ĐÔNG LA
VỀ MỘT CUỘC ĐẤU ĐÁ “LỊCH SỬ”
Ở BỘ Y TẾ,
TRUYỆN NGẮN “CHUYỆN VỀ HAI NGƯỜI”
Đang ở nước Mỹ xa xôi nhớ tất cả những gì thuộc về VN nên sự việc đang ồn ào trong ngành dược thuộc Bộ Y tế lại càng khiến tôi nhớ về giai đoạn vào đời, một giai đoạn đầy ấn tượng, đầy những cột mốc quan trọng và cũng đầy sóng gió của cuộc đời tôi.
Sau khi tốt nghiệp, tôi và một số bạn cùng lớp được Viện Công nghiệp Dược thuộc Bộ Y tế xin về. Ai ở trong ngành dược, có chuyên môn hoá học, sinh học, mới hiểu hết ý nghĩa cái tên viện của tôi đó. Cần phải hiểu đến tận giờ những loại thuốc quan trọng ta sản xuất được ở VN chỉ là gia công, chỉ là mua hoạt chất về bào chế, sản xuất, dán nhãn bán. Hồi ấy Bộ Y tế đã có tham vọng tự làm ra phần nào hoạt chất nên đã thành lập ra viện của chúng tôi. Tên viện có chữ công nghiệp nghĩa là muốn tiến hành những công trình nghiên cứu đến tận giai đoạn tạo ra được những quy trình sản xuất các hoạt chất ở quy mô công nghiệp, chấm dứt tình trạng nghiên cứu xong, cất kết quả vào ngăn kéo!
Tác giả của chiến lược đó chính là bác Đoàn Hữu Sử, từng là giám đốc xí nghiệp dược đầu tiên của VN, và rồi cũng chính là viện trưởng viện của chúng tôi. Một phụ nữ dưới quyền cũng là người cộng tác thân thiết với ông là TS Hoá dược Vũ Thị Dau đã sang trường Tổng hợp chọn xin chúng tôi về viện. Chúng tôi đã được làm công việc của những nhà nghiên cứu khoa học thật sự. Giai đoạn đó cũng là lúc tôi gặp nhà thơ Anh Thơ, từ cơ duyên đó đã dẫn đến chuyện tôi lấy vợ sinh con và người chủ hôn đám
cưới của tôi không ai khác chính là bác Viện trưởng:
Rắc rối ở chỗ nữ thi sĩ già không
chỉ khen tôi có tài làm thơ cho vui mà bà còn chắc chắn tin là tôi sẽ “hậu sinh
khả uý”, bà nói “chỉ có người này mới làm thầy mày được thôi” nên đã viết thư giới
thiệu tôi đến gặp người ấy, bạn của bà, người mà tôi khi nghe tên đã quá ngạc
nhiên, đó chính là nhà thơ lừng danh Chế Lan Viên. Hôi ấy tôi chỉ nghĩ quen qua
quen lại vậy thôi, phải đến tận bây giờ, sau khi trải qua bao thăng trầm liên
quan đến những cơ duyên xuất hiện trong cuộc đời, tôi mới hiểu chính Chế Lan
Viên đã lát những nền tảng đầu tiên của con đường mà tôi phải đi để gánh sứ mệnh
văn chương chữ nghĩa. Bởi chính ông đã đề nghị trao giải trong một cuộc thi thơ
cho tôi và đã chủ động đứng tên giới thiệu tôi vào Hội Nhà Văn TPHCM. Tiếc
là ông chết sớm quá, tính tôi lại bất cần đời, hứng thì viết chơi chứ không
kiên trì luồn lách như người ta, nên phải đến 30 năm sau, do người ta “giục”,
tôi mới làm đơn xin và sau 1 năm được kết nạp vào Hội Nhà Văn VN. Tính tôi cũng
làm biếng, ham chơi, nhiều khi muốn vất mẹ cái sứ mệnh chữ nghĩa nặng nhọc và
đau đầu đi nhưng rồi lại có những sự thúc giục cả vô hình lẫn hữu hình nên lại phải
cặm cụi viết, có khi thức trắng đêm để viết, không chỉ chuyện đại sự quốc gia
mà để bảo vệ những người oan sai.
