ĐÔNG LA
ĐĂNG LẠI MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ
LUẬN
NHÂN LỄ KỶ NIỆM
CỦA HỘI ĐÔNG LÝ LUẬN TRUNG
ƯƠNG
Sáng 22/10/2016 tại Hà Nội, Hội
đồng Lý luận Trung ương đã tổ chức Lễ kỷ niệm 20 năm thành lập và đón nhận
Huân chương Độc lập hạng nhất. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phát
biểu tại Lễ kỷ niệm. Về mặt “được”, ông nói: “Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đánh giá cao những kết quả hoạt động của Hội đồng,
những đóng góp của các thành viên Hội đồng qua các nhiệm kỳ… Trân trọng ghi
nhận những đóng góp, cống hiến đó, hôm nay Đảng, Nhà nước trao tặng Hội đồng
Lý luận Trung ương Huân chương Độc lập hạng nhất”; còn mặt “chưa được” ông
cũng thẳng thắn chỉ ra: “Trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý
luận, phê phán và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chưa thể hiện rõ
sự sắc sảo về khoa học, tính chiến đấu và sức thuyết phục chưa cao”; “Cần chú
trọng đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận; đấu tranh không khoan nhượng
bằng những luận cứ khoa học sắc bén, giàu sức thuyết phục”.
Đọc
những dòng trên tôi không khỏi bật cười vì tôi đã thực hiện những điều TBT
Nguyễn Phú trọng nói hôm nay từ 20 năm về trước. Nhưng duyên cớ nào đã khiến
tôi quan tâm và viết về một lĩnh vực quá khó ngay cả đối với những người
chuyên nghiên cứu trong khi tôi thực tế vào đời lại làm công tác nghiên cứu
hóa dược tại Viện Công nghiệp Dược thuộc Bộ Y tế (giờ không còn), một lĩnh
vực hoàn toàn không dính dáng đến lý luận. Giờ ngẫm lại thấy tất cả là do sự
xếp đặt của cơ Trời mà thôi, nghĩa là cuộc đời đúng là có số mệnh?
***
Nhân
có ý kiến “chỉ đạo” của TBT, tôi sẽ trích đăng lại một số bài tôi viết về lý
luận để bạn đọc coi giải trí. Có điều muốn giải trí được thì phải hiểu, nhưng
hiểu được những lý luận liên quan đến khoa học, triết học lại không dễ.
Ban đầu tôi đến với lý luận qua
cửa ngõ văn chương, thấy mấy ông nhà thơ bàn về những điều liên quan đến khoa
học, triết học sai quá tức khí mà viết. Khoảng 1997, Đỗ Minh Tuấn, nhà thơ,
đạo diễn, hình như từng làm nghiên cứu ở viện Triết, đã xuất bản cuốn “Ngày
văn học lên ngôi”. Cuốn sách có nhiều khái niệm lạ, đưa ra nhiều ý lạ, làm
hoa mắt nhiều người, nhất là các nhà văn trưởng thành trong kháng chiến, ức ĐMT
chê văn chương kháng chiến như “một thứ dây dẫn” mà không sao cãi lại được.
Tôi tò mò đọc và đã viết một bài gởi cho TC Văn nghệ Quân Đội. Nhà Phê bình
Đại tá Hồng Diệu, Trưởng Ban phê bình, đã liên lạc có ý khen và cảm ơn tôi. Sau
khi bài được đăng, từ một người hoàn toàn xa lạ, tôi đến và được tạp chí tiếp
đón nồng nhiệt. Nhà văn Nam Hà ôm chầm lấy tôi “Đông La đây à?!”; Nhà thơ Anh
Ngọc bảo: “Đang ăn cơm đọc bài của ông hay quá rơi cả đũa”; còn anh Hồng Diệu
từ đó trở thành một người anh thân thiết.
