MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ ĐẠO PHẬT NHÂN ĐỌC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VĂN HỌC “LOẠI HÌNH TÁC PHẨM THIỀN UYỂN TẬP ANH” CỦA NGUYỄN HỮU SƠN
Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng “to gan” dịch lại Tâm kinh, vì ông cho rằng “vị tổ sư biên tập Tâm kinh đã không đủ khéo léo trong khi sử dụng ngôn từ; do đó, đã gây ra nhiều hiểu lầm qua các thời đại”. Nhưng khi ông dịch đã có mấy người phê phán ông dịch sai; tôi thấy ông sai do ông chưa thực sự hiểu chữ “Sắc”, “Không” trong Bát nhã Tâm kinh.
Còn tôi, giờ coi lại, tôi thực sự ngạc nhiên về chính mình, năm 2008, khi tôi chưa đọc bất cứ một tài liệu nào về Đạo Phật, tôi cũng chưa biết đến ông Thích Nhất Hạnh, giờ tôi cũng không nhớ mình đã tra cứu ở đâu, nhưng chỉ sau mấy ngày, tôi đã viết một bài về cuốn sách mà bạn tôi, Nguyễn Hữu Sơn, tặng. Bài viết như một công trình nghiên cứu về Đạo Phật, trong đó có bàn chuyện Sắc và Không. Nhà Văn Vũ Ngọc Tiến, từng rất thân thiết với tôi, nói ông từng mấy năm nghiên cứu Đạo Phật để viết một tiểu thuyết, nhưng đọc bài của Đông La vẫn bất ngờ, biết thêm những điều độc đáo, mới lạ. Theo tôi tự thấy thì đó chính là cái điều mà tôi là người đầu tiên đã cho Sắc là vật chất, Không là năng lượng theo đúng công thức E = mc2 của Einstein, mà Quán Thế Âm Bồ Tát do có lục thông đã nhận biết được thế giới vi mô. Trước khi viết cụ thể về TS Thích Nhất Hạnh, hôm nay tôi trích đăng mấy ý chính trong bài tôi đã viết về cuốn sách của Nguyễn Hữu Sơn và vài tấm ảnh, kỷ niệm lần tôi rủ Sơn đi thăm và nghỉ tại chỗ ở của một nhà ngoại cảm.
3-1-2023
ĐÔNG LA
Nguyễn Hữu Sơn (NHS), PGS TS nguyên Viện phó Viện Văn học, từng tặng tôi cuốn sách “Loại hình tác phẩm Thiền uyển tập anh” (nxb Khoa học xã hội, 2002), một công trình nghiên cứu văn học về Thiền uyển tập anh, một tác phẩm có từ đời nhà Trần. Cuốn sách được hoàn chỉnh trên cơ sở luận án tiến sĩ văn học của NHS.
Công trình bao quát nhiều vấn đề. Bài viết này chỉ quan tâm hai mục nhỏ, nhưng thiết nghĩ chúng lại là phần quan trọng nhất, đó là cách nhìn của đạo Phật về Bản thể và con đường tu chứng giải thoát, tức đường đi và đích đến của đạo Phật.
Về Bản thể, trước hết, ý nghĩa chung nhất, Bản thể là bản chất của sự tồn tại.
Từ Thiền uyển tập anh, NHS đã rút ra kết luận quan trọng: “Xem xét bộ phận thơ ca trong Thiền uyển tập anh nói riêng, trong toàn bộ triết học và văn học Phật giáo nói chung, vấn đề Bản thể thường xuyên được đặt ra và giữ vị trí trọng yếu”. Vậy Bản thể là gì? “Theo quan niệm nhà Phật… Bản thể được xác định: “BẢN THỂ tức căn bản tự thể của các pháp”, mà: “PHÁP- Dharma, từ chỉ chung hết thảy mọi sự vật, hiện tượng,… sự vật,… đạo lý, … tất thảy đều là pháp cả”. NHS cũng dẫn Cao Xuân Huy khi bàn về Tăng Triệu (384-414): “Bản tế là Bản thể của vũ trụ, vạn pháp là các hiện tượng trong thế giới khách quan”; bàn về Hoa nghiêm tông: “Thế giới bản thể gọi là “lý pháp giới”, thế giới hiện tượng là “sự pháp giới”. Bản thể như nước, hiện tượng như sóng”; bàn về Thiên thai tông: “Hiện tượng trong thế giới là chí đa, nhưng đều là biểu hiện của chân như”.