Nhưng
với tôi có khi văn chương với khoa học lại là một vì trong số truyện ngắn tôi
đã viết phần lớn là tôi viết về những chuyện nảy sinh trong việc nghiên cứu khoa
học. Tiếc là lĩnh vực văn chương phần nhiều còn mang nặng tư duy tiểu nông khó
cảm được loại truyện khoa học như của tôi, những chuyện nhà quê, pha chút tếu
táo dễ hợp khẩu vị hơn.
Truyện
ngắn đầu tiên của tôi chính là viết về cuộc đấu đá ở ngành dược Bộ Y tế thời
đó, nhân vật chính kiêm nạn nhân chính là bác Viện trưởng Đoàn Hữu Sử, nạn nhân
kế tiếp là toàn bộ phòng nghiên cứu của chúng tôi, nạn nhân cuối cùng chính là cả
cái viện của chúng tôi. Nó đã bị xoá sổ, và bao dự định lớn lao, thiết thực cho
sự nghiệp phát triển thực chất, vững chắc của ngành dược cũng bị xoá theo.
Vì vậy đọc tin “em Bộ trưởng” hiện tại là nạn nhân của một
cuộc đấu đá, tôi chưa biết bằng chứng nên không thể viết tên thủ phạm, nhưng
như những gì đã trải, tôi thấy đó là một chuyện hoàn toàn có thể có. Đó chính
là một tệ nạn trong nhiều tệ nạn, tiếc là còn nhiều, không dễ một sớm một chiều
mà xoá được trong xã hội VN hiện tại. Chuyện này cần các nhà lãnh đạo VN không
chỉ có tài, có bản lĩnh, mà quan trọng hơn là phải có lương tri và lương tâm,
vì nhân dân, vì đất nước, mới có thể từ từ giải quyết được. Nó tuân theo quy luật
“lượng đổi chất đổi”, tức xã hội VN cần tích luỹ “lượng” văn minh, tiến bộ dần
lên, đến khi nào đủ thì “chất” xã hội sẽ đổi. Không phải như bọn dân chủ giả cầy
ngu dốt mà ảo tưởng, cứ theo đuôi cái
này, cái kia là được.
Vì vậy
hôm nay tôi xin đăng lại tác phẩm văn xuôi đầu tiên mà tôi đã viết hơn 30 năm về
trước, nhưng vẫn chất chứa những vấn đề xã hội nóng bỏng của những ngày hôm nay.
Los
Angeles
7-9-2017
ĐÔNG LA
Chuyện về hai người
(Truyện ngắn)
Năm 1981, khi chúng tôi vừa bảo vệ xong luận
văn tốt nghiệp, có một bà phó tiến sĩ sang trường tuyển người để thành lập một
phòng nghiên cứu của một viện dược.
Bà khoảng 45 tuổi, người tầm thước, mặt rất
“tây”, nói chung là còn đẹp tuy đã đậm người. Bà chọn được bảy đứa, năm trai,
hai gái, tất nhiên là có tôi; vì nếu không, sẽ không có chuyện này. Chọn được
chúng tôi, bà mừng lắm. Mãi về sau, khi đã tan đàn xẻ nghé, bà vẫn còn tự hào
về đội tuyển của bà: “Chưa bao giờ tôi thấy lại có một ê-kíp tuyệt vời như
thế!”
Về viện, ban đầu chúng tôi như sống trong mơ.
