ĐÔNG LA
VỀ VÀI ĐÁNH GIÁ ĐỐI NGHỊCH
VỀ NGUYÊN TBT ĐỖ MƯỜI
KHI ÔNG QUA ĐỜI
Nhân
sự kiện Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười vừa từ trần ngày 1/10, nhiều bài viết của những
người có chức trách gần cận và hiểu biết nhất về ông khiến tôi bất ngờ khi hiểu
rõ và cụ thể hơn về tài đức của một vị nguyên lãnh đạo cao nhất Việt Nam đã lèo
lái con thuyền Việt Nam vượt qua được giai đoạn phong ba bão táp nhất trong
công cuộc tìm đường làm ăn của đất nước sau cuộc chiến khốc liệt. Ngược lại,
cũng có những kẻ phản trắc, cơ hội, trở cờ luôn nhìn xã hội VN cũng như các vị
lãnh đạo đất nước qua cái tâm địa đen tối, thiển cận của chúng. Chúng luôn biến
trắng thành đen, biến người có công thành người có tội.
Nguyễn
Khắc Mai, 24/9, khi trả lời phỏng vấn của BBC, nói:
“Một trong hai sự kiện nổi trội liên quan đến ông Đỗ
Mười (cùng với việc dự Hội nghị Thành Đô) là chủ trương đánh tư sản hay còn gọi
là “cải tạo công thương nghiệp”.
“Theo như tôi hiểu, ông làm điều này rất hung hăng vì
học vấn ít, và cuồng tín cao.”
“Hệ lụy của việc cải tạo công thương nghiệp rất bi thảm,
khốc liệt, để lại tai họa rất lớn cho dân tộc.”
“Nhưng có vẻ là trong nhiều năm ông Đỗ Mười tự hào về
mình đã làm được việc kinh thiên động địa.”
“Đến lúc cuối đời, ông không có vẻ gì ăn năn, hối cải
về sai lầm của mình cả.”
Giống
như chuyện làm giám đốc một “Trung tâm Minh triết” mà không hiểu nổi nghĩa hai
chữ “minh triết” nên thường đưa ra những ý kiến như tôi đã viết là thứ “minh
triết du côn”, Nguyễn Khắc Mai nói như trên cũng thuộc dạng mù tịt về thực tế,
chỉ biết nói lăng nhăng bằng một giọng phản động.
Trước hết phải xác định rằng, việc “đánh” tư sản
mại bản và “cải tạo tư sản” sau chiến thắng 1975 là một điều tất yếu. Bởi dân tộc
ta từng hy sinh hàng mấy triệu người để giành lại nền độc lập, thống nhất đất
nước, không phải là để cho bọn tư sản Ba Tàu làm giàu. Nền kinh tế của Việt Nam
Cộng hòa, theo Googlle: “Hoa kiều kiểm
soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh
vực quan trọng: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát
hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất,
luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn
50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn
toàn kiểm soát giá cả thị trường”.
Còn
cái sai của ta thời đó chính là do cái sai chung, do trình độ, sau mấy chục năm
chiến tranh, cả nhà nước cũng như toàn dân ta thực sự chưa biết làm kinh tế. Thời
miền Bắc “xây dựng XHCN” thực ra là nói cho nó kêu, chứ đó chỉ là nền kinh tế
thời chiến “tất cả quên mình cho tiền tuyến” giản đơn, chủ yếu là việc trồng
lúa và sản xuất ít hàng nhu yếu phẩm thiết yếu, ít nhà máy công nghiệp nặng.
Chúng
ta cũng sai lầm mang tính lý luận, khi xây dựng XHCN chỉ bằng hai bàn tay trắng,
mà sau này tự phê là “căn bệnh duy ý chí”. Triết học Mác chỉ ra, xã hội XHCN chỉ
được xây dựng trên nền tảng XHTB cực phát triển với phạm vi toàn thế giới. So với
với quy luật “lượng đổi chất đổi” của phép biện chứng cũng sẽ thấy sai trái. Chỉ
khi nào lượng chất mới tích lũy đủ khi đó chất cũ sẽ thành chất mới, chứ không
thể nào có chuyện một chất cũ đột nhiên biến thành chất mới. Vì vậy việc đánh
tư sản mại bản sau 1975 là đúng, nhưng xóa bỏ ngay mọi thành phần sản xuất tư
nhân là sai, lẽ ra phải làm như “đổi mới” sau này.
