Thứ Ba, 25 tháng 10, 2022

VIẾT THÊM VỀ NHÂN CÁCH BẢO NINH VÀ CUỐN “NỖI BUỒN CHIẾN TRANH”

 ĐÔNG LA

VIẾT THÊM VỀ NHÂN CÁCH BẢO NINH VÀ CUỐN “NỖI BUỒN CHIẾN TRANH”
Như có một cơ duyên mầu nhiệm dẫn dắt tôi lần đầu tiên vào đọc trang facebook của Nguyen Thi Bong thấy có chia sẻ lá thư ngỏ của anh Nguyen Canh Toan viết ngày 7-10-2022 “gởi các em Nguyễn Thị Cúc, Dang Dinh Cung, Nguyễn Quang Thiều”. Nguyễn Quang Thiều đây chính là ông đương kim Chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam, còn anh Nguyen Canh Toan là một nhà giáo, nhà nghiên cứu, từng học ở Liên Xô. Lá thư của anh Nguyen Canh Toan với tôi vô cùng quý giá vì nó cung cấp những thông tin về nhân cách của ông Nhà Văn Bảo Ninh, điều còn thiếu trong những bài viết của tôi phê phán Bảo Ninh, tác giả cuốn tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” xuyên tạc sự thật, bôi đen cuộc Kháng chiến vĩ đại, giành lại chủ quyền dân tộc, bôi đen những chiến sĩ thuộc Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng, trong đó có chính Bảo Ninh, anh Nguyen Canh Toan và tôi (Nhà Văn Đông La).
Những thông tin của anh Nguyen Canh Toan không gì đáng tin cậy hơn bởi anh viết chính danh trên facebook, với tư cách là người từng cùng nhập ngũ, cùng đơn vị với Hoàng Ấu Phương, chính là Bảo Ninh. Anh cho biết mình cùng từng chiến đấu bên Bảo Ninh, trong một cuộc chiến vô cùng ác liệt, thịt nát xương tan nhưng “chúng tôi không sợ hãi, đào ngũ, không đầu hàng địch mà luôn lạc quan, yêu thương nhau và cùng chung niềm tin Tổ quốc ta sẽ chiến thắng”, “và đó là sự thật khác với “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh”, “Khi tôi đọc “Nỗi buồn chiến tranh”, tôi giật mình: BN viết về chính nó, chính tôi, chính chúng tôi, đồng đội của chúng tôi trong chiến tranh nhưng rất rất nhiều sự việc bịa đặt, sai sự thật đến mức không thể chấp nhận”.
Nguyen Canh Toan cho biết, sau giải phóng “khi về Viện Sinh học, Viện Khoa học VN, Phương (Bảo Ninh) phát triển khá thuận lợi: tổ trưởng Đảng, quyền Phụ trách phòng Sinh lý Sinh hoá thực vật… Và, tiếc thay, khoảng những năm đầu 1980, Phương đã bị kỷ luật rất nặng về tội không trung thực, gây chia rẽ mất đoàn kết nội bộ bằng cách phá hoại thí nghiệm sinh học của đồng nghiệp trong Viện… Phương (Bảo Ninh) đã lấy hoá chất độc rắc vào tảo thí nghiệm thức ăn cho gà của 1 trong 2 tiến sĩ đang thí nghiệm và lấy tờ giấy ghi (vứt trong phòng thí nghiệm) là vị TS X. giết gà để gây mâu thuẫn, làm mất uy tín vị TS khác trong phòng! CQ công an phải vào cuộc và Phương buộc phải rời khỏi Viện nghiên cứu và ngồi ở nhà trong một thời gian khá dài”.
Đọc xong, tôi (Đông La) đã buộc phải nhắn tin cho anh Nguyen Canh Toan: “Tôi là người đã phê phán cuốn “Nỗi buồn chiến tranh từ 2009 liên tục cho tới nay, nhưng vẫn không ngờ Bảo Ninh lại đểu cáng và xấu xa đến thế!”
Báo điện tử Bình Phước, 06/10/2019, cho biết Bảo Ninh, khi trả lời phỏng vấn, đã nói về cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân ta là: “đó là một cuộc nội chiến”. Ý kiến của Tiến sĩ Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc và là cố vấn Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, tất khách quan, y như một cái tát vả vào mồm Bảo Ninh, trong buổi phỏng vấn với CNN và trong sách "Những Bí mật về Chiến tranh Việt Nam" đã viết:
"... Cuộc chiến đó không có gì là "nội chiến"... Theo tinh thần Hiến chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà chúng ta (nước Mỹ) công khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự xâm lược của Mỹ".