Tuy cùng lớp, cùng lứa có coi nhau không ra gì, có ganh tỵ, kèn cựa nhau, nhưng
rất vui. Tuần liên hoan phòng một lần. Chúng tôi còn tuồn một ít trí tuệ về làm
thêm, nước thuốc nhuộm vàng cả khoảng sân rộng của khu tập thể. Điệu này chả
mấy mà vừa có tiền, vừa có chuyên môn nghề nghiệp phát triển, rồi có khi lại
nên công danh sự nghiệp nữa cũng nên. Chúng tôi đều nghĩ như thế. Người ta cũng
nghĩ về chúng tôi như thế.
Nhưng không ngờ… Lần đầu tiên tôi hiểu được
thế nào là “Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”. Không chỉ hiểu như hiểu một thành
ngữ của một ngôn ngữ mà hiểu với tư cách bị “dính đòn”.
***
Đó chính là câu chuyện về hai người. Chuyện
ông viện trưởng và ông viện phó “đánh nhau”. Nhưng nói cho đúng hơn thì là việc
ông viện phó “đánh” ông viện trưởng, ông viện trưởng không thèm chấp, thế là bị
thua. Chúng tôi là lính phe ông viện trưởng nên bị vạ lây. Riêng mình tôi là
trường hợp đặc biệt, có một không hai, thì bị nặng hơn.
Ông viện trưởng là ông Huấn, ngày ấy 58 tuổi,
người cao gầy như cây sậy. Mặt xương, mắt sâu, mũi cao, miệng nhỏ, cằm dài,
lưng hơi khòng, tay dài… Nói chung là dáng của một “con mọt sách”, một người
làm việc bằng trí tuệ cao sâu. Ông là một trong những đầu đàn của ngành. Ông
từng làm giám đốc xí nghiệp dược đầu tiên của nước ta, xí nghiệp số 1. Ông viện
phó, ông Đức, người sau này hạ ông nốc-ao, cũng ở đó. Nhưng chỉ có một địa vị
khá khiêm tốn, là một nhân viên phòng tài vụ. Một thời, thế của ông viện trưởng
khá mạnh. Ông có tài, có uy tín, và đặc biệt, có ông chú là bộ trưởng. Tôi cũng
không biết chú cháu thế nào, vì ông họ Vũ, ông bộ trưởng họ Nguyễn. Ông luôn
được giao những công việc mũi nhọn của ngành. Ngay hồi chiến tranh, nước ta
chưa có quan hệ rộng với các nước phương tây, nhưng ông đã từng “Bước chân tôi
đã giẫm nát đất Pháp” – Một lần ông đã nói thế. Còn ông viện phó thì học qua
loa, kiếm được cái bằng kinh tế, rồi đi B. Nhưng không phải đánh đấm như người
ta, mà ở tuyến sau, cũng trong ngành dược. Hồi trong rừng, ông có quen thân với
một nhân vật quan trọng, bởi sau này ông ta sẽ làm thứ trưởng, là một chỗ dựa
quan trọng cho ông. Như vậy, thế lực của hai bên tương đối cân bằng. Một ông
nhiều tài, có chú là bộ trưởng; một ông ít tài nhưng lại có công đi B, có đàn
anh là thứ trưởng. Về sức khoẻ thì hai ông có vẻ ngang nhau, ông viện trưởng bị
đau dạ dầy kinh niên, ông phó thì bị nhồi máu cơ tim. Nhưng chú cháu ông
viện trưởng có một bất lợi là tuổi tác nhiều hơn bên kia.
