẫm lại cái số phận thật tai quái,
tôi đây mà cũng lại có lần “hân hạnh” được dùng tiệc cùng với “ông Trưởng ban”
Giang nói trên và cả “nhà cách mạng Lê Công Định” nữa tại quán Nga trên đường
Tôn Đức Thắng, Q I, TPHCM!
Ngược lại cái tư duy “phản xạ có
điều kiện” nói trên, trên haingoaiphiemdam,
một chứng nhân được Huy Đức cho vào “trang sử” của mình là Lê Quang Liễn, một
Thiếu Tá Quân lực VNCH, đã phản đối Huy Đức:
“Một nhà báo chân chính phải viết cho sự
thật, vì lương tâm thì đừng bao giờ gán, chụp cho những người vắng mặt những gì
vì lợi ích cho bản thân, phe nhóm”.
MX Phạm Văn Tiền ĐĐ F Khóa 20 Đà Lạt:
“Kính thưa quý diễn
đàn.
Gần đây dư luận xôn xao về một quyển
sách của tác giả Huy Đức, người từ chế độ cộng sản viết về tài liệu lịch sử của
cuộc chiến vừa qua. Qua quyển sách có tên là " Bên thắng cuộc", nhìn
toàn diện tác giả dường như muốn diễn đạt và dẫn chứng những điều thật sự xảy
ra sau cuộc chiến, nhưng sự thật đó lại là những điều không thật… Những dẫn
chứng bịa đặt mặc dầu với những tên khác nhau, nhưng tác giả Huy Đức phải hoàn
toàn chịu trách nhiệm những điều không có thật trong quyển sách của mình. Qua
quyển sách "Bên thắng cuộc" của tác giả Huy Đức là những viên thuốc
đắng có bọc đường”.
Ở đoạn này Huy Đức rất giống Bùi
Tín. Bùi Tín từng "chiêu hồi", cố công "lập công chuộc tội"
nhưng vẫn bị chửi rủa lăng nhục, thậm chí có người còn tố cáo Bùi Tín giết
người!
Về phía “ta”, trong bài Cóp nhặt ý kiến bình
về “Bên thắng cuộc” Posted
by butluan on Tháng Mười Hai 21, 2012 . Về chuyện Huy Đức “tố cáo” nhà nước
đầy đọa binh lính chế độ cũ sau giải phóng, bạn Pham
Truong Son – truongsonnd2007@yahoo.com.vn viết:
“Các ông sang bờ bên
kia đại dương đã gần 40 năm, mà vẫn còn rất nhiều tổ chức, hội đoàn, cá nhân
ngày đêm kêu gào chống phá, lật đổ. Huống chi chiến tranh vừa kết thúc, quản lý
rồi mà có khi các ông vẫn còn làm loạn ấy chứ, để
các ông tự do thì không biết thế nào!”
Bạn Hoàng Việt Vũ:
“… Trại cải tạo là
chuyện mà Nhà nước cần phải làm. Chủ yếu là để đảm bảo an ninh trật tự trong
nước, tránh việc chống phá của các thành phần thuộc chế độ cũ trong hoàn cảnh
khi mà nhà nước còn quá nhiều khó khăn, nếu phải chống cả thù trong lẫn giặt
ngoài thì thành quả cách mạng sẽ đều bị sụp đổ.
Mặt khác, nếu so sánh giữa trại cải
tạo của chế độ và những nhà tù chế độ cũ như nhà tù Côn Đảo, nhà tù Phú Quốc,
công việc cuốc đất hằng ngày, tăng gia sản xuất, học tập chính trị có thấm gì
so với những kìm kẹp, nhận nước, đóng đinh, cưa chân mà chế độ cũ đã gây ra đối
với những người cách mạng.
Hãy nhìn xem, những người mà cha mẹ
họ ra khỏi tù với hàng trăm vết thương, ra tù với đôi chân bị cưa 7 lần, những
người thân tìm thấy xác của con cháu mình trên đầu vẫn còn hàng chục cây đinh
dài cả chục cm. Họ mới là người có quyền căm thù, có quyền lên tiếng, nhưng họ
vẫn im lặng và đặt lại quá khứ sang một bên, họ không quên đâu, họ vẫn nhớ,
nhưng đối với họ tương lai thì quan trọng hơn nhiều cái quá khứ đau đớn ấy.
