Nguyễn Văn Thịnh
PHAN THANH GIẢN LÀ NGƯỜI THẾ
NÀO?
❀
LTS: Bến Tre có nhiều nhân vật
đáng là niềm tự hào chẳng những của một xứ dừa mà còn là của cả nước ta về lòng
TẬN TRUNG VỚI NƯỚC, TẬN HIẾU VỚI DÂN như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, Nguyễn
Thị Định, Ca Văn Thỉnh… Tuy nhiên trên Tạp chí Văn nghệ Hàm Luông, số Xuân Bính
Thân 2016 với bài “Xứ dừa – nơi sinh ra những con người huyền thoại” của tác
giả Đinh Hữu Quang đã đưa Phan Thanh Giản, Trương Vĩnh Ký sánh ngang tầm những
tên tuổi ấy là một việc làm lộn xòng lịch sử. Chuyện này xưa rồi nhưng lâu lâu
lại rộ lên theo dòng thời cuộc nên “người yêu sử” đành tra lại tích cũ trình
với bà con Bến Tre và bạn đọc gần xa về hai nhân vật lịch sử đầy tai tiếng này.
Dù
đã qua hơn thế kỷ, nước mất thì dân ta đã giành lại được. Chủ quyền về tay dân
ta rồi. Tội ác ngoại bang dù chồng chất cũng xếp sang một bên, lấy hiếu hòa làm
trọng. Con dân một nước dần quên đi mọi bất đồng, hợp quần cùng nhau xây dựng
cơ đồ. Tổ quốc như mẹ hiền rộng lòng tha thứ bao dung. Đào xới quá khứ để ân
oán hơn thua chỉ làm người sống bất yên, người nằm xuống không sao nhắm mắt.
Nhưng khi đã đặt ra phải bàn cho rành rẽ, nếu không sẽ biến sai thành đúng,
biến tội thành công, dẫn người đọc đi đến chỗ lẫn lộn phải trái, trắng đen, không
nhận rõ chính tà. Trong lúc giới thanh niên đang dấy lên phong trào “Cùng thắp
lên ngọn lửa yêu sử”, nhắc lại lời dặn của Bác Hồ: “Dân ta phải biết sử ta /
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam ”. Thế nhưng có một thế lực từ
sau khi nước nhà được thống nhất và hoàn toàn độc lập, dưới chiêu bài “đổi mới”
để xuyên tạc lịch sử, cứ âm mưu tái dựng những nhân vật từng hợp tác đắc lực
với ngoại bang làm hại giống nòi như những tấm gương lớn một lòng vì nước vì
dân!
Về
Phan Thanh Giản, tác hại của việc ông làm, những tư liệu lịch sử rất phong phú
còn rành rành ra đó, đặc biệt thư tịch nằm trong các kho lưu trữ ở mẫu quốc
Pháp còn phong phú hơn trong các thư khố nước bản xứ một thời vong quốc.
Có
thể lược sử con người này như sau: Lúc 30 tuổi ông là người Lục tỉnh Nam kỳ đầu tiên
đỗ Tiến sỹ duy nhất trong mười vị Tiến sỹ khoa thi Đình năm Bính Tuất (1826),
được các vua tiền triều Nguyễn rất ưu ái. Làm đại quan hơn 40 năm (1826-1867),
trải ba triều vua Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức. Ngược tới Gia Long, có thể
coi bốn triều vua này là thời kỳ hưng vượng nhất của vương triều Nguyễn – một
nhà nước phong kiến tập quyền độc lập, cai quản một quốc gia thống nhất từ Bắc
vào Nam trong điều kiện tương đối yên ổn. Thế nhưng Phan Thanh Giản lại là
người có công đầu với nước Pháp trong việc dối vua lừa dân, tích cực triệt tiêu
lực lượng kháng chiến và tinh thần quật khởi của nhân dân ta. Ngay từ buổi đầu
đã đứng về phái chủ hòa dẫn tới chủ hàng. Từ việc lược quyền vua ký hàng ước
nhục nhã 1862 để mất ba tỉnh miền Đông đến việc thông đồng với giặc, năm 1867
mở rộng cửa thành Vĩnh Long dâng nốt ba tỉnh miền Tây cho giặc, coi như xóa
sạch công lao 300 năm các triều vua chúa Nguyễn mở mang bờ cõi ở phía Nam, đẩy
nhanh quá trình xóa quốc danh Việt Nam trên bản đồ thế giới. Cái tội “mại quốc”
cả trong sử sách và bia miệng lưu truyền không là quá đáng và không sao xóa
được.
Tháng
8 năm 1963 đã có một hội nghị chuyên đề lớn với sự đồng thuận cao của những nhà
cách mạng và văn hóa, học giả lớn như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp,
Trần Văn Giàu, Trần Huy Liệu, Nguyễn Khánh Toàn, Đào Duy Anh, Ca Văn Thỉnh…
đánh giá tổng quát: “Để mất nước, các vua nhà Nguyễn là chính phạm, các triều
thần trong đó có Phan là đồng phạm. Riêng trong sự kiện hai lần dâng thành giao
đất cho giặc để mất cả Nam
kỳ thì Phan là chính phạm bởi tính bạc nhược, hèn nhát, thỏa hiệp với giặc. Chủ
hòa thực chất là chủ nghĩa đầu hàng – Đó là bản chất của giai cấp phong kiến
cầm quyền lúc suy vi”. Thiết nghĩ đó là sự đánh giá rất độ lượng, có thể tình
đúng mức do yêu cầu lịch sử lúc đó.