Trước đây, viện chúng tôi là một xí nghiệp
dược lớn, gồm một số hãng bào chế trước giải phóng gộp lại. Ông Đức làm giám
đốc. Ông thực sự là vua một xứ. Làm sao ông không là vua được khi một lúc tiếp
quản rồi cai quản một lô những cơ sở vật chất đầy giá trị, gồm những phòng thí
nghiệm hiện đại, tiện nghi, những công xưởng máy móc tiên tiến và biết bao
nguyên liệu dược đắt tiền. Ông giám đốc chọn một biệt thự sang trọng 2 tầng
lầu, nhà của ông chủ cũ, khuôn viên có hòn non bộ, có bể bơi, và trồng một loại
cỏ không biết cỏ gì mà cứ mịn như nhung. Rồi ông phân phát bổng lộc cho thần
dân: Nhà cửa, chức vụ, lương bổng… Đã có một triều đình nhỏ được thiết lập ở
nơi đây. Tôi từng tưởng chỉ có nơi này mới như thế. Nhưng sau này, khi chuyển
đến một vài cơ quan khác, tôi cũng lại gặp như vậy. Ở đó, cũng có những ông vua
con, có quyền ban phát và sinh sát. Khi có quyền, họ đã coi cơ quan nhà nước là
của nhà mình. Liệu có phải, còn có một điều gì đó chưa hoàn thiện đã tạo đất
sống cho những con người này, những người đã chung sức làm cản bước tiến của xã
hội, gieo tai ương cho những lương dân.
Nhưng rồi cơ quan của nhà nước thì phải là của
nhà nước. Bộ đã quyết định thành lập một viện nghiên cứu trên cơ sở xí nghiệp
của ông vua Đức, dù ông có muốn hay không. Một viện có nhiệm vụ chuyển những
công trình nghiên cứu thành những quy trình công nghệ, có thể sản xuất được
những nguyên liệu dược mà nước ta gần như vẫn phải nhập hoàn toàn. Đây là một
tham vọng vô cùng lớn và đúng đắn của lãnh đạo Bộ Y tế. Bởi một đất nước phát
triển không thể là một đất nước cứ mãi giống như một xí nghiệp khổng lồ chuyên
gia công nguyên liệu cho nước ngoài. Ông Đức thì không có một sợi tri thức dược
nào, nên không tài nào làm lãnh đạo một viện quan trọng và to như thế được. Ông
chuyển xuống làm phó, phụ trách phần sản xuất vẫn được giữ lại của viện. Ông
Huấn được chọn làm viện trưởng. Thế là quân và tướng ngày xưa gặp lại nhau.
Nhưng ông lính ngày xưa giờ đã thành phó tướng. Dù đã tiến bộ vượt bậc so với
thuở ấy nhưng ông hoàn toàn không thỏa mãn vì đang là vua. Ngày
ngày, người lái xe phải đưa rước hai ông đi làm bằng chiếc xe con nên người ta
nói hai ông này đội chung xe nhưng không đội chung trời. Và vì thế
mà chiến tranh đã xảy ra.
Là người từng trải, ông viện trưởng rất biết
ông viện phó hoàn toàn không chấp nhận sự thay đổi này, nhưng ông không quan
tâm lắm. Ông có quá nhiều việc phải làm, những công việc đòi hỏi toàn bộ tâm
sức người ta, trí tuệ người ta… Nhưng ông đâu biết, một con rận cũng có thể làm
khó chịu cho một con sư tử; một con kiến khi chui được vào tai một con voi cũng
có thể làm nên chuyện; mà ông viện phó thì lại hoàn toàn không phải là một con
rận, một con kiến. Ông ít tài giành cho ông việc nghiên cứu nhưng lại nhiều
mưu.
Ban đầu, chúng tôi được ông viện trưởng giao
cho một số công việc. Một nhóm tổng hợp Methyl salycilat (một
thành phần trong dầu nóng); một nhóm làm Niketamid (thuốc tim mạch); một nhóm
chiết xuấtBerberin (một hoạt chất làm thuốc đường tiêu hóa) từ dược
liệu là câyvàng đắng. Tôi ở nhóm chiết xuất này. Tất cả công việc được
bà trưởng phòng còn xinh đẹp chỉ huy trực tiếp. Chúng tôi gọi
bà là cô hàm nghĩateacher. Bà từng học đại học ở Liên
Xô, làm phó tiến sĩ ở Đức. Bà luôn nói, bà có học nhiều hơn, có kinh nghiệm
nhiều hơn, nhưng không thông minh bằng chúng tôi. Tôi biết bà chân thành. Bởi
muốn chân thành, người ta cần có một sự thông minh mà bà cũng là một người
thông minh. Và có mất gì đâu khi nói lên một sự thật để được việc.