Bạn Trần Hạ Long:
“Tôi định không viết
nhưng thấy nhiều người than thở thở than theo ông Huy Đức quá nên cầm lòng
không được
Này các bác, tôi là dân Bắc Kì đây,
gia đình tôi có cả người từng làm làm ở hành chánh quốc gia đấy và từng làm dân
biểu nữa, cũng đi học nhưng ở lại không vượt biên, cũng chả sao cả… Tôi kể các
bác nghe nhá:
…Ông họ tôi là thiên chúa giáo dân,
ông tôi chiến đấu chống Pháp tại hà nam, ông tôi là công dân nước Việt chống
xâm lược nhưng chưa hề xâm lược nước Pháp nhưng nước Pháp vĩ đại mang ông tôi
ra phơi nắng trong khi ông tôi bị thương nặng vì can tội ” làm Việt Minh” và
ông tôi chết trong đau đớn, nhưng còn hơn một số kẻ cúc cung vì nước Pháp thà
làm trâu ngựa hơn làm người tự do…
…Thả tù binh xuống biển, bẻ răng đập
hàm… không thủ đoạn đê hèn nào không làm… Nhưng các bác lờ tịt đi… muốn chối
tội à. Tôi biết còn nhiều bác từng nhuốm máu nay tỏ ra cao đạo phê phán cộng
sản, nhiều bác lính kiểng tỏ ra anh hùng.
Xin các bác nghĩ lại cho một ít”.
Xin các bác nghĩ lại cho một ít”.
Còn với tôi, bộ sách của Huy Đức rất
dày, riêng cuốn I đã hơn 800 trang, nên bài này tôi chỉ muốn chỉ cho Huy Đức
biết thực chất cái “nền
văn minh” của Miền Nam trước giải phóng là như thế nào thôi.
Như trong bài về HUỲNH NGỌC TUẤN, HUỲNH THỤC VY tôi đã viết:
“Về sự tươi đẹp của chế độ VNCH,
Huỳnh Ngọc Tuấn cũng như không ít người từng ca ngợi và hay mang ra so sánh với
Bắc Việt nghèo khổ, có điều họ không hiểu rằng, đó chỉ là “lợi nhuận” của việc
chống cộng mà cư dân ở những vùng đô thị miền Nam được hưởng từ việc đánh đổi
bằng máu của dân Bắc bởi “chiến tranh phá hoại” và máu của dân cư vùng nông
thôn. Theo "Fire In The
Lake" by Frances Fitgerald,
Vintage Books, New York 1985, pp. 134-139, khi viết về Diệm, tác giả cũng viết:
“Đối với hắn, thế giới hiện đại là Sài-Gòn, cái thành phố ký sinh trùng đó đã
trở nên béo mập bởi máu của thôn quê và lợi lộc của Tây phương. (For him, the
modern world was Saigon , that parasite city
that fattened from the blood of the countryside and the lucre of the West)”.
Cụ thể trong Viện
trợ nước ngoài trong Chiến tranh Việt Nam trên Wikipedia theo Nguyễn
Nhật Hồng Trưởng bộ
phận B29:
"Toàn bộ tiền viện trợ và tiền
giúp đỡ của quốc tế cho Việt Nam
đánh Mỹ đều tập trung về một đầu mối là B29... Từ 1965 đến 1975, B29 đã tiếp
nhận Sáu trăm bảy mươi tám triệu bảy trăm ngàn đô la Mỹ (số tròn) (678.700.000
USD), trong đó hơn sáu trăm hai sáu triệu đô la là tiền viện trợ đặc biệt, hơn
hai mươi bốn triệu đô la là tiền của các tổ chức và nhân dân quốc tế ủng hộ,
gần 21 triệu đô la là tiền lãi kinh doanh chuyển đổi và gửi ngoại tệ ở nước
ngoài, gần bảy triệu rưỡi đô la là lãi từ tiền dự trữ của chiến trường sau giải
phóng...".
Tài liệu của CIA giải mật của Hoa Kỳ thì
đưa ra những con số ước tính qua 20 năm, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã viện
trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổng khối lượng hàng hóa là 2.362.581 tấn;
quy đổi thành tiền là hơn 7 tỉ rúp (tương đương 7 tỉ USD, trong đó hơn một nửa
là viện trợ quân sự).
Còn Viện trợ quân sự Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa:
“Theo nguồn do Việt Nam thống kê
thì tổng viện trợ cho VNCH từ 1954 đến 1975 là trên 26 tỷ USD. Theo nguồn của
Hoa Kỳ thì tổng viện trợ Quân sự cho VNCH từ 1955 đến 1975 là 16,762 tỉ USD.
Lưu ý số vũ khí và viện trợ trên chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng chiến phí
của Mỹ ở Việt Nam .
