Chủ Nhật, 28 tháng 12, 2025

VĂN BẢO NINH KHÔNG HAY

 VĂN BẢO NINH KHÔNG HAY




Cộng đồng những người có lương tri hiện đang gọi NBCT của Bảo Ninh là “rác phẩm”, nhưng cũng có những người trong lĩnh vực văn chương khen NBCT nhiều kiểu, trong đó có “văn hay”. Có những ý cho rằng người công kích BN do không hiểu văn chương, tức đọc văn BN như đàn gảy tai trâu. Vậy hôm nay cuối tuần tôi giải trí văn chương bằng cách chứng tỏ văn BN không hay.
Hai người “có công” đầu nặn ra “Nhà Văn BN” chính là Nguyên Ngọc và Hoàng Ngọc Hiến. BN viết NBCT là “đề tài tốt nghiệp” của trường “ Đại học Viết văn Nguyễn Du” mà theo NN kể, khi về “làm Đảng đoàn ở Hội Nhà văn” NN đã trả lời Trần Độ một trong hai kế hoạch chủ yếu của mình là “làm Trường Viết văn Nguyễn Du”, với Hiệu trưởng là Hoàng Ngọc Hiến. “Luận văn” NBCT của BN đã thỏa mãn khuynh hướng lật sử, trở cờ, phản trắc của người Sáng lập trường là Nguyên Ngọc và khuynh hướng chống đối, nổi loạn của Hiệu trưởng Hoàng Ngọc Hiến. Đặc biệt, BN viết NBCT theo tinh thần của “chủ nghĩa trái Đạo” của HNH mà ông ta là người đã phủ nhận và diễu cợt văn học VN, cho là thứ “Văn học phải đạo”. Chuyện này tôi viết sau, hôm nay cuối tuần, tôi bàn chút chuyện người ta khen văn chương BN.
***
Nguyên Ngọc viết: “Bảo Ninh là người viết quá hay, từ trong máu của mình anh biết tỷ trọng tinh vi của từng từ hiện ra trên mặt giấy, và cũng tự trong máu anh biết khi từ này đứng cạnh từ kia được chọn đến tinh vi tối đa thì hiệu ứng tạo nên sẽ rung lên như thế nào trong tâm hồn người đọc. “Chẳng phải ngẫu nhiên mà anh là con trai của ông Hoàng Tuệ, người cống hiến cả đời mình cho tiếng Việt”, Phạm Ngọc Tiến, bạn thân của Bảo Ninh viết”. Cụ thể Phạm Ngọc Tiến viết: “Văn phong của Bảo Ninh được thừa hưởng từ nền tảng ngôn ngữ của người cha… Bảo Ninh thực sự là tác phẩm đời, tác phẩm xuất sắc của người chọn chữ Hoàng Tuệ. Ai đã đọc Bảo Ninh nếu chấp nhận được văn phong của anh hẳn sẽ thấy một năng lực chữ nghĩa dồi dào như mạch chảy ào ạt của sông suối. Văn Bảo Ninh giầu hình ảnh, trầm buồn, uyển chuyển, lắt léo, bất ngờ nhưng rất thực rất đời. Chữ nghĩa của Bảo Ninh cầu kỳ nhưng lại rất chính xác và đặc biệt ngập tràn cảm xúc”.
Theo tôi tầm thẩm văn của Nguyên Ngọc và Tiến như vậy là thấp, vì văn BN chỉ miêu tả, kể lể như ngôn ngữ thông thường, không có gì độc đáo, sáng tạo, riêng của BN, nên “không hay”. Đang xem Phim “Lằn ranh” và coi lại “Sinh tử” mà Tiến làm biên kịch tôi thấy được, không biết văn bản văn học của Tiến thế nào, nhưng có thể nói phản ánh của Tiến là “đổi mới văn chương” vì theo được dòng thời cuộc, chứ không phải là cái mới lộn ngược như văn BN. Tiếc là Tiến thẩm văn BN như trên thì tùy tiện, cảm tính, sai toét.
***
Tôi phải kỳ công tìm kiếm trên mạng xem GS Hoàng Tuệ, cha BN, viết gì về ngôn ngữ văn chương. Tìm mãi thì thấy một bài chắc tiêu biểu lắm nên trang web của HNVVN mới chọn đăng. Tôi thấy Hoàng Tuệ rất kỳ công, rất hàn lâm phân tích hai câu thơ của Tú Xương:

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.