Người
ta quên đi câu nói của nhà cách mạng tiền bối cũng là nhà văn hóa khả kính Phạm
Văn Đồng: “Giá như triều đình lúc bấy giờ không phải ở trong tay bọn vua quan
nhà Nguyễn phản bội và đầu hàng, mà ở trong tay những người kế tục của cuộc
khởi nghĩa Tây Sơn, kế tục sự nghiệp yêu nước và anh dũng của Nguyễn Huệ, thì
phong trào kháng Pháp lúc bấy giờ ở Nam bộ chắc còn mạnh mẽ hơn nhiều” mà chỉ
lợi dụng câu nói của ông Võ Văn Kiệt: “Có hàng trăm cách yêu nước khác nhau.
Đừng bắt Phan Thanh Giản yêu nước theo cách của Trương Định và ngược lại”. Nhận
định trái chiều ấy của một nhà lãnh đạo quốc gia không phải là vô hại cho văn
hóa nước nhà! Số người cơ hội vội cho đúc tượng đồng đại quan Phan đưa lại vào
đền thờ các vị thánh sư (!), bày ra giữa sân trường cho con trẻ học (!) và còn
mưu dựng tượng đại quan đứng nghênh ngang trên giải đất thấm đẫm máu xương các
anh hùng nghĩa sỹ mà ông đã lập mưu hiến dâng cho giặc!
Bản
chất của con người Phan Thanh Giản đã bị nhà đại ái quốc Phan Bội Châu phanh
phui: “Gan dê lợn mà mưu chuột cáo”! Thật vậy, chỉ sau bốn năm quân Pháp với
lực lượng ít ỏi đánh chiếm Trung kỳ không được đành quay vào đánh chiếm mấy
thành lũy phía Nam .
Giữa lúc bị mắc kẹt ở mặt trận nam Trung Hoa, tư lệnh quân viễn chinh Pháp
Bonard dùng kế hoãn binh, cho người ra Huế yêu cầu cử phái đoàn vào Nam hội
nghị với yêu cầu bàn chuyện giảng hòa và Nam triều bồi thường chiến phí. Trong
tình thế chính triều thối nát, loạn lạc khắp nơi, nhân tâm ly tán lại thêm sự
bành trướng của giáo hội Thiên Chúa cùng với đám vua quan triều đình bạc nhược
cầu an mà Tự Đức là ông vua nhu nhược chỉ quẩn quanh với mấy vần thơ phú và
chăm lo việc xây lăng tẩm cho mình, ngay từ đầu đã chao đảo nghiêng về phái chủ
hòa do Phan Thanh Giản cầm đầu. Nên khi quân Pháp yêu cầu nghị hòa thì vua sung
cho Phan chức “Nghị hòa chánh sứ” cùng Binh bộ thượng thư Lâm Duy Hiệp làm phó
sứ.
Trước
khi đi thương nghị, Phan-Lâm được vua Tự Đức ban ngự tửu và tuyên chỉ: “Phàm
mọi chi tiết như thù đáp giao ước về việc nghị hòa cần phải cẩn thận. Thêm nữa
nên cố gắng đạt đến việc đình chiến, ngõ hầu xứng đáng với nhiệm vụ khanh được
giao phó”. Nhà vua gửi gắm cả vận mệnh quốc gia với mệnh đế vương của mình vào
tay viên cận thần già tin cẩn: “Đất nước hôm nay đang bị dồn vào ngõ cụt khó
khăn. Muốn đưa nó thoát ra, chỉ có bàn tay của những người tôi trung tài năng
tận tụy. Có hai điểm cơ bản các khanh cần luôn ghi nhớ: Vấn đề nhường đất và
vấn đề hành đạo Cơ đốc giáo. Về hai điểm quan trọng hàng đầu ấy, các khanh đừng
nhẹ dạ trong việc ký kết. Đừng vì một sự yếu đuối hay vội vàng nào đó mà làm
thiệt hại đến vận mệnh và danh dự của cả giang san đang được giao phó vào tay
các khanh. Các khanh phải xác định đinh ninh như vậy và dù bất cứ vì lý do nào
và bất cứ giá nào cũng đừng đi trệch cái chương trình đã vạch. Các khanh đi! Và
cầu cho những lời ước nguyện của Trẫm luôn luôn theo bước các khanh. Cầu mong
cho các khanh được sớm trở về đầy vinh quang vì đã bảo vệ danh dự của non sông
và giữ gìn được sự vẹn tròn lãnh thổ. Đây là lời cầu chúc duy nhất của Trẫm cho
các khanh trước lúc lên đường”!