Từ những cơ sở trên, NHS phóng chiếu khảo sát cách diễn giải về Bản thể của các Thiền sư Đại Việt trong Thiền uyển tập anh. Theo Thiền sư Đạo Huệ (?-1173):
Địa, thủy, hỏa, phong, thức
Nguyên lai nhất thiết không
Như vân hoàn tụ tán
Phật nhật chiếu vô cùng
(Đất, nước, lửa, gió, thức
Hết thảy vốn đều “không”
Mây tụ rồi tan đấy
Lòng Phật sáng vô cùng)
(Nguyễn Đổng Chi dịch)
“Phật nhật chiếu vô cùng” ý nói ánh sáng (giác ngộ) của Phật chiếu rõ (Bản thể) vô cùng, dịch là “lòng Phật sáng” chỉ phẩm chất đạo đức, dường như chưa được sát nghĩa.
Theo Phật giáo, thân, tâm con người được tạo thành từ năm yếu tố gọi là Ngũ uẩn. Ngũ uẩn gồm: 1-Sắc: chỉ yếu tố tạo nên thân và sáu giác quan (Lục căn), do bốn thành tố đất, nước, gió, lửa tạo thành. 2-Thọ: toàn bộ các cảm giác, dễ chịu, khó chịu hay trung tính. 3-Tưởng: sự nhận biết các cảm giác âm thanh, màu sắc, mùi vị..., kể cả ý thức đang hiện diện. 4-Hành: là những hoạt động tâm lí như chú ý, đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, ... 5-Thức: bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đặc tính chung của Ngũ uẩn là Vô thường, Vô ngã và Khổ. Khổ xuất phát từ sự bấp bênh, biến hoại của các uẩn; con người được tạo thành từ năm uẩn đó nên cũng chỉ là một sự giả hợp, không có một cái "ta" thật sự tự chủ, bất biến đứng đằng sau con người, tức Vô ngã. Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh nhấn mạnh đến tính Không của ngũ uẩn.
Một loạt các lời kệ của các thiền sư khác mà NHS cũng đã trích ra đều thể hiện cái triết lý về tính không của đạo Phật.
Tăng Thống Huệ sinh (?-1064) viết:
Pháp bản như vô pháp
Hi hữu diệc phi không
(Pháp vốn như vô pháp
Không có cũng không không
Vua Lý Thái Tông (1000-1054) viết:
Bát nhã thực vô tông,
Nhân không, ngã diệc không
(“Bát nhã” thực vô tông
Người không mình cũng không
(BÁT NHÃ (pañña) là thuật ngữ có nghĩa là Trí huệ (đồng nghĩa với trí tuệ), nhưng Trí huệ này không phải như Trí tuệ thông thường mà là trí huệ thâm sâu, sự hiểu biết toàn diện, có tính chất trực giác, không dựa trên lý luận, khái niệm, ngôn từ, mà vượt khỏi ngôn từ. Chính vì khó dịch cho nên người ta thường giữ nguyên phiên âm chữ Phạn là Bát Nhã).