***
Về cuốn “Nỗi buồn chiến tranh”, Năm 1991, khi nó được giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam, dư luận đã phản đối dữ dội, khiến Ban Lãnh đạo Hội Nhà Văn VN khóa IV hồi đó đã phải tự phê bình bằng văn bản, đọc trước toàn Đại hội lần thứ V, còn in trên báo Công an TPHCM số 478, ra ngày 13-9-1995. Nhưng thật kỳ quái, “Nỗi buồn chiến tranh” lại được Nguyên Ngọc, người bị kỷ luật và cách chức vì những quan điểm văn chương sai trái, coi là lá cờ, là thành tựu nổi bật của cuộc cách mạng đổi mới văn chương, đã dắt mũi được bầy đàn ngu muội tin theo, trong đó có Nguyễn Quang Thiều, người từng tâng bốc “Nỗi buồn chiến tranh” là “chạm vào mẫu số chung nhân loại”, và gần đây trên facebook, Nguyễn Quang Thiều cho rằng ý kiến “Nỗi buồn chiến tranh” được giải Nobel: “là một ý kiến hết sức nghiêm túc”!
Nước Mỹ hiện đã bình thường hoá quan hệ với VN vì lợi ích song phương, quan hệ với Mỹ đã trở thành rất quan trọng đối với VN trong sự phát triển kinh tế và khoa học công nghệ, tiếc là giữa hai nước vẫn còn những “khác biệt” mà ta phải bỏ qua. Như các vị TT Mỹ vừa được đón trọng thể tại Phủ Chủ tịch, xong họ lại tiếp ngay những kẻ chống phá VN. Phía Mỹ cũng vẫn không quên thất bại đau đớn, hao người, tốn của ở VN, vì vậy khi cuốn “Nỗi buồn chiến tranh” xuất hiện như “rửa mặt” cho họ, và khi bị phê phán ở Việt Nam, họ đã lập tức trao giải thưởng khoảng 40.000 USD. Đây là số tiền rất lớn ở VN tại thời điểm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước. Chính nó đã thắp sáng tham vọng điên cuồng của một số kẻ nhà văn, làm mù lương tri và đạo lý của chúng, Nguyễn Quang Thiều cũng có trong số đó nên mới tâng bốc ngược như trên.
VietNam.net có truyền thống sai trái về chính trị tư tưởng, về lịch sử, về văn hoá nghệ thuật, từng đăng bài, đưa hình ảnh của những người có quan điểm sai trái như Tương Lai, Nguyên Ngọc, Phạm Xuân Nguyên, Chu Hảo, Dương Trung Quốc, Nguyễn Quang Thiều, v.v… tiếc là những vị có chức trách không biết điều này. Ngày 18/12/2007, VietNam.net đã đăng một cuộc phỏng vấn trường kỳ trong mục: “Giải Nobel văn chương: Nhà văn Việt Nam nào sẽ nhận?” và có đưa ra hai ứng cử viên là Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh. 2009, tôi đã viết một bài, đã in trong cuốn “Bóng tối của ánh sáng” (Giải thưởng của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, 2013) về hai ứng cử viên trên.
Hôm nay, nhân đọc được lá thư của anh Nguyen Canh Toan, tôi xin đăng lại phần viết về Bảo Ninh. Tôi đã nhắn tin cho anh. Đông La: “anh có thể cho tôi chia sẻ bài viết về BN của tôi lên trang của anh được o?”. Nguyen Canh Toan: “Vâng anh! Cám ơn anh!”. Đông La: “Đây là việc lớn, liên quan đến sự ổn định, phát triển, hoà bình của đất nước chúng ta. Bọn Nguyên Ngọc Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Quang Thiều... chính là những kẻ có thể đưa nước ta đến nguy cơ như Ukraina, nên rất mong anh có gì mình chung tay chống lại bọn cơ hội, trở cờ, phản bội đó”. Nguyen Canh Toan: “Vâng đúng vậy anh ạ!”
***
Về cuốn “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh?
Theo Vương Trí Nhàn (http://www.vinabook.com/noi-buon-chien-tranh-tieu-thuyet...... -70k), Nỗi buồn chiến tranh: “…được giải của Hội nhà văn Việt Nam,… như bằng chứng về con mắt tinh đời của những người chấm giải”; “Cái may của Nỗi buồn chiến tranh là ở chỗ nó ra đời vào thời hội nhập… nó đã trở thành người đại sứ duy nhất của văn học”.