Hôm nay xin giới thiệu bài đầu
này:
|
ĐÔI ĐIỀU BÀN LUẬN
VỚI
ĐỖ MINH TUẤN
VỀ
MỘT SỐ BÀI VIẾT
(Trích từ cuốn
BIÊN ĐỘ CỦA TRÍ TƯỢNG TƯỢNG,
NXB VĂN HỌC, 2001)
Đỗ
Minh Tuấn, trong bài đối thoại với Đức Uy (VN số 32, 1995), viết: “Sự sụp đổ của quyết định luận, sự ra đời
của thuyết bất định Heizenberg; sự giác ngộ ra các chiều kích mới của thế giới
và của bản thân đã đẩy con người vào mê hồn trận của một thế giới chập chờn bất
định, trong đó người ta buồn nôn vì mất định hướng … Trong cuộc khủng hoảng
tinh thần này, nhân loại tìm thấy lời giải đáp cho cái bối rối hiện sinh trong
sự phiêu lưu của người anh hùng …”.
Nói như vậy, Đỗ Minh Tuấn đã nói theo tinh
thần của chủ nghĩa duy tâm vật lý. Khi các nhà bác học đã phát
hiện ra ánh sáng cũng như các hạt vi mô đều có bản chất nhị nguyên sóng và
hạt, Heisenberg đã phát biểu “Nguyên lý bất định”: người
ta không thể xác định chính xác đồng thời vị trí hoặc động lượng của các hạt cơ bản. Thực tế, nó là một phát minh
kỳ diệu, giúp con người hiểu rõ hơn bản chất của tự nhiên, của cấu tạo vật
chất, giải thích được bao nhiêu hiện tượng khoa học, mang lại bao ứng dụng. Có
thể đúng khi nói nó đã chỉ ra được sự hạn chế của cơ học cổ điển và thế giới
quan theo quyết định luận máy móc, nhưng với chủ nghĩa duy vật và
quyết định luận khoa học, nó mở rộng tầm nhìn toàn diện hơn về thế giới,
làm sao “sự ra đời của thuyết bất định” lại “đẩy con người vào mê hồn
trận của một thế giới chập chờn bất định”?
Trong bài Đọc CUỐN “NGÀY VĂN HỌC LÊN
NGÔI”, tôi lại bàn tiếp VỀ NGUYÊN LÝ BẤT ĐỊNH với Đỗ Minh Tuấn:
“Có thể nói Nguyên lý bất định chính là vật
chứng của tri thức tác giả Ngày văn học lên ngôi. Qua sự hiểu
biết về nguyên lý bất định, những người am tường sẽ xác định được trình
độ của anh như thế nào? Anh tư duy ra sao? Khoa học tìm ra nguyên lý bất
định, thì anh bảo con người bị đẩy vào cõi chập
chờn bất định. Thế Einstein tìm ra thuyết Tương đối, thấy
không gian cong, thời gian và khối lượng co giãn, rồi những phát minh
ra phản vật chất,… thì anh bảo con người bị đẩy vào đâu?
Khi Newton
đưa ra thuyết hấp dẫn, chính Laplace
đã tư duy theo kiểu như vậy. Ông đã cho rằng vũ trụ là tất
định. Từ những quy luật khoa học,
từ một tọa độ xác định, người ta có thể xác định được mọi chuyển động xảy ra trong vũ trụ. Suy luận như vậy là
logic trong phạm vi cơ học Newton .
Nhưng từ điều này, ông đã đi xa hơn nữa khi áp dụng cho cả các quá trình xã hội và hành vi con
người thì lại sai lầm. Quyết định luận máy móc của ông đồng nhất
tính nhân quả với tất yếu, phủ nhận tính ngẫu nhiên, dẫn đến thuyết định mệnh
gắn liền niềm tin vào thần linh. Các nhà triết học duy tâm hiện đại theo
tinh thần thực chứng cũng đã đi theo vết bánh xe đổ, cũng tư duy một
cách máy móc theo những quy luật cơ học như Laplace
vậy. Khi Heisenberg tìm ra Nguyên lý bất định, họ phủ nhận chế
ước nhân quả và tính khách quan của thế giới vi mô. Thực tế không phải vậy.