Tính Không là một khái niệm trung tâm và cũng trừu tượng nhất của đạo Phật, là tính chất của Bản thể, nên Bản thể cũng thường được gọi là“Không tướng” hoặc“Chân không”, như trong Bát-nhã tâm kinh nói: “Thị chư pháp không tướng, bất sinh bất diệt” nghĩa là tướng không của các pháp không sinh không diệt; trong kinh Lăng Nghiêm nói về tính chất và mối liên hệ giữa sắc và không của Bản thể: “Tính sắc chân không tính không chân sắc, thanh tịnh bản nhiên, chu biến pháp giới,” nghĩa là tính của sắc thực là không, tính của không thực là sắc, cơ bản tự nhiên thanh tịnh vận động biến đổi khắp nơi. Vậy Bản thể của vũ trụ là không nhưng không phải là không có gì, mà là “Chân không” , một cái không thực tồn tại, không hình tướng, nhưng tạo nên mọi thứ. Trong Tiểu thừa, tính Không nhằm nói về thể tính của con người. Đại thừa xem Không là mọi sự. Tiếp cận tính Không là nội dung của các phép tu luyện, nhất là Thiền tông.
Nếu đối chiếu với khoa học, có thể nói chân không của đạo Phật chính là năng lượng, năng lượng cũng không hình tướng (không) nhưng đã tạo nên mọi vật (sắc) và mọi vật (sắc) trong điều kiện nhất định cũng biến thành năng lượng (không). Theo công thức E= mc2 thì năng lượng chính là nguồn gốc của vật chất, trong thực tế thì chính từ điều kiện nhiệt độ, áp suất, tỷ trọng… đặc biệt kỳ dị của Big Bang, một vụ nổ vĩ đại đã xảy ra, rồi tùy theo độ giảm của nhiệt độ, năng lượng đã tạo thành các hạt cơ bản, rồi thành vật chất.
Về con đường tu chứng và giải thoát, NHS viết: “Nếu như việc xác định những quan niệm về bản thể nghiêng về phía nhận thức luận thì những nẻo đường tu chứng giải thoát lại tập trung hướng về thực hành tôn giáo, nhằm giáo hóa chúng sinh”… TU CHỨNG có nghĩa là “tu hành chứng lý, chứng quả vị”; còn GIẢI THOÁT là “lìa bỏ mọi trói buộc để tự tại. Cởi bỏ sự trói buộc của hoặc nghiệp, thoát ra khỏi khổ quả của tam giới”, đó là toàn bộ con đường đi và đích hướng tới của các phật tử.
Công án (tiếng Hán: gōng-àn 公案) có nguyên nghĩa là một quyết định phải trái trong xét xử của quan phủ. Thiền tông dùng công án để thiền sinh quán tưởng trong lúc thiền. Công án không phải là "câu đố" thường vì nó không thể giải đáp được bằng suy luận lo-gic, nên thiền sinh buộc phải chuyển hóa tâm thức bằng một bước nhảy của trực giác, qua khỏi sự mâu thuẫn của lý luận nhị nguyên. Chúng ta hãy xem chuyện: “MỘT VẬT CỦA HUỆ NĂNG” (http: //ww.phatviet.com/dailan/duongvehotham/ dvht_50.htm)
Một hôm Huệ Năng bảo chúng rằng:
- Ta có một vật không đầu không đuôi, không tên không chữ, không lưng không mặt; các ngươi có biết không?
Thần Hội bước ra thưa:
- Đó là bản nguyên của chư Phật, Phật tánh của Thần Hội.
Huệ Năng dạy:
- Ta đã nói với con là không tên không chữ sao còn gọi bản nguyên Phật tánh! Như vậy, con chỉ lấy cỏ che đầu mà đi, cũng chỉ là tông đồ biết kiến giải giỏi mà thôi”.
Qua công án này, chúng ta thấy dùng lý sự để giải đáp đã bị thất bại. Câu chuyện “Tiếng vỗ một bàn tay” là một công án rất nổi tiếng. Chuyện kể về thiền sư Mamiya, trước khi thành một đạo sư nổi tiếng, thời còn cầu pháp sư phụ, ngài đã bị chất vấn: “thế nào là tiếng vỗ một bàn tay?”. Mặc dù Mamiya đã ngày đêm thiền quán để trả lời câu hỏi đó, sư phụ vẫn không hài lòng. Một lần, lại bị hỏi, Mamiya đã lăn quay ra đất, giả bộ như người chết.