Nếu trong tất cả tác phẩm viết về chiến tranh, Nỗi buồn chiến tranh là đúng nhất thì cái việc nó làm “đại sứ” thật tuyệt vời. Nhưng thực chất Bảo Ninh vì “Tôi không muốn viết theo một cái “tông” có sẵn” nên: “Những gì tôi viết trong cuốn sách này, tôi cũng đã nói rằng nó không hoàn toàn là sự thật”. “chiến tranh tóm gọn lại là sự chết chóc, hủy diệt. Tôi nghĩ thế là quyền của tôi, và có người phê phán tôi thấy cũng chẳng sai”; “cách viết của tôi về chiến tranh khác với các nhà văn khác” (http://www.Baodatviet.vn/Utilities/ PrintView.asp x?ID=9840). Và cái “khác” của Bảo Ninh là: trước kia người ta viết cái tốt thì giờ anh ta chỉ viết toàn cái xấu mà thôi. Nếu thời chiến đa phần thanh niên ra đi theo lý tưởng giải phóng (thể hiện rõ nhất trong nhật ký của anh Thạc, chị Trâm) thì nhân vật Kiên của Bảo Ninh ra đi với lời dặn: “Nghĩa vụ của một con người trước trời đất là sống chứ không phải hy sinh nó, là nếm trải sự đời một cách đủ ngành ngọn chứ không phải là chối bỏ…, mong con hãy cảnh giác với tất cả những sự thúc giục con người lấy cái chết để chứng tỏ một cái gì đấy” (Nỗi buồn chiến tranh, NXb Hội Nhà văn, 1991, tr.61). Còn đây là hình ảnh “anh chiến sĩ giải phóng”: Hiếp dân lành (chuyện cô Phương bị hiếp tập thể trên tầu) (tr.243) ; hành lạc tập thể (giữa phân đội trinh sát với 3 cô gái trong khu trại tăng gia huyện đội) (tr.31); bài bạc, hút xách (hút hồng ma), trốn chạy (nhân vật Can), tàn sát tù binh (tr.42)… Tôi cũng từng là lính chiến, những điều “đi dân nhớ ở dân thương”, “không lấy cái kim sợi chỉ của dân”, “vì nhân dân quên mình”, v.v… không chỉ là những khẩu hiệu suông mà là quân luật. Những điều Bảo Ninh viết chỉ là phần dị dạng, có thể có nhưng rất hãn hữu, không phải là bản chất của bộ đội. Vậy một người có đầu óc bình thường như ông Vương Trí Nhàn lại đánh giá cao việc Nỗi buồn chiến tranh làm đại sứ, ông muốn cho người ngoài hiểu sai, hiểu xấu về con người và đất nước của mình ư? Vương Trí Nhàn cũng cho biết nhiều người thấy rằng: “công nhận cuốn sách của Bảo Ninh tức là phủ nhận quá khứ của chính mình, mồ hôi nước mắt của chính mình”. Nhưng ông biện hộ: “… bao thay đổi đã đến với đời sống chúng ta… Quan niệm về tương lai khác đi, quan niệm về hiện tại khác đi, thì làm sao quan niệm về quá khứ cứ giữ mãi như cũ?!” Đất nước chúng ta đã “khép lại quá khứ hướng tới tương lai”, “khép lại” chứ không phải “quan niệm khác”, bởi đã là người có lương tri, không chỉ ở nước ta mà trên toàn thế giới, không ai “quan niệm” đồng nhất giữa chiến tranh xâm lược với kháng chiến tự vệ! Ông tiếp: “… ta không thể sống một mình mà sẽ tồn tại trong… những chuẩn mực chung của cộng đồng thế giới”. Thế giới hướng đến tương lai theo “chuẩn mực chung” văn minh hơn chứ không có cái chuẩn mực nào lại đồng nhất giữa thiện với ác cả!