Công việc chiết xuất Berberin trong tài liệu
thường dùng cồn. Bà trưởng phòng muốn cải tiến dùng nước acid loãng. Tất nhiên
dùng nước acid loãng sẽ tiện, sẽ rẻ hơn cồn rất nhiều, nhưng nó lại làm cho
nhựa cây ra theo, làm hoạt chất không kết tinh được. Nếu được, sản phẩm cũng
chỉ là một thứ bột chỉ để một thời gian ngắn là bị oxy hóa, đen xỉn. Cả viện
trưởng, cả trưởng phòng đều khuyến khích chúng tôi đưa ra cách giải quyết.
Chúng tôi được dịp thi thố tài năng, lấy lòng cấp trên. Mà trong lĩnh vực này
thì không thể mánh được. Tôi nhớ đến việc nấu đường ở quê tôi,
người ta thường dùng vôi để loại chất bẩn. Mà chất bẩn đó phần nhiều là nhựa
cây, ở một pH nhất định chúng sẽ bị keo tụ. Suy nghĩ của tôi đã được kiểm chứng
và được áp dụng. Và thế là tôi được cấp trên tín nhiệm, được tin yêu, và cũng
chính vì thế mà có người ghét. Cuộc đời luôn có hai mặt. Cũng như tài năng của
một con người có khi lại là nguyên nhân của những nguy cơ.
Ông viện trưởng, sau khi bị cắt dạ dày tí
chết, kỳ này lại khá khỏe mạnh. Ông thường đi Đồng Nai, bàn bạc việc triển khai
xây dựng một nhà máy sản xuất tinh bột dược dụng từ củ sắn (khoai mì). Đây là
một công trình đơn giản về khoa học, chỉ có một số vấn đề về công nghệ cần phải
giải quyết cho phù hợp với khả năng của một viện mới thành lập. Ông muốn tác
phẩm đầu tiên của viện phải thành công.
Lúc này tôi thấy ở viện bắt đầu có những tiếng
xầm xì. Chị phục vụ ở phòng thí nghiệm nói:
- Chú biết hông? Công nhân ở đây
người ta thù ông viện trưởng lắm đó. Ổng về đây thành lập viện nghiên cứu
nghiên kiếc gì để rồi công nhân sẽ mất việc làm. Sao không để họ ở đây yên ổn
với ông Đức có phải hayhông?
- Họ nói buồn cười. Chuyện này là do bộ quyết
định chứ do gì ông viện trưởng? Với lại viện này vẫn sản xuất bình thường chứ
có chuyện gì đâu.
- Người ta còn nói trong bữa liên hoan bữa
trước, ổng lấy mấy ký thịt, bắt chú gì giữ mộc đó mang về nhà. Ổng cũng lấy đồ
của cơ quan về xài nhiều lắm. Nói đến đây, chị ghé sát tai tôi thầm thì, vẻ
quan trọng: - Người ta còn nói ổng cặp bồ với cô trưởng phòng mình nữa đó.
Thật bậy bạ, toàn những điều bịa đặt! Mấy ký
thịt không là gì nhưng có thể làm vấy bẩn danh dự của một con người, hạ nhục
một con người. Ai nghĩ ra được trò này thật nham hiểm. Vì mải làm việc, chúng
tôi đã không nhận ra sự đối xử bất công thuộc lĩnh vực ông viện phó phụ trách.
Phòng làm việc của chúng tôi thua xa những phòng hành chính, nghiệp vụ. Phòng ở
tại khu tập thể thì thua xa công nhân. Nghe nói, ông Đức còn bí mật sang trường
trả chúng tôi lại nữa. Tôi ngạc nhiên lắm. Một lần, khi gặp khó khăn trong việc
lĩnh dụng cụ hay hóa chất thí nghiệm gì đó, tôi đã cáu mà nói với bà trưởng
phòng cung tiêu: “Chúng tôi phải làm những công việc mà các bà có tạo
điều kiện thuận lợi cho cũng chưa chắc làm tốt được, huống hồ lại cản trở”.