Dù chuyển động có tính bất định, nhưng các hạt vi mô (như electron) vẫn
chuyển động theo các quỹ đạo mà các phương trình sóng của cơ học lượng
tử vẫn xác định được xác xuất hiện
diện của chúng như những đám mây điện
tử, tạo nên những liên kết nguyên tử, phân tử, gây ra những khả năng phản
ứng xác định, phù hợp với thực nghiệm. Hơn nữa, cơ học lượng tử cũng là
cơ sở cho hầu hết những khoa học, nền tảng của sinh học, hóa học hiện đại, công
nghệ thông tin … Nếu nó bất định theo nghĩa loạn xà ngầu thì còn làm cơ
sở cho cái gì? Nói tóm lại, dù có tính bất định, nhưng các hạt vi mô chỉ bất
định trong không gian của thế giới vi mô, ngoài giới hạn ấy, chúng lại xây nên
thế giới mà chúng ta đang sống đây theo những quy luật khoa học hoàn toàn xác
định. Đây chính là bài toán vĩ đại mà trí tuệ loài người còn chưa giải được
để có thể đưa ra những quy luật thống nhất, diễn tả được mọi quá trình vật lý.
Nếu chủ nghĩa duy vật biện chứng coi những phát minh khoa học chỉ là
chính chúng, là những thành tựu của tiến bộ, và đặt nó trong tổng thể tri thức
của nền văn minh nói chung, thì những người theo chủ nghĩa duy tâm vật
lý đã luận giải một cách duy
tâm những phát minh ở đầu thế kỷ XX
(thuyết Tương đối, Cơ học lượng tử…), đã coi “vật chất
biến mất”, “không
có chủ thể
thì cũng không
có khách thể”; đã đồng nhất quy luật khoa học với quy luật cuộc
sống. Đây chính là những “tư tưởng triết học hiện đại” mà tác giả “Ngày
văn học lên ngôi” đã “dày công” thu lượm được, nên mới đưa ra những kết
luận chắc như đinh đóng cột rằng: “lịch sử tư duy đi từ quyết định luận đến
bất định luận”. Có điều, anh không ngờ rằng, viết vậy mình đã tự mâu thuẫn,
bởi nhiều chỗ anh lại lấy chính tư tưởng của Marx và Engels làm
cơ sở để biện bác. Anh viết: “Chủ nghĩa Marx chủ trương một thái độ duy vật
lịch sử, một phươg pháp khoa học...”(Tr.32). Tại sao lại như vậy? Lẽ ra
anh phải viết như thế này chứ : “Lịch sử tư duy đi từ quyết định luận
máy móc đến quyết định luận biện chứng ”;
rồi : “Sự sụp đổ của quyết định luận máy móc, sự ra đời của nguyên lý
bất định đã giúp cho con người hiểu đúng hơn bản chất của tự nhiên, đưa con
người tới một cuộc sống ổn định hơn, khi
nó giúp người ta đưa ra được những phương thức sản xuất mới hơn...”.
Như
vậy, tác giả Ngày văn học lên ngôi
đã tiếp cận được những tri thức của khoa học và triết học hiện đại, tiếc là anh
lại không đủ trình độ để hiểu, để phân
tích đánh giá, nên đã không nắm được bản chất của vấn đề, chỉ chạy theo cái
danh xưng triết học hiện đại, và đã lầm lẫn coi
chúng là chân lý, một bước tiến mới của nhận thức.
Tác giả Ngày văn học lên ngôi
cũng tùy tiện khi nói, với phương Đông, việc
phát hiện ra nguyên lý bất định như một phát hiện hồn nhiên của
chú bé trong “Hoàng đế cởi truồng” của Anđecxen. Chỉ có người không hiểu
khoa học mới nói một cách “hồn nhiên”
như vậy thôi. Tất nhiên, mọi quy luật khoa học đều hiển nhiên, nhưng để tìm ra
cái hiển nhiên ấy thì không phải chuyện đùa! Phải có trí tuệ siêu đẳng của các
nhà bác học, dựa trên một nền tảng tri thức và những kiểm chứng.