Nhà văn Nguyên Ngọc, theo (http://phamxuan nguyen.vnweblogs. com/ post/1958/114671): “người có công lớn trong việc trao giải cho Nỗi buồn chiến tranh, đánh giá rất cao tác phẩm này. Ông viết: "Đây là cuốn tiểu thuyết về một cuộc chiến đấu của một con người tìm lẽ sống hôm nay. Bằng cách chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình. Cuốn sách này không mô tả chiến tranh. Nó "mô tả" một cuộc kiếm tìm nặng nhọc chính hôm nay. Hiện thực ở đây là hiện thực bên trong của một tâm hồn quằn quại và đầy trách nhiệm, quằn quại vì đầy trách nhiệm. Trách nhiệm lương tâm. Cuốn sách nặng nề này không bi quan. Vẫn thấm sâu ở đâu đó trong từng kẽ chữ của nó một âm hưởng hy vọng tiềm tàng, chính là vì thế. Anh đi tìm, nghĩa là anh còn hy vọng". Tôi quá ngạc nhiên khi Nguyên Ngọc, người từng được nhà văn nổi tiếng là thông minh như Nguyễn Khải coi là “nhà tư tưởng của thế hệ” mình, viết vậy. Với lời nhận xét trên thực ra Nguyên Ngọc chưa hiểu gì về Nỗi buồn chiến tranh, chỉ thấy cái hơi hướng hợp với ý mình rồi tán ra cho thành tuyệt vời mà hoàn toàn không có căn cứ gì ở tác phẩm. Còn thực chất Bảo Ninh viết gì? Nỗi buồn chiến tranh thực chất là cuốn sách viết về sự chấn thương tâm thần của một người lính giải phóng đã trải qua một cuộc chiến tàn khốc: “Chiến tranh là cõi không nhà không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới thảm sầu, vô cảm, là tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người” (Nỗi buồn chiến tranh, tr.32); rồi trở về với sự đổ vỡ của tình yêu: “Đột ngột, Kiên … đã thoáng thấy một bóng người đứng ở bên trong cánh cửa phòng Phương… Gương mặt Phương trắng bệch… Chao ôi! Như vậy đấy: Hoà bình, hạnh phúc… ” (tr.86); và đổ vỡ niềm tin: “Sau cuộc chiến tranh ấy chẳng còn gì nữa cả… Chỉ còn những mộng mị hão huyền… Càng ngày Kiên càng có cảm giác rằng không phải mình đang sống mà là đang bị mắc kẹt lại trên cõi đời này” (tr.87); vì thế đã “tìm lẽ sống hôm nay” (ý Nguyên Ngọc) và “chiến đấu lại” bằng cách “dầm mình trong rượu” (tr.87) và “viết văn”, nhưng phải “làm cách mạng văn chương” (theo ý Bảo Ninh) bằng cách chỉ kể lại những gì bi thảm nhất: “Tôi như sẵn sàng nhập thân trở lại với cảnh lửa, cảnh máu, những cảnh chém giết cuồng dại, méo xệch tâm hồn và nhân dạng. Thói hiếu sát. Máu hung tàn. Tâm lý thú rừng. Ý chí tối tăm và lòng dạ gỗ đá” (tr.49); “Dằng dặc trôi qua trong hồi ức của Kiên vô vàn những hồn ma thân thiết, lẳng lặng âm thầm kéo lê mãi trong đời anh nỗi đau buồn chiến tranh” (tr.26) … và những gì xấu xa nhất của đội quân mình đã đứng trong đó (như đã dẫn ở trên); để rồi với “Trách nhiệm lương tâm” (ý Nguyên Ngọc) đã chỉ ra sự hy sinh của mình và bao đồng đội là vô nghĩa: “ - Hừ! Hòa bình! Mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình…” (tr.44); “ Nền hòa bình này… Hừ tôi thấy hình như các mặt nạ người ta đeo trong những năm trước rơi hết. Mặt thật bày ra gớm chết. Bao nhiêu xương máu đã đổ ra…/ - Mẹ khỉ. Ăn nói gì lạ thế Sơn?/ - Lạ chó gì mà lạ. Cái loại lính như ông ấy mà còn là vỡ mộng đau đớn với đời” (tr.45).
Theo Thụy Khuê (http://chimviet.free.fr/tacpham 1/stt1/baoninh.html), Nguyên Ngọc kể lại: “Bảo Ninh có lần tâm sự với tôi rằng anh viết vì câu hỏi: Vì sao anh lại còn sống sót đến hôm nay trong khi hàng trăm, hàng vạn bạn bè của anh cũng trẻ trung, cũng phơi phới, rất nhiều người còn đẹp đẽ hơn anh, tài năng hơn anh bội phần... lại đã mất đi? Câu hỏi dày vò anh đến trọn đời như một niềm ân hận vừa vô lý, vừa có thật không nguôi. Và câu hỏi thứ hai: Tại sao tất cả những điều ghê gớm ấy, bây giờ lại như thế này?" ( báo Văn nghệ, số 47, ra ngày 25-11-1989). Thụy Khuê giải thích rõ thêm: “Tại sao tất cả những điều ghê gớm ấy chỉ đem lại một thực tại như thế này?”