Ông viện trưởng thì vẫn bình chân như vại.
Cái hôm đáng nhớ ấy, vừa ở Đồng Nai về, ông đã
triệu tập một cuộc họp với phòng chúng tôi, bàn về đề tài Berberin.
Ông nói:
- Người ta cứ bảo rừng của ta là vàng, nhưng
ta chưa khai thác đúng đắn cái vàng ấy. Thiên nhiên đã ưu đãi chúng ta mà chúng
ta lại không có ý thức bảo tồn thì thật lãng phí, thật tai hại. Trong Nam này
thuận lợi là có cây vàng đắng mọc tập trung, Sông Bé có, Tây
Ninh cũng có. Tôi muốn chúng ta phải làm việc từ cơ sở khoa học, không thể làm
việc theo kiểu mò mẫm được. Chúng ta phải đưa ra được một quy trình chiết xuất
tối ưu nhất. Có như thế mới không lãng phí.
Tôi đại diện cho nhóm nghiên cứu phát biểu:
- Berberin là một dẫn xuất
của Quinolin, có nhóm Dioxymethylenenên là một hợp chất
phân cực. Chúng ta dùng nước acid loãng để chiết là rất phù hợp. Nhưng ta phải
tách được nhựa ra khỏi dịch chiết. Trong việc này chỉ có dùng vôi là hay nhất,
nó vừa tạo ra được môi trường kiềm, vừa là chất hấp phụ tạp chất rất tốt.
Sau đó mọi người sôi nổi trình bày những vấn
đề liên quan đến công việc. Viện trưởng mừng lắm:
-Tôi hơi bất ngờ, khi chỉ một thời gian ngắn
mà anh chị em đã làm được một khối lượng lớn công việc. Một điều quan trọng và
rất quý nữa là, các anh chị đã hiểu rất sâu công việc, rất biết việc. Trong
công việc nghiên cứu, cái việc tìm ra hướng đi mới quan trọng. Bởi chúng ta là
những người hướng đạo, nhiệm vụ của chúng ta là chỉ dẫn cho người khác thực
hiện chứ không phải là người thực hiện. Có điều chúng ta phải tính đến sự khác
nhau khi tiến hành quy trình ở quy mô phòng thí nghiệm với khi thực hiện sản
xuất ở quy mô lớn.
Có ai ngờ rằng, đây chính là câu nói cuối cùng
của ông về công việc với chúng tôi với tư cách Viện trưởng. Bởi khi họp xong
thì ông nhận được một điều vô cùng bất ngờ, đó là cái quyết định về hưu. Nghe
đâu đã có một bản tố cáo ông gồm 10 điểm gửi lên bộ. Tôi không quan tâm lắm
chuyện 10 điểm ấy là gì, bởi ai cũng biết đó là một sự bịa đặt. Tôi biết thực
chất có một nguyên nhân khác khiến ông phải về hưu. Đó là việc ông chú ông, ông
bộ trưởng, cũng đã về hưu. Có những sự việc, vỏ ngoài có vẻ rất phức tạp, nhưng
cái cốt lõi thì lại vô cùng đơn giản.