Một
tháng sau, bầy tôi trở về với bản hòa ước trong tay gồm 12 điều khoản, trong đó
khoản 3 ghi rõ ba tỉnh miền Đông là Biên Hòa, Gia Định, Định tường và đảo Côn
Lôn được nhượng đứt cho nước Pháp cùng những điều khoản bồi thường bất công rất
chi là nhục nhã! Ngay lập tức nhân dân cả nước phẫn nộ kết tội “Phan-Lâm mại
quốc” và các phong trào yêu nước tiếp nhau nổi lên chống Pháp đều coi việc làm
của Phan một như vết nhơ lịch sử! Người phương Nam đương thời để lại câu ca dao
lưu truyền trong dân chúng: “Thà thua xuống láng xuống bưng / Kẻo ra đầu giặc
lỗi chung quần thần”. Vua Tự Đức than trời: “Ôi! Con dân mấy triệu, tội gì mà
khổ thế? Thật là đau lòng. Hai người không những chỉ là tội nhân của triều đình
mà còn là tội nhân muôn đời của hậu thế”!
Vậy
là chính những người đương thời từ triều đình tới thần dân đều đã công khai kết
tội Phan-Lâm bán nước! Chẳng thể gọi là bị ép oan để bày chuyện chiêu tuyết cho
con người ấy.
Trước
sự đã rồi, vua và triều thần đành vớt vát bằng việc giao cho Phan cai quản Vĩnh
Long và Lâm cai quản Khánh Thuận ở hai đầu giáp ranh ba tỉnh miền Đông để có
điều kiện giao tiếp với người Pháp ở Gia Định, ngõ hầu bắc mối giao lưu thân
thiện Đông-Tây, tiến tới có thể chuộc được lỗi lầm. Phan lại được vua giao làm
Chánh sứ qua Y-pha-nho và Pháp xin chuộc lại những gì đã mất với lời ủy thác:
“Đất ba tỉnh này là xương máu của dân, chuộc lại là chuộc tội cho ta để cho dân
thỏa lòng nguyện vọng”. Phan hứa mập mờ: “Nếu có thể đem đổi ngói lấy vàng thì
lúc nào thần cũng sẵn sàng”! Sau nửa năm lênh đênh trên biển, chầu trực Pháp
hoàng Napoléon III, dâng nhiều cống vật mà vẫn trở về trắng tay và bộc lộ ra
tâm địa của viên quan bạc nhược trước sức mạnh của quân cướp nước: “Sự giàu có,
mạnh mẽ và các việc khôn khéo của nước Pháp nói ra không hết”! Thì ra với Phan
Thanh Giản “ngói” đây là mảnh đất ba trăm năm nhân dân ta cùng tiền triều nhà
Nguyễn đổ bao mồ hôi xương máu dày công khai phá và “vàng” đây là sự yên ổn để
vua tôi ngồi yên ghế vị mặc cho dân chúng lâm vào cảnh nô lệ điêu linh! Vì việc
thương lượng với Pháp xin hồi lại đất không thành Phan Thanh Giản mới bị vua Tự
Đức phạt tội “cách lưu”!
Năm
1865, trong khi đối phương “sắp đặt trước rất chu đáo” mà quan Tổng đốc Vĩnh
Long đã mật tâu với triều đình về tình hình nguy ngập ở ba tỉnh miền Tây và xin
cử một người có đủ “uy tín” với Pháp để trấn thủ nơi đây. Vua Tự Đức phục chức
cho Phan Thanh Giản và sung Kinh lược sứ trấn ba tỉnh miền Tây với lời căn dặn:
“Không khuất phục tình hình một cách thụ động!”. Suốt mấy năm được giao trấn
thủ tiền phòng trong tình thế thịt treo trước miệng hổ vuốt mèo mà Phan không
tỏ ra ăn năn chuộc lỗi tìm cách gỡ ra thế bí, trái lại tích cực hỗ trợ cho quân
chiếm đóng mau chóng bình định mảnh đất phương Nam bằng những việc làm mà anh
linh tiên tổ không thể dung tha như thẳng tay đàn áp và khống chế những thủ
lĩnh nghĩa quân bất phục tùng thi hành hiệp ước! Chẳng những chểnh mảng việc
quân mà ông ta còn tích cực hợp tác với giặc đàn áp chế ngự phong trào kháng
Pháp. Một mặt chỉ điểm cho giặc về những người yêu nước, một mặt dâng sớ về
triều xin trị tội, thuyên chuyển khỏi nơi cứ địa hoặc cách chức những chủ soái
nghĩa quân như Trương Định, Trần Văn Thành, Trịnh Quang Nghị, Võ Duy Dương…
đồng thời bắn tin cho giặc: “Bản chức sẽ không ngăn cản sự xâm lược bằng một sự
kháng cự mà chúng tôi hiểu là vô ích” và nói hoạch toẹt ra: “Nếu quý quốc lấn