Trong Nỗi buồn chiến tranh, sự vô nghĩa của cuộc chiến giải phóng đất nước chỉ thấp thoáng trong vài câu đối thoại bâng quơ, mới là sự ám chỉ của Bảo Ninh, chứ tác giả không phân tích và chứng minh cụ thể cho người đọc biết tại sao cuộc chiến thống nhất đất nước lại vô nghĩa? Lẽ ra trong quá khứ nước ta phải như thế nào? Và hiện tại đã lỡ “vô nghĩa” rồi thì cần phải làm những gì?… Trong một cuộc phỏng vấn anh ta có giải thích: “Nỗi buồn chiến tranh” là đoạn kết của mười năm hậu chiến, mười năm hậu kỳ thời bao cấp ngột ngạt và khốn quẫn, đoạn kết ấy chứa chất trong nó nhu cầu sống còn của sự nhất thiết phải đổi thay” thực ra là anh ta nói thêm vào, chứ không phải là ý tưởng chính của Nỗi buồn chiến tranh.
Phạm Xuân Nguyên (http://phamxuannguyen. vnweblogs.com/ post/ 1958/ 114671)): “Đây là một tác phẩm xuất sắc nhất… là sự chứng thực bề sau và bề sâu những biến động của xã hội và con người Việt Nam đi qua chiến tranh và cách mạng”. Ý này Phạm Xuân Nguyên lặp lại ý Nguyên Ngọc ở trên. Phạm Xuân Nguyên tiếp: “Phẩm chất lớn nhất của Nỗi buồn chiến tranh là nó đã thể hiện chân thực người lính”. Nếu ai đã học triết đều hiểu quy luật lượng đổi chất đổi: một chất trong quá trình biến đổi, lượng chất đó chuyển thành chất khác nhiều hơn thì nó sẽ thành chất khác chứ không còn là chất cũ nữa. Tương tự, nếu quân đội của chúng ta lượng cái xấu, các ác như Bảo Ninh viết trong Nỗi buồn chiến tranh là nhiều hơn cái tốt thì Phạm Xuân Nguyên viết “chân thực” như câu trên là đúng. Thực tế Bảo Ninh chỉ viết nên phần dị dạng của đội quân cách mạng vì muốn làm “cách mạng văn chương”, chính anh ta cũng cho biết mình viết “không hoàn toàn đúng” và “người phê bình tôi cũng không sai”, nên đánh giá như Phạm Xuân Nguyên hoàn toàn sai, ngược với ý của chính Bảo Ninh, là cách hiểu của người trí tuệ rất thấp, tri thức rất hạn chế. Phạm Xuân Nguyên tiếp: “Cuộc chiến được mô tả trong tác phẩm này không mang kèm một định ngữ nào nó là chiến tranh với tất cả thảm trạng nghiệt ngã của nó, ở đó những người lính là những con người bị vất vào cuộc chiến, buộc phải bắn giết nhau”. Điều tối thiểu người cầm bút ai cũng biết “Văn chương phải tải đạo”, mỗi người khi ngồi viết ít nhiều ai cũng thấy mình như phải làm một sứ mệnh, một cán bộ nghiên cứu ở Viện Văn học như Phạm Xuân Nguyên lại đi đồng nhất cái thiện với cái ác thì nghiên cứu cái gì?!