Chiều ấy, tôi xuống nhà ông. Ông cũng ở một
căn hộ trong khu tập thể như chúng tôi, tuy có rộng rãi, tiện nghi hơn. Hai ông
bà ở cùng với người con thứ hai, bộ đội mới phục viên, đang kiếm việc làm. Tôi
bước vào phòng thấy hai ông bà đang ăn cơm. Tôi thấy rất rõ những nét đau đớn
trên khuôn mặt ông. Cái kết quả ban chiều như một lưỡi dao tàn bạo đã khắc sâu
thêm những nếp nhăn vốn đã dầy, đã chi chít trên đấy. Tôi bỗng cảm thấy mình
thật vô duyên. Ông đang cần một sự yên tĩnh. Ông đã phải chịu một nỗi đau quá
lớn, nỗi đau khi bất ngờ bị dứt ra khỏi những gì ông yêu quý nhất, những gì mà
cả cuộc đời ông đã gắn bó, đã hy sinh. Ông như một người mẹ đột nhiên bị dứt
khỏi tay đứa con thơ đang cần sự chăm sóc của mình. Với ông, công việc là tất
cả, công việc không đơn thuần là công việc mà như một sứ mệnh, là cả một sự
nghiệp. Ông luôn làm việc cần cù như một nông dân và say mê như một nghệ sĩ.
Thấy tôi, ông buông đũa, nói tôi ra ngoài
ban-công uống nước. Ban-công khá rộng, có kê bộ sa-lon bằng mây, tán mấy cây
mận trồng dưới sân xòa vào. Ông pha nước, tay run run. Tôi thấy mí mắt ông dầy
lên. Cả hai chúng tôi đều thấy khó bắt đầu câu chuyện. Cuối cùng ông đã mở lời:
- Khi làm lớn các cậu nên cẩn thận, nhiều
thông số sẽ khác đi đấy. Cả khâu tinh chế cũng rất quan trọng, phải cố gắng làm
được sản phẩm đạt tiêu chuẩn dược dụng.
- Bọn cháu cũng chán bác ạ. Không còn hứng thú
để làm việc nữa.
- Cuộc đời là thế đấy. Nhưng các cậu còn trẻ,
phải ráng mà làm việc. Với tôi, chỉ có công việc mới có ý nghĩa, còn lại mọi
thứ đều phù phiếm cả. Có hai loại người, một loại sống vì công việc, bị công
việc nó cuốn vào. Cậu thấy đấy, làm được việc gì đó cho tử tế có phải dễ dàng
đâu. Còn một loại thì không có chuyên môn gì, sống không vì công việc gì. Vì
thế, họ không có một niềm say mê nào cả, nhưng lại lắm tham vọng. Không có khả
năng mà lại tham vọng, tất sẽ sinh thủ đoạn, sẽ hại người thôi. Tiếc là bọn này
lại thành đạt khá nhiều trong cuộc đời. Đó chính là những người có quyền có
chức nhưng lại làm việc bằng đầu óc người khác. Vì lợi ích cá nhân, họ sẵn sàng
làm mọi chuyện…
- Mọi người đều thấy vừa rồi ông Đức đã làm
nhiều chuyện mờ ám, không lẽ trên đồng tình với cái sai sao?
- Cuộc đời có nhiều cái tế nhị lắm, các cậu
còn trẻ chưa biết hết đâu. Thực ra vừa qua tôi cũng sai, chỉ biết chú tâm vào
công việc mà không đề phòng. Tôi chỉ muốn tạo ra những quy trình tối ưu, từ
người nghiên cứu, người phục vụ đến người sản xuất, rồi sẽ hiểu nhau. Không
ngờ, họ lại sợ chính những quy trình ấy đào thải họ. Mà chuyện này thực ra cũng
không phải chỉ là chuyện cái ghế đâu. Từ khi viện được thành lập, nhiều chuyện
làm ăn mờ ám phải đình lại…
***
Như tôi đã nói, cơ quan nhà nước thì phải là
của nhà nước. Ông viện phó không có chuyên môn nên không thể muốn làm gì thì
làm, không thể lên viện trưởng được. Bộ cử ông An xuống. Ông An thì “hiền” hơn,
lại thuộc diện “đàn em” ông viện trưởng cũ. Tuy chúng tôi không được ưu đãi,
nhưng công việc đòi hỏi phải có chúng tôi, nên không sao cả, dù cũng có khổ.