tới, quả nhân không chống cự”! Đến khi thấy đoàn tầu thuyền nhà binh Pháp đậu
kín trước thành Vĩnh Long “là một thành khá kiên cố, địa thế rất dễ phòng thủ”
và tướng giặc cho người mang thơ nói toạc ra ý họ “quyết định chiếm ba tỉnh
miền Tây Nam kỳ vì lý do các quan quân triều đình ở đây ủng hộ phong trào chống
Pháp”. Phan ra lệnh không kháng cự và dẫn đám thuộc hạ xuống tầu trách yêu giặc
“vin cớ nhỏ mọn mà làm tổn thương đại nghĩa” (!) và ngọt nhạt đẩy đưa: “Tôi có
quyền giữ đất chớ không có quyền giao đất. Xin cho tôi hỏi lại ý kiến triều
đình”! Và khi thầy trò trở lên bờ thì lũ sài lang kia thừa dịp kéo vào chiếm
thành mà không tốn một viên đạn! Thế mà tin phao lên quan Kinh lược sứ bị giặc
lừa cũng lọt được vào tai người nghe mới lạ! Sau đó quan Khâm sai viết công thư
– thực chất là thư dụ hàng như ông đã từng làm mấy lần bất thành với Trương
Định, gửi các quan tướng giữ thành An Giang và Hà Tiên với lời lẽ không tìm
thấy ở đâu trong lịch sử: “…Người nào thuận theo lòng trời thì còn, người nào
nghịch theo lòng trời thì chết mất. Trời đã cho con người có lý trí. Con người
phải sống tùy theo ý chí ấy. Chúng ta yếu ớt không thể chống nổi người
Phú-lang-sa. Người Phú-lang-sa muốn đến đâu cũng đặng. Không người nào có thể
chống lại. Các quan văn cũng như các tướng võ hãy bẻ gãy giáo gươm và giao
thành trì khỏi chống lại”! Ông ta biện lẽ: “Bản chức tùy theo thiên ý mà tránh
đỡ giùm dân đen tai họa rớt trên đầu họ” và khuyên dụ dân hãy tin vào giặc vì
“những người này chỉ đáng sợ trong lúc chiến tranh mà thôi”! Đó là sự dối trời
lừa dân có một không hai. Thế là chỉ trong năm ngày cả ba tỉnh thành hừng hực
khí thế chống ngoại xâm bỗng lọt vào tay giặc. Viên Đại tá Thomazi hoan hỷ viết
trong nhật ký: “Đến tháng 6/1867, binh lính ta đi chơi một bữa thế là xong hết
cuộc chinh phục toàn xứ Nam
kỳ, công cuộc khó nhọc bắt đầu từ năm 1858”. Có thật là viên quan già lọc lõi
này bị lừa chăng? Để tránh họa binh đao chết chóc lại đẩy dân đen con đỏ xuống
hầm tai họa thì làm sao sống được? Khi giặc đã hoàn toàn bội ước mà quan Khâm
lược chẳng những đã ngoan ngoãn giao thành, còn lại lệnh cho thuộc hạ mở rộng
cửa kho và ngân khố lấy lúa gạo và tiền nộp thêm cho quân phản phúc gọi là
thanh toán bồi thường năm năm chiến phí theo cái gọi là hòa ước 1862! Người học
chữ thánh hiền nào chẳng biết lời dạy của Thánh nho: “Chữ tín mà bị ép thì
không cần giữ”!
Bốn
tháng sau, ngày 21/10/1867 vua Tự Đức ra chỉ dụ: “Đến như Phan Thanh Giản thì
thủy chung đều quanh quất, lời nói không theo được việc làm, đem học vấn danh
vọng một đời trút sạch ra bể Đông, thật là táng tận lương tâm, quá đỗi phụ ơn.
Mặc dù đã lấy cái chết tự phạt nhưng cũng chưa đủ đền bù cho trách nhiệm nên
Trẫm đem giao cả cho Tôn nhân Phủ và đình thần xem xét công tội để bàn định
việc xử trí”. Và bản án ngày 17/4/1868 của các triều thần nghị xử rằng: “ Viên
Kinh lược sứ cũ là Phan Thanh Giản khi việc xảy ra rồi tự thấy nghĩa vụ không
thể sống được đành tìm lấy một cái chết, còn thì ngoài ra chỉ thấy muối mặt với
cái sống thừa! Đối với trách nhiệm giữ gìn đất đai mà lại ươn hèn đến thế, sẽ
phải phân biệt xử trị để răn khí tiết bề tôi và để nhân tâm có bề phấn chấn mới
phải. Trước hết cách chức và truy thâu lại phẩm hàm và ghép vào tội xử trảm
giam hậu”. Cùng năm đó vua Tự Đức bút phê “truy đoạt chức tước, phẩm hàm và đục
bia Tiến sỹ, để lại muôn đời cái án trảm hậu” với Phan Thanh Giản!