Sư phụ hé mắt nhìn hỏi:
- Ừ, ngươi đã chết rồi, vậy “tiếng vỗ một bàn tay” là thế nào?
Mở mắt ra, Mamiya trả lời:
- Ồ, con vẫn chưa giải đáp được!
Sư phụ hét lớn:
- Cái gì? Người chết không trả lời! Cút ngay!" (theo http://www.Kynguyen tamlinh.com/news.aspx?nid=344)
Tiếng vỗ chỉ phát ra khi có hai bàn tay vỗ vào nhau, nên câu hỏi “Tiếng vỗ một bàn tay?” là vô nghĩa, nhưng thói thường người ta hay dùng suy luận để giải đáp. Vì thế Mamiya đã nghĩ rằng phải có ẩn ý gì sâu kín; nhưng không ngờ công án đó chỉ là một cái mẹo để sư phụ vừa khai phóng nội tâm vừa kiểm tra cái vỏ chấp ngã của đệ tử. Sư phụ Mamiya la rầy ông: "Ngươi còn đắm nhiễm quá nhiều … “Tiếng vỗ một bàn tay”, ngươi nên chết đi may ra mới trả lời được!”. Thực ra “ngươi nên chết đi” ngụ ý phải làm chết đi cái chấp ngã. Vậy câu trả lời đúng nhất chính là thái độ an nhiên, tự tại trước bất cứ một nghịch lý nào của mọi sự vật, nghĩa là phải đạt được trạng thái vô ngã, tâm không, cái điều kiện cơ bản để đắc đạo.
***
Cuối cùng, tác giả (Đông La) muốn viết thêm đôi điều về mối tương đồng giữa đạo Phật và khoa học. Ở thời hiện đại này, khi nghiên cứu về Đạo Phật người ta đã nhận ra một điều kỳ diệu là, đạo Phật không chỉ là những bài học luân lý, những triết lý nhân sinh, mà còn là phương thức nhận thức về bản thân con người và thế giới, tức có ý nghĩa y học và khoa học. Đức Thích Ca sau khi tu khổ hạnh sáu năm thất bại, chính bằng Thiền định, chứng được tứ thiền, chứng lục thông, giải thoát, giác ngộ đắc đạo thành Phật không phải là truyện thần thoại mà là hiện thực, và có phương thức tu luyện. Những năng lực siêu nhiên như Thiên nhãn thông (nhìn qua khoảng cách, chướng ngại); Thiên Nhĩ Thông (nghe được mọi âm thanh); Tha Tâm Thông (biết được suy nghĩ của người khác); Túc mạng thông (nhìn thấy kiếp quá khứ của mình và người khác) v.v… không chỉ riêng Đức Phật có được, mà cùng thời, tôn giả Mục-kiền-liên, đệ tử hàng đầu của Phật, cũng là bậc thần thông đệ nhất.
Không chỉ Tôn giả Mục Kiều Liên, nhiều thiền sư, đạo sĩ dày công tu luyện cũng đã thành tựu những khả năng siêu nhiên như vậy, và ngay thời hiện đại này, do nhiều cơ duyên khác nhau, đặc biệt do những biến cố đặc biệt như tai nạn hoặc bệnh tật, một số giác quan của một số người phàm cũng được khai mở, tạo nên những khả năng đặc biệt trong việc tìm mộ và trong các hiện tượng tâm linh khác. Chính hiện tượng này đã mở ra nhiều chân trời mới của nhận thức thực tại, thách thức cả nền khoa học hiện đại.
Tất cả các giáo lý của đạo Phật được xây dựng trên nền tảng thực chứng của đức Phật bằng con đường Thiền định cũng có cơ sở khoa học.