Ông An về được ít hôm thì tổ chức một cuộc họp
với các cán bộ nghiên cứu. Chúng tôi tập trung ở hội trường. Khi chiếc xe con
dừng lại trước phòng họp, cửa vừa mở thì mọi người vô cùng ngạc nhiên: Ngồi cạnh
ông An là ông viện trưởng cũ.
Chúng tôi mừng lắm, như một chuyến đi xa được
gặp lại người thân.
Cuộc họp bắt đầu, Ông An trình bày chiến lược
phát triển của ngành, nhiệm vụ của viện. Ông trân trọng mời ông viện trưởng cũ
tiếp tục làm cố vấn khoa học cho viện. Với ông viện trưởng cũ như thế là quá
đủ. Ông phát biểu cảm ơn và trình bày những ý kiến về hướng nghiên cứu của
viện. Chúng tôi đang lắng nghe thì thấy bên ngoài bỗng có tiếng ồn ào. Tôi nhìn
ra thấy cửa phòng ông viện phó xúm lại rất nhiều người. Mọi người trong phòng
ùa ra. Tôi len lên thì thấy mặt ông ấy xám ngắt, như chuẩn bị ngất. Ông ấy vốn
bị nhồi máu cơ tim mà. Chiếc xe con lập tức được nổ máy. Khi mấy chị phòng y tế
dìu ông ra xe, ông thều thào:
- Không… tôi không… Tôi không… hại…
Cánh cửa xe đóng lại. Chiếc xe lao vút về
hướng bệnh viện Thống Nhất.
***
Tối ấy tôi mừng lắm. Tôi lại xuống nhà ông
viện trưởng cũ. Hôm nay ông cũng vui. Chúng tôi lại ngồi nói chuyện với nhau ở
bộ sa-lon mây ngoài hiên. Ông nói:
- Cậu biết không? Người ta nghiên cứu cả cơ
chế cái vươn vai và cái ngáp đấy. Thực ra đó là những phản ứng mà cơ thể chống
lại sự mệt mỏi của cơ thể.
Hôm nay tôi không thích nghe những loại chuyện
như vậy của ông. Tôi hỏi:
- Sao ông Đức đang khỏe mạnh lại bị bệnh đột
ngột thế bác?
Ông không trả lời tôi mà nói:
- Cậu ạ, không phải quan trọng là người ta đã
được, đã mất cái gì. Những cái được mất mang tính chụp giật ấy. Chúng không
bền. Mà quan trọng hơn là người ta có cái gì. Có thể có những bất công, những
không may, nhưng khả năng của mỗi người thế nào rồi cũng sẽ được thể hiện, sẽ
được khẳng định, rồi cũng sẽ được công nhận thôi. Miễn là người ta phải có ý
chí. Chẳng thể che đậy cũng chẳng thể thổi phồng chuyện gì mãi được đâu. Thời
gian là quan tòa nghiêm khắc lắm…
Sau đó, cả phòng chúng tôi đi thực tập ở nước
ngoài hết, công việc đòi hỏi như vậy. Tôi cũng có trong danh sách nhưng không
được đi vì có viết một truyện ngắn “Chuyện về hai người”. Như tôi
đã nói, thế lực của ông viện phó vẫn rất mạnh vì có một ông thứ trưởng đỡ đầu.
Ai cũng nói với tôi, công nhận tôi tốt thật nhưng ngu, vì có ai lại đi bênh một
ông về hưu chống lại người đang nắm đầu mình bao giờ. Nhưng phải đến tận lúc
ông An nghỉ, một bà đàn em ông viện phó lên viện trưởng, chị ruột bà này cũng
lên thứ trưởng, tôi mới bị dính đòn, bị nốc-ao hoàn toàn.
Phòng tôi sau này rồi cũng tan tác hết. Bà trưởng phòng khi chạy sang
trường Tổng hợp cứ áy náy:
- Tôi có lỗi với các em. Thật tiếc! Các em
thực sự là những tài năng.
TPHCM 1983