Tuy
nhiên bên sự đánh giá chính thống như thế vẫn có những thế lực bênh vực thậm
chí còn bốc thơm đơm đặt đủ điều cho nên con người ông, việc làm của ông, cái
chết của ông vẫn là đề tài cho hậu thế tranh cãi dài dài. Vậy những ý kiến trái
chiều kia có tự bao giờ và xuất phát từ đâu? Thật ra khi người Pháp đem quân
xâm chiếm Việt Nam thì lực lượng họ không phải là quá mạnh, chiến trường xa lại
rải quân phân tán trên địa bàn rất rộng mà nội tình vương triều Paris cũng lắm
chuyện rối ren. Thế nhưng bối cảnh xã hội Việt Nam lúc đó cực kỳ bê bối. Triều
đình thì hủ bại. Dù khí thế yêu nước của dân chúng rất cao nhưng không có chỗ
dựa và không hợp thành một liên minh chặt chẽ. Trong khi bộ máy chiến tranh của
Pháp dày dặn kinh nghiệm đối phó, dưới bóng cây Thánh giá càng dễ lợi dụng
những yếu tố xã hội và con người ở các quốc gia xa xôi lạc hậu thì những người
như Phan Thanh Giản là tác nhân thúc đẩy mau chóng quá trình mất nước, tất
nhiên lọt vào tầm ngắm để đội quân viễn chinh ấy khai thác và điều khiển bằng
đủ những mưu mô thâm trầm xảo quyệt. Cuộc chiến xâm lược xứ An Nam xa xôi không
được triều đình Paris
tập trung ủng hộ bởi quan ngại chông gai chưa chắc thắng nhưng lại sớm thu được
thắng lợi trọn vẹn mà ít hao người tốn của. Đương nhiên những người như Phan
được coi như có công đầu với đội quân viễn chinh xâm lược Pháp. Khi Phan chưa
chết, Bộ chỉ huy quân viễn chinh cử một đoàn sỹ quan và thầy thuốc, thầy tu tới
chăm sóc và khi Phan vĩnh biệt cõi đời này họ đã cho chiếc tàu đồng chở xác,
kèm một đội tiêu binh và lính kèn đưa về tận nơi an táng theo nghi thức chiến
sỹ trận vong. Đồng thời gửi thư tới gia đình với những lời chia buồn thống
thiết: “Nơi triều đình trừ một mình ngài thấy rõ đâu là ích nước lợi dân… Người
Pháp quốc hằng bền một lòng tôn trọng quan lớn Phan Thanh Giản và gia đình của
ngài. Bổn trấn hứa sẽ hết lòng bảo bọc cho con cháu ngài hoặc muốn ra mà giúp
việc nhà nước hay là muốn tước lộc chi thì bổn trấn cũng vui lòng ban ơn theo
như ý”. Và người Pháp đã làm đúng như lời hứa. Ngay cả khi hai con ông là Phan
Liêm và Phan Tôn có cầm súng chống Pháp một thời gian nhưng thua trận và bị
bắt, người Pháp cũng rộng lòng tha và giao cho triều đình An Nam trọng dụng.
Tất nhiên lại cầm binh đi đánh những người Việt Nam “nổi loạn”! Tên tuổi ba cha con
họ Phan đều được nhà nước thực dân – tất nhiên là cả chính quyền bản xứ lệ
thuộc “bảo tiết tôn vinh” như những tấm gương về lòng yêu nước thương nòi! Dù
cho dân chúng bất bình nhưng chính sử triều Nguyễn bù nhìn chẳng dám nói đó là
sự sỉ nhục đối với lịch sử nước nhà! Trải hàng trăm năm thân phận “thuộc quốc
phiên bang” mấy ai được săm soi góc cạnh ngọn ngành? Sự ngộ nhận đã thành nếp
nghĩ, chỉnh sửa lại không là điều dễ! Phải chăng đó là tàn dư của văn hóa thực
dân?
Giáo
sư Trần Văn Giàu – nhà trí thức cách mạng nổi tiếng ở Nam kỳ, nhà sử học bậc
thầy của nhiều thế hệ và là nhân vật quan trọng tại Hội nghị sử học 1963 năm
ấy, khi ở tuổi sắp tròn trăm, nghe được những điều rối rắm, ông cho đăng lại
mấy bài nghiên cứu “Luận về những nguyên nhân mất nước về tay Pháp” và không
khỏi phẫn nộ trước việc ai đó bốc thơm Phan, đã khuyên: “Đừng bươi ra làm chi
nữa”!
Vậy
thì ai đã phục chức cho Phan? Tự Đức chết năm 1883, sau thời kỳ u ám “tứ nguyệt
tam ngôi”, hoàng tử Ưng Lịch 13 tuổi lên ngôi đế hiệu Hàm Nghi, mưu chống Pháp.
Kinh thành Huế thất thủ, vua và triều thần chạy ra Quảng Trị và ra hịch Cần
vương. Dưới sự bảo trợ của người Pháp, hoàng tử Chánh Mông lên ngôi với đế hiệu
Đồng Khánh. Tân vương vốn sính Tây được coi như một “sản phẩm Pháp tại Việt Nam ”.
Quả nhiên Đồng Khánh là ông vua đầu tiên công nhận nền bảo hộ của nhà nước Đại
Pháp. Để được lòng “nước mẹ”, tân vương ra sắc chỉ khôi phục hàm cũ là Hiệp tá
Đại học sỹ cho Phan Thanh Giản sau những lời khen: “Phẩm vọng ngươi cao như núi
Thái Sơn, văn chương ngươi như mây bay nước chảy, được xưng tụng cao nhất một
đời”. Tất nhiên bia được dựng lại sau hai thập niên bị đạp đổ! Đồng Khánh làm
vua được ba năm thì chết. Qua hai triều vua Thành Thái và Duy Tân, người Pháp
không “dụ” được. Năm 1916, sau cuộc nổi dậy do Hội “Việt Nam Quang Phục” phát
động ở năm tỉnh Trung kỳ (Nam, Ngãi, Huế, Trị, Bình) thất bại, bốn nhà chí sỹ
là Trần Cao Vân, Thái Phiên, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu bị xử chém, vua
Duy Tân, Thành Thái cùng số phận với vua Hàm Nghi, bị đi đày biệt xứ. Chính
quyền bảo hộ đưa Khải Định là con vua Đồng Khánh lên ngôi. Năm 1924, vua Khải
Định sắc cho quan dân tỉnh Thủ Dầu Một thờ phụng Phan công như “thần hộ quốc an
dân”, ý để thưởng công đã giao ba tỉnh miền Đông cho Pháp! Kế đến năm 1933, con
Khải Định là vua Bảo Đại cũng sắc cho quan dân tỉnh Vĩnh Long thờ phụng Phan
công nội dung như thế, ý để thưởng công đã giao nốt ba tỉnh miền Tây cho Pháp!