Nó chưa bao gồm số vũ khí và chiến phí do quân đội Mỹ trực tiếp sử dụng trong
giai đoạn tham chiến trực tiếp 1964-1973, mà theo thống kê là trên 141 tỷ USD
chi phí trực tiếp, tương đương 686 tỷ USD theo thời giá 2008. Mặt khác, nhà
kinh tế Steven ước tính tổng chi tiêu cuối cùng của Mỹ cho cuộc chiến tranh Việt
Nam sẽ lên tới 925 tỷ USD; gấp 3,8 lần chi phí của Mỹ trong thế chiến thứ nhất và chỉ đứng sau chi phí của Mỹ cho thế chiến thứ hai”.
Như vậy tổng chi phí của Mỹ cho
chiến tranh VN gấp hơn 130 lần mà phía VNDCCH đã nhận được viện trợ. Vì thế cái “nền văn minh” mà Huy Đức thấy qua “Mấy chiếc xe đạp bóng
lộn”; “cặp
nhẫn vàng chóe”; “Những chiếc máy Akai,
radio cassettes”; rồi: “rạp chiếu bóng, Nhạc viện
và sân khấu ca nhạc” v.v… đều có
nguồn gốc từ “925
tỷ USD” mà Mỹ đã chi cho cuộc chiến ở VN, kèm theo 58000 nhân mạng nữa, để
rồi mất trắng trở về.
Theo Vi Anh trong bài Tâm
Tư Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu :
“Tiến sỉ Nguyễn Tiến
Hưng đưa ra một vài thí dụ và dẫn chứng của sự kiện lịch sử tiêu biểu nhưng vô
cùng đau đớn cho chánh quyến VNCH khi lệ thuộc Mỹ. Về kinh tế nội việc xin Mỹ
viện trợ gạo là cả một vấn đế phức tạp, phiền toái mà trăm dâu đổ đầu tằm VNCH
phải chịu. Cứ mỗi năm vào 16-5 mùa giáp hạt, thì kho gạo VN hết, từ tổng thống
đến chánh phủ phải chạy đôn chạy đáo để cầu viện. Câu viện phải qua 6 bước. Xin
Hành Pháp cấp, Quốc Hội chuẩn chi, giải quyết vận chuyễn,. Vận chuyễn theo luật
viện trợ Mỹ phải đấu thầu chuyên chở. Ông Chủ tịch Ủy Ban chuẫn chì có công ty
hàng hải “ bồ bịch” muốn công ty của mình được thầu. Làm không khéo, đổ bể các
nhà thấu khác la lên thì VNCH mang tiếng xấu, mà không làm cho công ty bồ bịch
của Ông thì chuẩn chi khó khăn hay bị cắt giảm. Chở gạo từ Louisiana lên San
Fran, từ San Fran về VN. Nghiệp đoàn công nhân bốc dở biết Quân Đội ở Miển
Trung đang cần gạo, họ hay đình công để làm tiền. Chánh quyền VNCH không thể
trả tiền vòi vĩnh mà cũng không thể ngăn cản quyền đình công của nghiệp đoàn,
trong khi Quân Đoàn I xếp hàng xe chờ gạo, lính gần hết quân lương. Chánh quyền
phải nhờ các thương gia gạo dàn xếp. Đó là chưa nói gạo viện trợ về bán rẻ
thiệt hại cho nông dân VN”.
Chính Nguyễn Văn Thiệu còn có những
câu nói để đời rất hồn nhiên thừa nhận việc mình làm một ông Tổng thống “bù
nhìn” như sau:
- Mỹ
còn viện trợ, thì chúng tôi còn chống cộng;
- Nếu
Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một
tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!
Không chỉ lệ thuộc về kinh tế mà về
chính trị chế độ của Nguyễn Văn Thiệu cũng hoàn toàn bị lệ thuộc. Khi Mỹ nhận
ra sai lầm trong cuộc chiến ở VN, như việc “cắt lỗ” trong đầu cơ chứng khoán,
chính phủ Mỹ đã “vắt chanh bỏ vỏ” Nguyễn Văn Thiệu không thương tiếc. Trong Nguyễn
Văn Thiệu – Wikipedia tiếng
Việt:
“trong thư của Tổng
thống Nixon gửi ông vào ngày 16 tháng 1 có đoạn: "Tôi đã quyết định dứt khoát
sẽ ký tắt hiệp định vào ngày 23 tháng 1 năm 1973 tại Paris. Nếu cần tôi sẽ làm
đúng như nói trên một mình. Trong trường hợp đó tôi phải giải thích công khai
rằng chính phủ của ông cản trở hòa bình. Kết quả sẽ là sự chấm dứt không tránh
khỏi và lập tức viện trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ - và một sự thay đổi
nhân sự trong chính phủ của ông khó mà nói trước".