Hai câu thể hiện ý người vợ tần tảo nuôi chồng con ai đọc cũng hiểu, nhưng Hoàng Tuệ đã dùng dao mổ trâu giết gà, mang cả phạm trù không gian thời gian, Triết học Mác-Lê ra bình hai câu thơ đơn giản trên, chắc mấy cô bán rau muống đọc sẽ thấy cao siêu lắm, còn với những nhà sáng tác thông thái thì thấy không có gì độc đáo, cao xa về tri thức ngôn ngữ cả.
Vậy ngôn ngữ văn chương thế nào là sáng tạo, độc đáo, là hay?
***
Tôi chính thức sáng tác văn chương vào tháng 9-1982 mà người mở cánh cửa văn chương chính là Nhà thơ Anh Thơ, người bằng tuổi mẹ tôi (sinh năm 1920) từng được Giải thưởng của Tự lực Văn đoàn với Tập thơ “Bức tranh quê”, sau này cô chính là người phụ nữ đầu tiên được Giải HCM về văn chương. Sau đó, cô đã giới thiệu để tôi đến với Chế Lan Viên, và chính sự ưu ái và quan tâm của một nhà thơ lớn, hàng đầu VN như ông đã là động lực để tôi dấn thân vào con đường văn chương.
Hồi ấy, dư luận xôn xao về Truyện ngắn “Có một đêm như thế” được Giải nhất cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1981 - 1982 mà tác giả là Phạm Thị Minh Thư, sinh năm 1956 cùng lứa tôi, cùng học khoa học tự nhiên như tôi, khoa Toán - Lý trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Không biết người ta thấy cái truyện ngắn hay như thế nào còn tôi thì nhớ mãi một câu văn, sau này trở thành một nhà LLPB thì tôi biết do nó độc đáo, sáng tạo, chưa ai viết, tức là hay. Phạm thị Minh Thư đã viết trong truyện ngắn:
“…Vầng trăng như nhòe đi. Tiếng Miên khẽ khàng. - Có điều trăng thượng huyền mà sao to và nặng, lại còn màu đỏ nữa... Tưởng như có một mặt trời được kéo ngược từ phía hoàng hôn trở về”.
Sau khi gặp cô Anh Thơ ít lâu, cô đã tặng tôi một tuyển tập thơ mà tôi thấy có mấy bài thơ tình của CLV và Xuân Diệu hay quá. Thì ra thơ CLV không chỉ ca ngợi Đảng, Bác, căm thù Mỹ Ngụy, loại “văn chương phải Đạo” như HNH diễu cợt mà CLV còn có những bài thơ tình tuyệt vời. Trong bài “Tình ca ban mai”, CLV viết:

Em đi như chiều đi
Gọi chim vườn bay hết
Em về tựa mai về
Rừng non xanh lộc biếc

Đặc biệt tôi rất thích bài thơ 4 câu này của ông:

Cái rét đầu mùa anh rét xa em
Đêm dài lạnh chăn chia làm hai nửa
Một đắp cho em ở vùng sóng bể
Một đắp cho mình ở phía không em

Còn Xuân Diệu, thú thực tôi không thích lắm thơ tình thời tiền chiến của ông, nhưng tôi lại rất thích bài “Biển” trong tuyển tập thơ đó, trong đó XD viết:

Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi.
Đã hôn rồi, hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt...