Những thí nghiệm khoa học về Yoga cho thấy chỉ cần ngồi tư thế kiết già (thế hoa sen), dù không cố gắng nhập định, vẫn có một sự thay đổi ở sóng não từ nhịp Beta khoảng 20 chu kỳ mỗi giây xuống nhịp Alpha khoảng 8 chu kỳ mỗi giây. Nhịp Alpha là tình trạng sóng não của một người trầm tĩnh và minh mẫn, nghĩa là tự thân tư thế kiết già đã có công năng làm êm dịu thần kinh chưa kể đến những tác dụng khác của việc ngồi thiền.
Kết quả trên cũng phù hợp với những lý luận của y học cổ truyền khi ở thế kiết già, xương mác ở cẳng chân trái đã tạo một sức ép khá mạnh lên đúng vị trí huyệt Tam âm giao ở chân phải, là huyệt giao hội của 3 đường kinh âm: Tỳ, Can và Thận nên tác động kích thích này sẽ có tác dụng "thông khí trệ", "sơ tiết vùng hạ tiêu" và điều chỉnh những rối loạn nếu có ở những kinh và tạng có liên quan, đặc biệt là tác dụng "Dưỡng âm kiện Tỳ" và "Sơ Can ích Thận" mà các thầy thuốc châm cứu đều biết khi tác động vào huyệt này. Như vậy, trong suốt thời gian ngồi kiết già, huyệt Tam âm giao sẽ được kích thích liên tục. (Theo Lương y VÕ HÀ).
Như vậy các vị thiền sư và võ sư, qua quá trình tu luyện công phu bằng thiền định và khí công, đã diễn ra một quá trình biến đổi từ tâm lý đến sinh lý, đã làm khởi phát những tiềm ẩn của cơ thể, tạo nên những năng lực siêu phàm.
Chính bằng năng lực siêu phàm ấy, cách nay hơn hai thiên kỷ rưỡi, Đức Phật đã thấy những điều mà nhiều nhà khoa học, với trí tuệ xuất chúng và những phương tiện nghiên cứu tối tân nhất, mới thấy lại. Albert Einstein, nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ 20, đã nói:
“Nếu có bất cứ một tôn giáo nào đó có thể đương đầu được với những nhu cầu của khoa học hiện đại thì nó sẽ là Phật Giáo”. (If there is any religion that could cope with modern scientific needs it would be Buddhism).
(Dẫn theo GS. Trần Chung Ngọc, bài “VÀI NÉT VỀ: PHẬT GIÁO & KHOA HỌC”.
GS Trần Chung Ngọc cũng cho “VÀI THÍ DỤ VỀ TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO ĐÃ ĐI TRƯỚC KHOA HỌC”: 1.Về thế giới vô cùng nhỏ: đức Phật thường khuyên các đệ tử trước khi uống nước hãy niệm chú để phổ độ cho các vi chúng sinh có trong nước vì ngài thấy trong mỗi bát nước có tới 84000 sinh vật nhỏ mà mắt người thường không nhìn thấy. Hơn 21 thế kỷ sau, năm 1595, các khoa học gia đã phát minh ra cái kính hiển vi đầu tiên và mới thấy lại cái nhìn của Đức Phật. 2. Về Thế Giới Vô Cùng Lớn: kinh Phật cho thấy thế giới chúng ta đang sống không phải là duy nhất và cũng không phải là trung tâm, vũ trụ còn có rất nhiều thế giới khác, phân thành 3 loại: Tiểu Thiên Thế Giới, Trung Thiên Thế Giới, và Đại Thiên Thế Giới. Quan niệm này hầu như tương hợp hoàn toàn với những kiến thức ngày nay của những nhà thiên văn hay những nhà vật lý thiên thể. Chính do thiền định Đức Phật và các Đại Bồ Tát đã đạt lục thông, có thiên nhãn, nên đã nhìn thấy và mô tả chính xác về vũ trụ như trên.
TPHCM ngày 24-11-2008
ĐÔNG LA