Phạm Xuân Nguyên cũng cho biết thành quả của “đại sứ Nỗi buồn chiến tranh” đã giúp cho người ngoài hiểu sai về con người và đất nước chúng ta như sau: “Gần đây nhất,… Dennis Mansker… khi đọc Nỗi buồn chiến tranh. … ông choáng váng và xúc động. Ông viết: "Đây là một bức tranh trung thực và tàn nhẫn đến kinh ngạc về bi kịch của một người lính Bắc Việt bị tê liệt hết nhân tính của mình sau mười năm tham chiến…”. Sau chiến tranh, có thể có những chấn thương thần kinh về bệnh học, còn chấn thương tinh thần mang tính ý thức hệ để rồi tuyệt diệt niềm vui sống, như Bảo Ninh viết, chỉ là vô cùng hãn hữu. Bản thân cựu lính chiến Bảo Ninh cũng còn rất khôn ngoan, chẳng có “tê liệt” cái quái gì hết, không hiểu vì cái gì mà ông viết để cho người ngoài hiểu đồng đội của mình “tê liệt hết nhân tính” như một lũ súc vật vậy?! Đa số người lính sau chiến thắng mừng vì ta thắng địch chỉ một phần, cái chính là thoát chết được trở về gặp lại cha mẹ, và được sống tiếp cuộc đời mà chiến tranh đã làm cho dở dang. Có nhiều người sau chiến tranh thất bại trong cuộc sống, nhưng thất bại vì cái gì thì là một chủ đề khác chứ không phải do cuộc chiến giải phóng, giành độc lập là vô nghĩa. Trong lịch sử loài người, nếu không có những cuộc chiến tự vệ và chống bất công, thì người da đen còn được bày bán ngoài chợ như con vật (xem Cội rễ), và ông Obama hôm nay cũng không thể làm Tổng thống nước Mỹ được! Vì được Bảo Ninh biện hộ, người ta đưa Nỗi buồn chiến tranh vào giảng dạy và ca ngợi lên tận mây xanh là có lý thôi, cũng theo Phạm Xuân Nguyên: “Đánh giá cao nhất Nỗi buồn chiến tranh ở Mỹ có lẽ là ý kiến của Leif A. Torkelsen (Columbus, OH United States) khi ông cho đây là cuốn tiểu thuyết chiến tranh hay nhất thế kỷ XX. Torkelsen viết: "… đây là một tác phẩm ngoại hạng… Cuốn sách tràn đầy những suy tư thấu suốt về Việt Nam cũng như về tâm hồn con người…”.
Cái chuyện tôn vinh một tác phẩm giúp cho người ngoài hiểu sai về dân tộc mình và viết không cần đúng sai để biện hộ cho đối phương, buộc tôi phải đặt câu hỏi: Người ta làm vậy phải chăng vì ngóng đợi một cái gì đó ngoài văn chương? Và cái đó chính là TIỀN!
Bảo Ninh và những người tôn vinh đã hành động làm như chính Việt Nam ta là người đã gây chiến. Một người có một chút kiến thức lịch sử thôi sẽ không ai như vậy, hay các vị biết cả mà cứ bất chấp, vì toàn là Giáo sư Tiến sĩ, nhà này nhà kia cơ mà? Sau đây là những ý của một bài viết ở hải ngoại có ý chống đối, tôi trích cho khách quan, nhưng những sự kiện lịch sử thì họ không thể nói khác đi: “Với Pháp, Hồ Chí Minh không muốn có chiến tranh. Ông đã làm bất cứ điều gì để tránh. Qua cơ quan tình báo OSS, ông kêu gọi Mỹ ủng hộ. Ông đã lập ra một chính phủ liên hiệp, chấp nhận sự hiện diện quân sự của Pháp và làm hội viên trong khối Liên hiệp Pháp, miễn sao người Pháp đồng ý trao lại nền độc lập cho Việt Nam. Nhưng Pháp không chấp nhận nổi ý tưởng từ bỏ những thuộc địa cũ. Cho nên Hồ chí Minh lại rút vào rừng rậm. Ông nói với người bạn Pháp Jean Sainteny như sau: “Pháp có thể giết 10 người Việt Nam trong khi Việt Nam giết một người Pháp, nhưng Pháp cuối cùng sẽ là phe mỏi mệt và thua cuộc". Diễn tiến tình hình xảy ra sau này đúng y như thế.