Trong một cuốn phê bình tiểu luận của CLV, tôi đã tò mò đọc xem CLV bình thơ XD như thế nào? CLV đã chọn 2 câu thơ độc đáo tiêu biểu của XD thì tôi thấy CLV đúng là tinh thật và ngôn ngữ thơ của XD đúng là hay thật:

Đêm hóa bếp hồng em chụm thổi
Ngày thành lụa tuyết để em thêu

Nói chung, cái hay của ngôn ngữ văn chương có hai điều chính, thứ nhất là chứa đựng ý tứ sâu xa, thứ hai là ngôn ngữ độc đáo, chỉ tác giả mới viết ra được. Với văn chương thế giới, với tiểu thuyết lừng danh của Doxtoievxki viết về chuyện giết người vừa tàn ác vừa lạ lùng, nhưng tôi lại luôn nhớ câu nhân vật chính Raskolnikov nói khi lạy cô gái điếm Sonya:

"Không phải tôi cúi lạy em mà tôi cúi lạy trước sự thống khổ của loài người"

Câu văn này không hay ở chỗ ngôn ngữ giầu hình ảnh, độc đáo, mà ở chỗ nó hàm nghĩa sâu xa chứa đựng tầm tư tưởng của Nhà Văn được coi là vĩ đại Doxtoievxki.

Một nhà văn khác tôi cũng nhớ là Pauxtovxki với cuốn “Bông hồng vàng”. Ông có đoạn văn rất hay khi viết về nghề văn:

Nghề văn là sứ mệnh… Từ "sứ mệnh" có chung một gốc với từ "tiếng gọi". Không ai hô hào con người đi làm chuyện vặt. Người ta chỉ kêu gọi con người làm tròn bổn phận và thực hiện những nhiệm vụ khó khăn. Vậy thì cái gì thôi thúc nhà văn đến với cái lao động tuyệt mỹ nhưng đôi khi cay cực kia? Trước tiên là tiếng gọi của trái tim. Tiếng gọi của lương tâm và lòng tin ở tương lai không cho phép nhà văn đích thực sống trên trái đất như một bông hoa điếc và không truyền đạt hết mình cho đồng loại tất cả cái phong phú của tư tưởng và tình cảm đang tràn ngập chính tâm hồn nhà văn”.

Pauxtovxki cũng cũng có nhiều trang văn tả cảnh tuyệt vời, tôi nhớ nhất những câu ông viết chuyện một nhà thám hiểm đã phát hiện ra Florida:

“ Đất nước ấy long lanh như một dải thắt lưng bằng kim cương mà nữ thần trinh bạch của trời và ánh sáng đã bỏ quên trên bờ biển”.
***
Còn tôi cũng là nhà văn, tôi viết thế nào? Tôi có thể tự tin viết mình là “của lạ”. Ngoài học văn sơ sài ở phổ thông, được điểm trung bình là may, ngoài hai câu, một của Anh Thơ “Thơ bây giờ phải thực, phải tình cảm, phải sâu sắc, và đặc biệt là không được giống ai”; một của CLV “Khi nào nảy ra một câu hay, tôi phải chép ngay không thì quên mất, khi cần sẽ dùng”, tôi không học một ai, một giây nào, nhưng tôi lại viết LLPB có những ông GS văn chương cả “cấp tiến” lẫn bị cho là “bảo thủ” nể phục, như Trần Đình Sử, Mai Quốc Liên, Trần Thanh Đạm. Ông Trần Đình Sử từng có thời gian dài thân thiết với tôi như NQT, lúc đầu ông bảo nhiều học trò ông là TS nhưng không bằng tôi, sau thì ông viết rõ “nể phục tôi”, riêng bài tôi viết về Lê Đạt có liên quan Vậy lý Lý thuyết thì ông bảo “mù tịt”. GS Mai Quốc Liên một lần nói với tôi: “Tôi rất phục ông bài viết về Huệ Chi”. GS Trần Thanh Đạm không nói nể phục mà ông nói tự hào khi tôi nhờ ông giới thiệu tôi vào HNV VN: “Tôi rất tự hào được là người giới thiệu người như Đông La vào HNV VN”.