Bắt đầu từ khi Max Planck phát
minh ra quy luật: Năng lượng của một vật chỉ phát xạ gián đoạn, từng phần
một, tức lượng tử. Tiếp theo các nhà bác học phát hiện ra bản chất
nhị nguyên sóng-hạt của ánh sáng và các hạt vi mô. Từ đó, Heisenberg mới
phát biểu nguyên lý bất định, cơ sở của một cơ học mới: Cơ học lượng
tử. Có điều, Heisenberg không phải phát minh nguyên lý bất định
một cách hồn nhiên. Mà ông phải
thực hiện một thí nghiệm giả định. Để phát hiện vị trí của một hạt vi mô
người ta buộc phải “quan sát” nó bằng một cái khe hở. Nếu khe càng hẹp, sẽ xác
định được vị trí càng chính xác, nhưng như vậy, lại làm cản trở càng mạnh sự
chuyển động của hạt và gây ra sai số càng lớn về vận tốc; và ngược lại. Nguyên
lý bất định được phát biểu : sự xác định tọa độ và vận tốc của hạt không thể
đồng thời chính xác. Nguyên lý này, ngoài ý nghĩa khoa học, còn dẫn tới một
quan điểm triết học, một cái nhìn ngược với cái nhìn tất định của quyết định
luận Laplace . Chính từ đây, hai
khuynh hướng triết học duy tâm và duy vật đã dựa vào để phát
triển tư tưởng theo hai khuynh hướng cũng trái ngược nhau. Chủ nghĩa duy vật
biện chứng khắc phục được sự hạn chế của cái nhìn máy móc theo quyết định
luận Laplace , còn triết học duy tâm đưa ra
vô định luận .
Trong thực tế, nhìn một cách toàn cục
có so sánh, xã hội loài người chưa bao giờ ổn định như hôm nay. Sự đối kháng Đông-Tây lớn nhất đã được hòa giải.
Nước ta cũng ở trong dòng phát triển ổn định. Mà cái nền tảng của mọi nền tảng
xây nên sự ổn định ấy chính là những thành tựu khoa học. Nó giúp loài người không
chỉ hiểu được bản chất của tồn tại, còn thúc đẩy công nghệ, kinh tế phát triển.
Không chỉ Đỗ Minh Tuấn, trước Đỗ Minh Tuấn rất lâu, GS Cao Xuân
Huy, một người không có chuyên môn khoa học cũng đã hiểu sai về khoa học khi muốn
lấy khoa học làm cơ sở để đưa ra những tư tưởng triết học của mình. Đến lượt
Nguyễn Huệ Chi là học trò cụ Cao Xuân Huy, cũng vì không hiểu khoa học, đã xuất
bản và quảng bá công trình của thầy mình, không ngờ rằng chính mình đã vạch áo
thầy cho thiên hạ xem lưng. Chính ông Nguyễn Huệ Chi cũng có những bài viết về
mối liên quan giữa vật lý và triết học rất buồn cười mà tôi đã chỉ ra.
Thật thú vị khi nhà bác học tật nguyền thiên tài S.Hawking lại có ý y như là nhận định về chuyện nghiên
cứu lý luận trên ở Việt nam vậy : “Đến thời điểm này, đa số các nhà
khoa học quá bận rộn vào việc phát triển những lý thuyết để trả lời câu hỏi
như thế nào và chưa bận tâm đến việc trả lời câu hỏi vì sao? Mặt
khác, những triết gia là những người mà công việc là đặt ra câu hỏi vì sao,
lại không đủ điều kiện để thông tuệ được các lý thuyết hiện đại. Ở thế kỷ 18, các nhà triết học xem toàn bộ kiến
thức của loài người trong đó có khoa học tự nhiên là thuộc lĩnh vực của họ...?
Song đến thế kỷ 19, 20, khoa học trở nên quá toán học đối với những nhà triết
học... Các triết gia giới hạn các câu hỏi lại đến mức mà Wittgenstein, nhà
triết học danh tiếng nhất của thế kỷ này đã thốt lên: “Nhiệm vụ duy nhất
còn lại của triết học là phân tích ngôn ngữ”.
Phú Nhuận
Sáng 11-7-1997
(Tạp chí Văn Nghệ Quân đội 9-1997)