Với Mỹ, ngay từ đầu thập niên 20 thế kỷ trước, Nguyễn Ái Quốc đã muốn có mối liên hệ nên đã gởi bản kiến nghị cho Thomas Woodrow Wilson, Tổng thống Hoa Kỳ thứ 28, mong Mỹ sẽ áp lực Pháp, ủng hộ chuyện dân chủ ở Việt Nam. Hồ Chí Minh thành lập Tổ chức Việt Minh năm 1941, năm Nhật tấn công Mỹ ở Trân Châu Cảng, không phải là một sự tình cờ. Hồ chí Minh cũng đã có một sự quan hệ mật thiết với cơ quan tình báo OSS (tiền thân của CIA), đã cứu những phi cơ Mỹ bị bắn rơi, đến chuyện trích dẫn Hiến pháp Mỹ trong Tuyên Ngôn Ðộc Lập, đã cho thấy ý muốn thân thiện của Hồ chí Minh với Mỹ. Lịch sử Việt Nam sẽ đổi khác rất nhiều nếu Tổng thống Harry Truman nghe theo lời kêu gọi độc lập cho Việt Nam của Hồ Chí Minh. Sẽ tránh được một cuộc chiến cay đắng, trong đó có chừng 3 triệu người Việt Nam và gần 60000 người Mỹ thiệt mạng”. Chính vậy, khi thăm Việt Nam ngày 6-12-2006, Cựu tổng thống Mỹ Bill Clinton đã nói với Chủ tịch Nguyễn Minh Triết: “Sáu mươi năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng thống Roosevelt đã muốn hai nước Việt - Mỹ thật sự là bạn. Quá trình này đã có những bước gập ghềnh. Tuy nhiên, tôi vô cùng hạnh phúc chứng kiến quan hệ tốt đẹp giữa hai nước mà đáng lẽ phải có từ cách đây 60 năm”. (http://www.rfviet.com/forum35/showthread.php?t=13 466).
Đặc biệt, chính Bảo Ninh tự đánh giá: “Cuốn sách của tôi không phải cuốn sách hay, nó chỉ là cuốn sách khác với các cuốn sách khác viết về chiến tranh mà thôi” (http://www.Baodatviet.vn/Utilities/PrinVie w.aspx?ID =9840). Tôi thường nghĩ, chỉ những nhà văn ngô nghê mới đạo văn, không ngờ cũng như Nguyễn Huy Thiệp copy Vũ Trọng Phụng, Bảo Ninh trong đoạn viết Kiên trở lại xóm Đồi Mơ gặp Lan nảy sinh tình yêu bất ngờ rồi chia tay rất giống đoạn trong Bông hồng vàng (NXB Văn hóa Thông tin, 2001, tr.270) Pauxtopxki viết Anđexen gặp và chia tay Elêna. Nếu Anđexen của Pauxtopxki phải chia tay Elêna như “trả một giá đắt” cho những chuyện cổ tích thì Kiên cũng “lòng thắt lại” và kỷ niệm về mối tình đó đã “làm chín muồi cái khát vọng thể hiện thiên chức thiêng liêng” (tức viết văn). Nếu Elêna nói với Anđexen: “Anh hãy chạy đi… Đừng nghĩ gì đến em. Nhưng nếu một ngày kia, tuổi già, nghèo nàn và bệnh tật có làm anh đau khổ thì chỉ cần anh nhắn cho em một lời, em sẽ… tới an ủi anh”, thì cô Lan cũng nói với Kiên: “Đừng bận về em. Đời anh rộng mở, hãy đi vào hãy sống cho thỏa… Còn nói ví dụ… một ngày nào anh gặp cảnh ngộ không hay, thấy đã hết ngả để đi tiếp thì xin anh hãy nhớ ngay rằng, dù sao cũng còn có một nơi, cũng còn một người… một chốn anh về” (Nỗi buồn chiến tranh, tr.57). Tuy vậy, không hiểu vì cái gì người ta vẫn cứ cho Nỗi buồn chiến tranh là hay nhất, rồi văn chương Việt Nam chỉ có Bảo Ninh mới biết viết tiểu thuyết, còn cho là ứng cử viên sáng giá nhất cho giải Nobel! Riêng tôi, dù Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh có được Nobel thật cũng thấy là chuyện bình thường, vì giải Nobel thực chất không chỉ vì học thuật mà còn có màu sắc chính trị, nhất là về Văn chương và Hòa bình, như việc trao giải cho ông Henry Kissinger vì “có công” mang lại Hòa Bình cho Việt Nam đó!
Phạm Xuân Nguyên cho Nỗi buồn chiến tranh “được giải thưởng là một thắng lợi của tư duy đổi mới trong văn học”; cho “Hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp là thành quả của đổi mới”; Bảo Ninh cho: “Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 ghi dấu chặng đường 5 năm trời đột khởi của văn học nhờ Đổi Mới đất nước… Theo tôi, Đổi Mới là một cách diễn đạt nhẹ nhàng, chứ còn trong thực tế đấy là cả một cuộc cách mạng”.