Về sáng tác, CLV lần đầu đọc chùm thơ đầu tay của tôi ông cho giải thưởng luôn vì ông đang chấm thi. Nguyễn Khải một lần đọc Truyện ngắn “Lễ tưởng niệm” của tôi ông bảo cả đời viết may ra viết được vài cái như thế này; lần hai ông đọc tập truyện thiếu nhi của tôi ông bảo đọc đi lại phải đọc lại. Tôi có thể tự tin trích dẫn một đoạn văn khi nhớ về LX trong Truyện ngắn “Bài toán” của tôi từng đăng trên Báo Văn nghệ (HNV VN) nhiều người thích và được dựa vào dựng phim:

“Anh thích ngắm dòng sông cuộn chảy. Nó như một hình ảnh tượng trưng của cuộc đời. Dòng sông, dòng đời luôn miên man trôi, đầy sôi động và bí ẩn. Sài Gòn đã lên đèn, thật rực rỡ! Đã sống ở đây hai mươi năm nhưng nhiều lúc anh vẫn ngỡ ngàng vì nó. Anh bỗng nhớ đến một thành phố khác cũng tuyệt đẹp, nơi anh từng có gần một năm sinh sống, nơi mà vừa đặt chân tới, người ta đã bảo bọn anh có một vinh dự là được đến một trong những thành phố đẹp nhất thế giới: Leningrat-Saint Perterburg. Lẽ ra anh còn ở nơi ấy nhiều năm và còn có thể kiếm được nhiều tiền nữa. Phải từ biệt nó trong những ngày hè ấm áp rực rỡ của phương Bắc, với những đêm trắng trong vắt, tuyệt vời, anh rất tiếc. Giờ đây, khi ngồi trước dòng sông đầy lăn tăn sóng này, đầy ánh sáng được hắt xuống từ những bảng quảng cáo khổng lồ, đủ sắc mầu rực rỡ kia, anh vẫn còn nhớ như in những lúc đi qua những khoảnh rừng phong, dưới bóng chiều tà, mà thời gian cứ mãi chiều tà như vậy, ngước nhìn những chiếc lá non mỏng manh như làm bằng thủy tinh mầu xanh vàng, ướt đẫm ánh nắng; triệu triệu những chấm sáng nhấp nhánh như những hạt kim cương thêu trên dòng Nhê-va, rải trên Cung điện Mùa Đông, trên vòm vàng Đại Giáo đường Ixaakievxki...”

Về thơ, một lần con gái tôi hồi còn nhỏ mới biết đọc, nó đã thì thầm vào tai tôi:
“Ba ơi ba:
Anh như con thuyền lênh đênh sóng nước
Nghiêng bên nào cũng chạm phải cô đơn”.

Tôi giật mình vì là hai câu trong bài thơ dài của tôi bị tôi vò bỏ đi. Hai câu làm cô bé mới biết đọc thích nghĩa là đã chạm vào bản năng thích cái hay của loài người. Tôi đã lấy lại hai câu thơ làm thành bài 4 câu đăng dịp Tết:

Ngày đầu năm lòng chợt thấy rỗng không
Em bỏ đi đâu trong ba ngày Tết
Anh như con thuyền lênh đênh sóng nước
Nghiêng bên nào cũng chạm phải cô đơn.

Một lần chở Nhà Văn Nguyễn Bản, tôi hứng chí đọc, NB hỏi: “Thơ ai mà hay thế?”. “Thơ em đấy”. Lần khác, Nhà LLPB Đại tá Hồng Diệu gọi điện thoại: “Thơ chú mày bất tử rồi vì anh đưa bài “cô đơn” vào Từ điển”.

Cũng hồi ở Leningrat, LX, một chiều ra công viên bên “ob” thấy một cô bé mặc áo bông tròn như cái kẹo trượt tuyết trên cầu trượt, tôi nhớ đứa con gái mới 1 tuổi (chính là cô bé nhắc ở đoạn trên), nhưng lại viết 4 câu thành “nhớ em”:

Anh xa em gần nửa vòng Trái Đất
Nỗi nhớ cũng cong theo dáng Địa Cầu
Lúc anh thức là khi em ngủ
Có bao giờ nhớ và nhớ trùng nhau?

Bài thơ đăng lên cũng có nhiều cô thích, đã hỏi mượn tôi để gởi cho người yêu ở nước ngoài.
***
Tóm lại, với tiêu chí ngôn ngữ của tôi như trên thì văn của BN trong NBCT không có câu nào sáng tạo, độc đáo, tức không hay.

28-12-2025
ĐÔNG LA