Trong bức thư đề ngày 6/10/1972,
Nixon còn ngầm đe dọa: "Tôi
yêu cầu ông cố áp dụng mọi biện pháp để tránh sinh ra sau này một tình huống có
thể đưa tới những biến cố tương tự như biến cố mà chúng tôi đã ghê tởm năm 1963
và chính bản thân tôi cũng đã kịch liệt phản đối năm 1968...".
Henry
Kissinger về sau trong hồi ký của mình đã cho rằng: “Nguyễn Văn Thiệu đã
điều hành quốc sự theo một kiểu "tàn bạo", "xấc láo",
"ích kỷ, độc ác" với những "thủ đoạn gần như điên cuồng"
khi làm việc với người Mỹ”; Kissinger cũng tiết lộ rằng, khi nói về việc
Nguyễn Văn Thiệu ngăn cản Mỹ ký hiệp định Paris, Tổng thống Nixon đã giận dữ
thốt lên: "Ông sẽ hiểu
thế nào là sự tàn bạo nếu tên đểu giả đó không chịu chấp thuận. Ông hãy tin lời
tôi."
Một “nền văn minh”
luôn tùy thuộc vào chế độ chính trị và tiềm lực kinh tế. Vì những lẽ trên đây
mà người ta đã cho cuộc sống ở Sài Gòn trước 75 chỉ là “phồn vinh giả tạo”.
Mà nền kinh tế ấy cũng lại: “ở miền Nam , Hoa kiều
kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3
lĩnh vực: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn
80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất,
luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn
50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá
cả thị trường”.
Đó là những thông tin chỉ bấm một
phát là ra trên Google, vậy mà Huy Đức đến tận bây giờ còn mù quáng thì
thử hỏi còn tham vọng viết lách cái gì?
Còn cuộc sống ở ngoài bắc trước
1975, Huy Đức cần phải hiểu nếu không có chiến tranh, nếu miền Bắc không
phải “Thóc không
thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “tất cả vì Miền nam ruột thịt”
thì chắc chắn mức sống 2 miền Nam, Bắc không quá chênh lệch như thế!
Cũng liên quan đến Kissinger, cũng về sự lệ thuộc nước ngoài,
Lê Mai trong bài Ba bảo bối của Lê Đức Thọ viết về Lê Đức Thọ, một nhân vật mà
Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên cho "Ông ý là nhà ngoại giao khổng
lồ; nguyên Tổng bí thư Lê Khả
Phiêu đánh giá là một “phái viên chiến lược
toàn năng, có thể ví như một tướng quân tài ba thao lược” (VietNam.net);
còn Huy Đức trong cuốn sách của mình đã cố công bôi đen hình ảnh của ông bằng
những tư liệu không chính thống; nhưng thực tế, với Nguyễn Văn Thiệu, ta càng
thấy nhục cho người Việt mình trước người Mỹ bao nhiêu thì với Lê Đức Thọ, ta
lại càng tự hào bấy nhiêu. Lê Mai đã viết:
“Kissinger viết: “Tóc
hoa râm, đường bệ, Lê Đức Thọ bao giờ cũng mặc bộ đại cán màu xám hoặc ma-rông.
Đôi mắt to và sáng, ít khi để lộ sự cuồng tín đã thúc đẩy ông hồi mười sáu tuổi
đi theo phong trào du kích cộng sản chống Pháp. Ông bao giờ cũng tỏ ra rất bình
tĩnh, thái độ bao giờ cũng không có điều gì chê trách được, trừ một hai lần. Ông hoàn toàn biết
ông muốn gì và phục vụ lý tưởng của ông một cách tận tụy và khéo léo”.
Kissinger dường như tin rằng chìa
khóa để giải quyết vấn đề VN là ở Mátxcơva và Bắc Kinh.
- Ngài cố vấn qua Bắc Kinh,
Mátxcơva, chắc đã được các bạn của ngài thông báo về ý kiến của chúng tôi trong
đợt đàm phán này - Kissinger khiêu khích.
- Bạn chúng tôi ủng hộ chúng tôi,
nhưng không làm thay chúng tôi. Mấy năm qua các ông cứ chạy vay chỗ này chỗ
kia, chỉ làm phức tạp thêm vấn đề. Trong một ván cờ, quyết định thắng thua phải
là người trong cuộc, không có cách nào khác. Chúng tôi độc lập giải quyết vấn
đề của chúng tôi - Lê Đức Thọ trả lời.