Có điều cái gọi là “đổi mới” mà hai vị đã nói thực ra chỉ là một sự lộn ngược lại tất cả một cách cực đoan. Rất may là nó đã bị dẹp bỏ, nhưng nó đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến những nhà văn muốn đổi mới chân chính, muốn văn chương Việt Nam phản ánh hiện thực toàn diện và sâu sắc hơn, góp phần giải những bài toán xã hội của thời hiện đại, chống lại những quốc nạn và tình trạng tụt hậu. Tất nhiên phải cần những nhà văn có trình độ cao về học thuật và tri thức, còn những loại dốt nát và hãnh tiến sao có thể đổi mới thực sự được?
Còn với nước Mỹ, tôi thấy với họ chỉ có đối tác có lợi hay có hại mà thôi, nên khi thắng bọn Đức phát-xít, họ đã thu nhận ngay các bác học người Đức, chính những người này đã làm cho Mỹ dẫn đầu công cuộc chinh phục vũ trụ và nhiều ngành khoa học công nghệ khác; họ vừa ném bom nguyên tử xuống Nhật xong đã coi Nhật thành đối tác làm ăn quan trọng nhất; ngay với Việt Nam cũng vậy, sau 30-4, Mỹ cũng đã có ý định dàn hòa. Như vậy, nước Mỹ chỉ là kẻ thù ở một chính sách nào đó, của một ông tổng thống nhiệm kỳ nào đó, đối với một đối tượng nào đó. Chính vậy nước ta chưa bao giờ coi nhân dân Mỹ là kẻ thù của mình. Còn nước mình, chúng ta có quyền tự hào về Chiến thắng, nhưng không thể cứ mài Chiến thắng ra mà ăn được. Chúng ta đã khép lại quá khứ hướng đến tương lai. Còn nhiều điều chưa hoàn thiện ở cuộc sống hôm nay, chính là nỗi buồn hôm nay chứ không phải nỗi buồn chiến tranh, nó do những cái khác chứ hoàn toàn không phải do cuộc chiến bảo vệ đất nước.
Chưa hết, tôi còn có một nỗi buồn nữa, đó là “nỗi buồn Bảo Ninh”! Khi biết Bảo Ninh qua Mỹ, đã gặp Robert Whitehurst và đọc chiếc đĩa ghi toàn bộ cuốn nhật ký của Đặng Thùy Trâm, nhưng theo “Thư ngỏ gửi nhà văn Bảo Ninh: Xin đừng làm tổn thương đến tâm huyết các liệt sĩ” của Dương Đức Quảng (http://ca.cand.com.vn/vi-VN/thoisuxahoiphongsughi chep/2005/9/62803. cand? Page=1): “Tôi cũng không hiểu vì sao khi nhà văn (BN) đã biết địa chỉ của gia đình (Đặng Thùy Trâm)… lại không mang kỉ vật thiêng liêng của liệt sĩ đến”. Mà chính “Ted Engelmann, một phóng viên ảnh người Mỹ” qua “bao trái tim nhân hậu đã chuyển tiếp cho nhau tín hiệu để cuối cùng giúp Ted tìm được… và trao lại chiếc đĩa CD”. Buồn hơn nữa khi Bảo Ninh cho rằng Đặng Thùy Trâm viết nhật ký vì: “có thời gian”!
Quả ông Trời có mắt, để đối trọng với Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh và một số người tung hô, đã lẻn được ra ngoài bằng ngõ tắt, đem đến thị trường tinh thần thế giới còn trắng đen lẫn lộn những hàng hóa đặc biệt, sản phẩm của cuộc “đổi chác” chứ không phải “đổi mới” văn chương, đã đổi những thứ vô giá thiêng liêng như niềm tự hào dân tộc, sự chính nghĩa, cái thiện… lấy những cái có giá cụ thể hơn; Đặng Thùy Trâm xuất hiện như một nàng tiên, không chỉ là đại sứ mà là một thiên sứ, chị cũng đến được với thế giới bằng đại lộ nhân bản, mang đến những đức tính nhân văn nhất của dân tộc Việt, đó là tình yêu Tổ Quốc, sự hy sinh vì chính nghĩa, lòng vị tha, và lòng nhân ái vô bờ của nữ bác sĩ anh hùng. Nếu có một giải cao quý hơn Nobel, thì tôi sẽ đề cử tác phẩm Nhật ký Đặng Thùy Trâm, một tác phẩm không chỉ viết bằng máu mà bằng cả sự sống về lòng nhân ái bao la của con người Việt Nam!
TP Hồ Chí Minh,
13-1-2009 (viết thêm 25-10-2022)
ĐÔNG LA