Việc làm ấy có nghĩa là triều Nguyễn hài lòng đã hoàn tất sứ mạng lịch sử chí
ít cũng là giao toàn bộ xứ Nam
kỳ vào tay người Pháp! Vậy thì thực chất việc phục chức và tôn vinh Phan Thanh
Giản chính là ý đồ của chủ nghĩa thực dân. Điều cần lưu ý bạn đọc là danh thần
Nguyễn Trãi được vua Lê Thánh Tôn – là một trong số hiếm hoi mấy vị vua anh
minh nhất trong lịch sử ngàn năm phong kiến Việt Nam chủ vai chiêu tuyết. Trái lại
việc chiêu tuyết và khôi phục chức sắc cho Phan được ba triều vua tồi tệ nhất
trong lịch sử 13 đời vua triều Nguyễn đã bị chính Hội nghị sử học năm 2008 loại
ra ngoài vòng lịch sử thì mọi việc chiêu tuyết cho Phan Thanh Giản vào mọi thời
điểm đương nhiên nào có giá trị gì.
Thực
ra càng xem xét kỹ tư liệu lịch sử càng nhận ra con người này rất phức tạp và
có nhiều khuất tất.
Phan
là người không có bản lĩnh cầm quân: Triều thần đã tổng luận: Về tài thì hơi
kém! Lúc đi đánh giặc thường bỏ chạy. Từng 5 lần bị giáng cấp, 2 lần bị cách
lưu. Vậy khi gặp giặc mạnh chưa đánh đã chủ hòa là điều không lạ.
Dù
biết rõ âm mưu của giặc được đằng chân sẽ lấn lên đằng đầu mà ở cương vị lãnh
đạo tối cao ông liên tiếp đi từ thỏa hiệp này tới thỏa hiệp khác thì việc đầu
hàng là hậu quả tất nhiên thôi. Giới thiệu với bạn đọc vài tư liệu lưu trong
thư khố Pháp cho thấy mối quan hệ mờ ám giữa viên thủ lĩnh quân đội triều đình
Huế này với các tướng lĩnh quân viễn chinh xâm lược Pháp xảo trá thâm sâu tới
mức độ nào: Thư gửi cho Hải quân Trung tướng Bonard, Phan Khâm sai viết:
“Trương Định đã đóng quân “vi pháp”(!) trên đất Tân Hòa (Gò Công), tự đặt vào
vị thế chống lại chính phủ An Nam. Y đã tự xưng là “Tổng tư lệnh nghĩa quân
dũng cảm”. Ngày 18 tháng này (5/2/1863) có tên Quang do y sai đem tới một văn
thơ yêu cầu tôi tường lãm (Nội dung thơ bày tỏ sự phẫn nộ và thất vọng của nhân
dân về hòa ước 1862 và tuyên bố: Thà chết chứ không chịu làm tôi tớ cho giặc!
Kêu gọi tất cả các quan chức tham gia nghĩa quân và mộ binh khắp các nơi hoặc
đóng góp bằng công của vào diệt giặc. Mỗi lần đụng độ với giặc cả hai bên đều
có quân chết và bị thương, vì vậy chúng ta không sợ địch - NV). Quân đội thuộc
quyền các hạ mà còn chưa diệt trừ được tên ấy thì lòng kiêu hãnh của y cứ gia
tăng. Tôi đã cho bắt giữ tên Quang và giam giữ ngặt để đưa ra xét xử. Tôi xin
đính theo mật văn này và bản Tuyên ngôn đã nhận được để các hạ tri tường”! Và
trước lúc biết mình không thể nào sống được, viên đại thần Nam
triều thổ lộ hết tâm can: Ca ngợi “tình thân ái giữa các dân tộc bên hai bờ đại
dương”! Ca ngợi Hải quân Trung tướng Bonard với “những võ công hiển hách chinh
phục xứ này (!) là người đồng chung một ý tưởng từ lâu (!) về vấn đề lấy xứ Nam kỳ
làm thực dân địa”! “Trong 5 năm sau này (1862-1867) những đêm nằm mơ tôi thấy
người ấy (tướng Bonard – người ký chấp nhận hàng ước của Phan 1862) đã đến gần
tôi” và “rất tiếc là người đã ra đi trước, bây giờ tử thần sẽ cho hai ta gặp
mặt trong sự vĩnh cửu, sẽ sung sướng vô biên giới và tình huynh đệ không thể
tan rã được”! Ca ngợi Đề đốc Rigault De Genouilly “có tầm nhìn xa biết chiếm
lấy Sài Gòn để xây dựng thành trung tâm bền bỉ lâu dài”! Ca ngợi Đề đốc
Lagrandière là người “tạo lập ra thuộc địa Nam kỳ”!... Rõ ràng rằng chủ mưu
đầu hàng đã thành ý thức chủ đạo trong viên đại thần lá mặt lá trái này. Vậy
thì con người ấy khác chi là “tay trong” của giặc?! Cớ sao người ta bày mọi mưu
kế để bốc thơm Phan về lòng trung quân ái quốc?!