Khi Kissinger thông báo, Sài Gòn sẽ
không ký, Lê Đức Thọ nói với Kissinger: “Năm năm nay không bao giờ ông để tôi
tin ông lấy một lời. Ông hứa danh dự rồi chính ông lại dí ngay lời hứa đó xuống
chân ông. Ông lật lọng hết mức”.
Kissinger bực lên và đáp:“Ông nói là
lời của tôi vô giá trị, thế thì ngồi đây đàm phán làm gì. Tôi phải tính đến
chuyện lần sau để người khác đàm phán với ông, tôi với ông không đàm phán với
nhau nữa”.
Kể cũng lạ, đi đàm phán với đối phương
là giáo sư Đại học Harvard lừng danh mà Lê Đức Thọ nhiều khi ứng xử như với cán
bộ của mình, nghĩa là tiếng oang oang, chỉ mặt lên tay, thậm chí còn nói thẳng
ra rằng Kissinger là kẻ nói láo!
Một hôm, trước bữa nghỉ ăn trưa,
Kissinger nói với Lê Đức Thọ:
- Hiện giờ ông cố vấn đàm phán với
tôi thì ông nói như mắng tôi; sau này kết thúc đàm phán, chấm dứt chiến tranh,
lập lại hòa bình rồi, thì ông mắng ai?”.
Tóm lại, Bên Thắng cuộc là cuốn sách được Huy Đức viết rất kỳ
công, chi li, nhưng những cái bình thường thì đều đã được đăng tải trên sách
báo chính thống, còn những cái khác thường thì cũng đã đăng tải trên mạng.
Riêng tôi thì còn biết hơn nhiều lần kể cả số lượng cũng như độ ‘ghê gớm” của
những tư liệu, quan trọng là phải biết có cần viết ra hay không mà thôi. Chỉ có
điều đặc biệt là Đức khoe do công việc nên đã được gặp và phỏng vấn nhiều nhà
lãnh đạo và những cán bộ cao cấp, đảm bảo tính chính xác của thông tin, bởi đều
là những chuyện người thật việc thật. Nhưng như tôi đã viết, dù đúng là chuyện
người thật việc thật, nhưng nếu chỉ là cái nhìn chủ quan, phiến diện, cục bộ
thì chỉ là những mẩu sự thật chứ chưa phải là sự thật. Mà Lịch sử lại cần phải
được viết bởi sự minh triết để có thể bao quát thấu suốt, viết ra được bản chất
sâu xa nhất của các sự kiện, để đời sau rút ra được những bài học bổ ích. Trong
khi đó Bên thắng cuộc lại chỉ xoáy vào cái xấu, cái yếu kém,
lại được nhìn nhận bằng một cái tâm tối trí thấp, nên cái mà Huy Đức viết ra
không phải là lịch sử với ý nghĩa cao quý nhất của nó mà chỉ là những ghi chép
sai lạc. Theo tôi, đây là cuốn sách rất nguy hiểm bởi cái vẻ khách quan, và
thái độ điềm tĩnh khi liệt kê chi li các vụ việc; người có thành kiến, người ít
hiểu biết và nhất là lớp trẻ rất dễ bị dẫn dắt để tin đó là sự thật!
Với những Chỉ thị về việc “Nói và viết những vấn
đề liên quan đến lịch sử và lãnh đạo Đảng, Nhà nước”, chắc chắn Huy Đức đã
vi phạm. Phải chăng Huy Đức không sợ vì đã noi theo Herostratos (‘Ηρόστρατος), một thanh niên
thời cổ đại, hy vọng sẽ trở nên nổi tiếng đã phóng hỏa đốt Đền thờ thần Artemis?
Chắc không phải vậy, mà Huy Đức chỉ noi theo một số người ở chính nước ta đã
nổi danh bằng cách nói ngược. Điển hình như bà Dương Thu Hương mà Đức đã coi
như thần tượng từng nói là đã khóc như cha chết trong ngày giải phóng vì thấy
đội quân chiến thắng của mình là đội quân man rợ. Có điều bà này cũng xạo, cũng
là kẻ như các cụ nói là lá mặt lá trái, cơ hội, vì thực tế, ngày mới giải phóng
bà ta không "khóc" mà đã viết truyện “Loài hoa biến sắc”
cho “nền văn minh”
của SG, cái “nền
văn minh” đã làm lóa mắt Đức đó, chỉ là “Một lớp giấy trên
chiếc rọ làm hình nhân bị xé rách. Một lớp váng dầu ngũ sắc bị khuấy tan trên
mặt nước tù” mà thôi!
Cuốn Bên thắng cuộc còn rất nhiều vấn đề, nếu còn hứng
viết, tôi sẽ viết tiếp.
TPHCM
24-12-2012
ĐÔNG LA