Nhưng
những hậu hoạ thời ấy do chúng ta sai về chính sách cũng chỉ một phần. Cái
chính là do hậu quả chiến tranh, “chiến lợi phẩm” là Sài Gòn và các đô thị miền
Nam “ăn trắng mặc trơn” ăn theo cuộc chiến, chúng ta tay trắng về khoa học công
nghệ cũng như máy móc và nguyên vật liệu, trình độ sản xuất kém, trình độ tổ chức
sản xuất kém, v.v… Cả hai miền bị cắt viện trợ đột ngột, phương “Tây” thì cô lập,
phương “Ta” thì gây chiến biên giới hai đầu đất nước, v.v… Vậy mà chúng ta vẫn
đứng vững, vượt qua, rồi đến được những ngày như hôm nay thì đúng là một kỳ
tích! Có điều, con đường đến với mỗi tiến bộ luôn phải trả giá đắt, bằng rất
nhiều mồ hôi nước mắt, thậm chí cả máu nữa. Còn sau khi mọi chuyện đã rồi, ngồi
phán đúng sai, nên thế này, nên thế kia thì quá dễ. Người có trí là phải nhìn
thấy sâu vào bản chất vấn đề, chỉ có loại ngu và hời hợt mới chỉ nhìn thấy những
hiện tượng bên ngoài và phán lăng nhăng mà thôi.
***
Ngược
lại những ý kiến sai trái về Nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười của những kẻ như Nguyễn
Khắc Mai, một trợ lý của nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười trong nhiều năm, ông Lê Đức
Thúy, nguyên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, đã chia sẻ với báo chí những ấn
tượng lớn nhất về cố Tổng bí thư. Đặc biệt là kỳ tích chống lạm phát. Vào năm
1986, khi TBT Trường Chinh khởi xướng Đổi mới, lạm phát đạt kỷ lục gần 800%.
Khi ông Đỗ Mười lên làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, năm 1988, đã thực hiện nhiều
giải pháp đã đưa tỷ lệ lạm phát xuống 10% vào năm 1992!
Ông
Lê Đức Thúy nói:
“Khi ông Đỗ Mười lên làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
thì … thời gian triển khai đường lối Đổi
mới vào cuộc sống chưa nhiều. Chính phủ đang phải xoay sở làm sao cho đủ cơm áo
gạo tiền với trăm nghìn công việc ngổn ngang bên trong, bên ngoài. Vì vậy, tôi
nghĩ rằng ông Đỗ Mười trên cương vị đứng đầu Chính phủ và sau đó đứng đầu Đảng,
là một trong những lãnh đạo chủ chốt đã tổ chức thực hiện thành công đường lối
Đổi mới của Đại hội lần thứ VI; đưa đường lối Đổi mới vào cuộc sống một cách
toàn diện bằng hoạt động điều hành của Chính phủ”.
“Đầu thập niên
1990, Việt Nam xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
(1991-2000). Ông Đỗ Mười chủ trì đề án này với tư cách Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,
… ông huy động trí tuệ của nhiều cơ quan, cá nhân, … đồng ý mời nhóm các giáo sư từ đại học
Harvard tham gia ý kiến, lắng nghe các vấn đề về kinh tế thị trường…”
“Cuộc đời tôi vinh dự được giúp việc cố Tổng bí thư Đỗ
Mười, có nhiều kỷ niệm không thể nào quên. Trong số đó, tôi ấn tượng với ông
không chỉ là người lăn lộn thực tiễn, biết lắng nghe, tập hợp trí tuệ mà trong
lúc bận rộn với công việc chỉ đạo, điều hành vẫn luôn dành thời gian tự nghiên
cứu. Ông đọc rất nhiều tài liệu cả trong và ngoài nước. Hễ có thời gian rỗi lúc
nào là ông tranh thủ đọc…
Có lẽ trong số lãnh đạo mà tôi được biết, ông là người
đọc nhiều nhất, học hỏi nhiều nhất và vì vậy ông đã thay đổi được rất nhiều về
tư duy. Đặc biệt, ông luôn gắn với thực tiễn và lấy thực tiễn để soi rọi những
nguyên lý sách vở, điều chỉnh cho phù hợp.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, không phải ý kiến
nào của một nhà lãnh đạo cũng đúng, cũng mới; không phải quyết định thực
tiễn của lãnh đạo thì không có mặt hạn chế. Nhưng với tôi, tâm huyết của nhà
lãnh đạo Đỗ Mười với đất nước và việc lắng nghe ý kiến của chuyên gia, đồng
chí, đồng nghiệp đã giúp ông làm xuất sắc nhiệm vụ của mình và nay ông ra đi
thanh thản”.
TP Hồ
Chí Minh
3-10-2018
ĐÔNG LA