Phan
có là người liêm chính thật không? Sử liệu ghi sau khi ký hòa ước 1862, dù bị
quở trách nhưng nhà vua vẫn sai ông lãnh Thống đốc Vĩnh Long để tiện việc giao
lưu với Pháp mong chuộc lại ba tỉnh miền Đông vừa mất. Cũng trong năm này ông
Tiến sỹ Phan Hiển Đạo làm Đốc học tỉnh Định Tường có ra hợp tác với giặc vì mơ
hồ tin vào “tình thân ái giữa các dân tộc bên hai bờ đại dương” của quan trên.
Nhưng sau nhận ra mình lầm lỡ nên lánh qua tỉnh Vĩnh Long (vì Định Tường không
còn thuộc Nam
triều nữa). Ông đưa thơ xin diện kiến trình rõ sự tình, bị Phan xổ toẹt với lời
phê độc: “Thất thân chi nữ, hà dĩ vi trinh” (Con gái đã bị thất thân, sao cho
là trinh được). Ông Tiến sỹ Đạo hổ ngươi trở về quê Mỹ Tho, viết cáo trạng tạ
lỗi với dân chúng rồi uống thuốc độc mà chết! Trong khi quan Khâm lược dấu kín
nỗi lòng tới lúc lâm chung mới tỏ chân tình với viên quan giặc Ansart rằng ông
dành dụm được mấy ngàn quan (1.000 quan lúc bấy giờ tương đương với 700 lạng
bạc) và mong muốn ký thác cho các quan Tây đưa mấy đứa cháu lên Sài Gòn học
thành tài! Vậy Phan có thanh bần như đời ca tụng?
Cho
đến cái chết của quan Khâm sai đại thần thật ra cũng không bi tráng như nhiều
người lầm tưởng. Ông ta biết khi đặt bút ký chấp nhận yêu sách của giặc là xóa
sạch đi công lao 300 năm khai phá của các bậc tiên vương tiên chúa thật “đáng
tội chết” rồi. Dù nói rằng “lá cờ ba sắc không thể phất phới bay trên một thành
lũy mà nơi ấy Phan Thanh Giản còn sống” (!) nhưng không như Hoàng Diệu treo cổ
chết ngay trong thành Hà Nội, Võ Duy Ninh tự thương chết ngay trước thành Gia
Định, Nguyễn Tri Phương quyết chết theo Hà thành thất thủ. Trái lại, Phan thủng
thẳng ra sống tại một ngôi nhà tranh ở ngoại thành Vĩnh Long, tỉnh táo sắp xếp
mọi việc chu đáo. Ông gởi một lá sớ lên vua Tự Đức: “Việc cõi Nam kỳ một chốc
đến thế này, không thể ngăn cản nổi. Nghĩ tội đáng chết, không dám sống cẩu thả
để cái nhục lại cho Quân phụ. Đức Hoàng thượng rộng xét xưa nay, biết rõ trị
loạn…” và gởi thư cho các tướng giặc để trần tình với lời lẽ rất chi là hoan
hỷ. Ông cũng ngỏ lòng với cha Marc là muốn theo đạo Thiên Chúa! Ông căn dặn các
con hãy qui phục nước Pháp, sống hòa bình với họ và chăm chỉ cần lao, ráng học
hỏi cho bằng người Tây Âu để phò vua giúp nước may ra sau này làm vẻ vang cho
Tổ quốc! Nghe ngóng động tĩnh từ triều đình vẫn bặt tin. Biết rằng tội kia
không thoát chết! Gần một tháng sau thì ông “tuyệt cốc” (nhịn ăn). Nửa tháng
không chết, ông uống á phiện pha với dấm thanh. Trong thời gian ấy nhiều quan
lại cả tây và ta đến thăm, cho thuốc ông một mực từ chối. Theo thơ tường trình
của Thiếu tá Ansart gởi lên Tổng tham mưu trưởng kể về những giờ cuối đời của
ông quan này: “Lúc các ông quan (Nam triều) còn lại ở Vĩnh Long, ông đã khăng
khăng từ chối mọi thứ thuốc men, chúng tôi đã phải gần như ép ông và lợi dụng
một trong những lúc ông ngất đi mới khiến ông nuốt được một chút giải độc.
Nhưng ngay khi ông được biết là các quan đã bỏ đi và chỉ còn có mình ông với
chúng tôi (ba sỹ quan Pháp) thì ông đã thuận mọi điều. Hai lần ông hỏi cha
Marc: Tôi có thoát được chăng? Than ôi, khi đó đã quá muộn”! Cái chết nào cũng
bi. Chết bình thường thì thương. Chết vì nghĩa thì tráng. Chết có toan tính thì
hài!
Có
người bày đặt chuyện cụ Đồ Chiểu đã làm thơ khóc thương ông quan già họ Phan
này rất chi là thống thiết. Thực ra thì trái lại. Tuần báo Văn nghệ TPHCM số
55, Thứ năm ngày 26/3/2009, nhà giáo Phạm Thị Hảo, giảng viên môn Văn học cổ
Trung Quốc tại Đại học Sư phạm TPHCM đã có bài: “Viết về Phan Thanh Giản, nhà
thơ Nguyễn Đình Chiểu đã dùng bút pháp Xuân Thu”, giảng giải rành mạch ý tứ
thâm sâu của cách “đối” thơ Hán–Nôm là như thế nào. Những câu thơ ý tại ngôn
ngoại, tưởng khen mà chê, tưởng thương mà giận, tưởng bi mà hài. Đặc biệt hai
câu kết: “Minh tinh chín chữ lòng son tạc/ Trời đất từ nay mặc gió thu” ngụ ý
là: Sáu tỉnh phương Nam
từ nay mặc gió Tây tàn phá. Tấm liễng Phan nhân để lại có 11 chữ nhưng cụ Đồ
Chiểu cố ý ghi 9 chữ là rất thâm nho, như lời mắng nhiếc nặng nề: Phan chết đi
chỉ thành quỷ chứ không thể thành thần được!
Tự
Đức đã giãi lòng trong thơ: “Khí dân triều trữ cữu – Mại quốc thế gian bình –
Sử ngả chung thân điếm – Hà nhan nhập miếu đình” (Bỏ dân ta nhận lỗi – Bán nước
thế gian bình – Mai này ta nằm xuống – Mặt nào nhìn tổ tông)! Bởi nhà vua gửi
vàng không chọn mặt! Sao đại sự cứ dựa vào kẻ “mại quốc cầu vinh”?! Đấy là mối
oan nghiệt của người cầm quyền quốc gia tối thượng khi đã đặt quyền lợi của
quốc gia dân tộc dưới cái bệ ngọc ngai vàng thì không thể nhận ra kẻ ngay gian,
chính tà, sẽ là rước họa cho mình, cho nước!
Bây
giờ chẳng lẽ con cháu những người Việt Nam trải hàng trăm năm đấu tranh
quyết liệt tổn hao bao nhiêu xương máu mới giành được độc lập thống nhất non
sông dựng lại con người ấy để lưu danh muôn thuở!
Ông
bà ta nói: Làm thầy phải chính tâm mới dạy được người. Làm quan phải nghĩa khí
mới che chở được cho dân. Mấy người không có được hai điều ấy thì có gì vinh để
tôn lên? Người chết rồi là thoát tục, muốn được siêu thoát. Chỉ người sống mới
ham hố ganh đua. Coi chừng càng làm khổ người ta, nằm xuống rồi mà mắt không
nhắm được!
Trong
bài viết của mình, tác giả Đinh Hữu Quang trích dẫn lời danh nhân Hoàng Bình
Trọng: “Dùng Chí luyện Thơ, dùng Thơ luyện Chí/ Chí truyền Thơ lay động đất
trời”, khác nào sự mai mỉa với Phan đại nhân thi sỹ?!
Đừng
để bị lôi kéo vào ý đồ thâm hiểm của một thế lực bất minh. Họ không từ thủ đoạn
nào tô son trát phấn bốc thơm con người ấy, kể cả dưới hình thức văn học nghệ
thuật để đánh lạc hướng dư luận, tạo ra những cái gọi là “góc khuất đáng
thương” làm cho công chúng từ cảm thương đến có cảm tình mà dễ dãi quên đi
những tỳ vết đã hằn sâu trong lịch sử.
Vào
giữa thế kỷ XIX, lũ giặc mắt xanh mũi lõ vượt trùng dương nửa vòng trái đất
trên chục chiếc tàu đồng với mấy ngàn quân qua cái xứ sở nhiệt đới khắc nghiệt
này, vũ khí là mấy khẩu đại bác cổ lỗ, vài ngàn tay súng kíp chọi với đội quân
nón mê chân đất, gươm giáo dao gậy cầm tay mà có cả rừng người sẵn sàng chết
không để nước mất vào tay giặc. Vậy mà có những ông vua, ông quan run rẩy không
dám cầm gươm, chỉ biết nhìn trước ngó sau mà đái trong quần thì làm sao không
mất nước! Hãy nhìn sức giặc hiện nay: Chỉ một bước chân đã vào tận ngõ. Sân
trước vườn sau, trên rừng dưới biển, ba bề bốn bên đâu đâu cũng thấy lũ đầu
trâu mặt ngựa. Toàn bộ đất đai, núi rừng, biển đảo của ta đều nằm trong tầm phủ
gần xa của đủ các loại vũ khí tối tân. Tàu thuyền đặc biển. Máy bay đầy trời.
Điều này hiển nhiên ai cũng biết. Thế mà không ít người nhân danh cái gọi là
“đổi mới” thi nhau trổ tài điêu toa quay quắt cố dựng dậy một lũ vua quan hèn
nhát, bạc nhược, phản phúc, dối trời lừa dân như Phan Thanh Giản nhằm dạy lớp
trẻ điều gì? Trong khi nước non đang cần những con người trung dũng!
Những ngày đầu
xuân Bính Thân 2016
Tuần báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí
Minh
Số 392 Thứ năm ngày 10 tháng 3
năm 2016
***
Các trích dẫn trong bài này lấy từ cuốn
“CHÂN
DUNG PHAN THANH GIẢN” của
tác
giả Nguyễn Duy Oanh bút hiệu Nguyễn Duy
-
Xuất bản tại Sài Gòn 1974 (Tủ sách Sử học –
Bộ
Văn hóa giáo dục và Thanh niên Cộng hòa VN)