Thứ Tư, 30 tháng 4, 2025

LỊCH SỬ THÀNH VĂN- NGÀY TOÀN THẮNG KẾT THÚC CUỘC KHÁNG CHIẾN VĨ ĐẠI 30-4-1975 Phần 3 NHỮNG GIÂY PHÚT THIÊNG LIÊNG NHẤT KẾT THÚC HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN VĨ ĐẠI

 LỊCH SỬ THÀNH VĂN- NGÀY TOÀN THẮNG KẾT THÚC CUỘC KHÁNG CHIẾN VĨ ĐẠI 30-4-1975

Phần 3

NHỮNG GIÂY PHÚT THIÊNG LIÊNG NHẤT KẾT THÚC HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN VĨ ĐẠI


Sáng nay là 30-4-2025, cách nay đúng 50 năm, Quân Giải phóng đã toàn thắng, bắt sống Nội các của TT VNCH Dương Văn Minh, giải phóng Sài Gòn, kết thúc hai cuộc kháng chiến vĩ đại, giành lại được chủ quyền của dân tộc, hoà bình, thống nhất đất nước.
Giây phút quan trọng nhất trong Ngày Lịch sử 30-4-1975 chính là lúc nhóm cán bộ chiến sĩ của Đại uý Phạm Xuân Thệ bắt được TT Việt Nam Cộng hoà Dương Văn Minh và Nội các. Việc quyết định buộc DVM sang Đài Phát thanh SG tuyên bố đầu hàng là một sự sáng tạo độc đáo của Đại uý Phạm Xuân Thệ vì không có trong kế hoạch, nhưng nó đã góp phần quan trọng chấm dứt việc đổ máu vô ích của cả hai bên, vì nhiều quân địch không biết được thông tin còn kháng cự, tử thủ. Mọi việc diễn ra ở Đài PT SG sau đó chỉ là quá trình hoàn tất sự sáng tạo của Phạm Xuân Thệ.
Hôm nay ngày vui, mọi tranh cãi sẽ gác lại, tôi sẽ bàn lại sau, trên mành hình TV, bắt đầu chiếu truyền hình trực tiếp Lễ Diễu binh, diễu hành sắp diễn ra kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025), tôi xin đăng lại phần cuối loạt bài “Lịch sử thành văn” về ngày 30-4-1975.



Sáng 30-4-2025
ĐÔNG LA
Phần 3
NHỮNG GIÂY PHÚT THIÊNG LIÊNG NHẤT KẾT THÚC HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN VĨ ĐẠI

Trong ngày lịch sử 30-4-1975, giây phút quan trọng nhất là việc Đại uý Phạm Xuân Thệ, Trung đoàn phó Trung đoàn bộ binh 66, Sư 304, Quân đoàn 2, cùng các đồng đội là Trợ lý Tác chiến Nguyễn Văn Nhu, Trợ lý Cán bộ Phùng Bá Đam, Lái xe Đào Ngọc Vân, và hai chiến sĩ thông tin Bàng Nguyên Thất, Nguyễn Huy Hoàng đã bắt sống Tổng thống Dương Văn Minh và toàn bộ Nội các Chế độ tay sai Việt Nam Cộng Hoà. Tiếp theo, Phạm Xuân Thệ cùng đồng đội đã buộc và áp giải Dương Văn Minh sang Đài Phát thanh SG tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Đó chính là những giây phút thiêng liêng nhất, chấm dứt hai cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân ta, kéo dài đến 117 năm, giành lại chủ quyền, hoà bình và thống nhất đất nước. Trong hành trình dài đằng đẵng ấy đã có biết bao xương máu và mồ hôi của bao thế hệ cha anh đã đổ ra để Phạm Xuân Thệ và các đồng đội, cũng bất chấp hy sinh, tới được đích kết thúc cuộc kháng chiến!
***
Trung đoàn bộ binh 66 có Trung đoàn trưởng là Nguyễn Sơn Văn, Chính uỷ là Lê Xuân Lộc, được giao nhiệm vụ cùng Lữ đoàn Xe tăng 203 và các đơn vị khác thuộc Binh đoàn Thọc sâu đánh chiếm mục tiêu chính là Dinh Độc lập và các mục tiêu khác. Tiểu đoàn 8 (D8), có Trương Quang Siều làm tiểu đoàn trưởng, Hoàng Trọng Tình làm chính trị viên, được giao nhiệm vụ chính là đánh chiếm Đài Phát thanh Sài Gòn. Trong trận đánh ác liệt ở Cầu Sài Gòn, D8 đã bị thương và hy sinh gần chục chiến sĩ. Vượt qua Cầu Sài Gòn, sau khi quân ta tiếp tục đập tan chốt chặn cuối cùng của địch ở cầu Thị Nghè, Đại đội 6 (D8) cùng với Tiểu đoàn 7 và Đại đội 4 của Lữ đoàn xe tăng 203 tiến vào dinh Độc Lập, phần còn lại của D8 rẽ phải tiến theo đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, vào đánh chiếm Đài phát thanh Sài Gòn. Đúng 10 giờ 30 phút, Đồng chí Toàn, trung đội trưởng Trung đội 1, kéo cờ Giải phóng lên cột cờ ở Đài. Cùng thời gian đó, Đại đội 7 đã chiếm Cục An ninh Quân đội và một chiến sĩ của Đại đội đã hy sinh!
Còn Đại uý Phạm Xuân Thệ, đêm trước ngày 30/4 lịch sử, được Ban Chỉ huy Trung đoàn và Bộ Tư lệnh Sư đoàn giao nhiệm vụ chỉ huy lực lượng đi đầu của Trung đoàn 66, cùng Lữ đoàn xe tăng 203 tiến về Sài Gòn, đánh chiếm Dinh Độc lập, Đài phát thanh, và Bộ tư lệnh Hải quân.
Phạm Xuân Thệ ngồi trên chiếc xe Jeep (chiến lợi phẩm lấy từ Đà Nẵng) do Đào Ngọc Vân lái, bám theo đội hình đi đầu của mũi thọc sâu. Trên đường qua Cầu Thị Nghè vào dinh Độc Lập quân ta cũng không biết đường. Khi qua cầu một đoạn, chỗ Thảo cầm viên, Phạm Xuân Thệ phải cho xe dừng lại để hỏi. Rất may trong đám đông đứng bên đường, bỗng có một người tay cầm cờ giải phóng chạy ra nói:
- Tôi biết đường.
Phạm Xuân Thệ mừng quá nói:
- Mời ông lên xe
Phùng Bá Đam mở cửa xe kéo ông lên ngồi cạnh. Đến đường Thống Nhất, mọi người trên xe nhìn thấy Dinh Độc lập mầu trắng xa xa, phía cuối đường. Tiếp tục cho xe chạy thẳng đến Dinh Độc Lập, từ xa, Lái xe Đào Ngọc Vân thấy cổng vẫn đóng nhưng sau đó, anh thấy chiếc xe tăng đi đầu hùng dũng lao tới, húc vào cổng phụ bên trái, làm cánh cổng chính bung ra, nhưng xe bị mắc kẹt tại đó; chiếc thứ hai trên đường từ phía phải tới, rẽ phải, húc tiếp vào cổng chính và lao vào sân, vòng qua phía phải bồn có đài phun nước chạy về phía cửa Dinh. Phạm Xuân Thệ lệnh cho lái xe bám theo xe tăng lao qua cổng, vòng qua phía trái cái bồn, cũng tiến thẳng, dừng xe trước cửa Dinh.



Trong sân dinh, binh lính địch đã hạ vũ khí đầu hàng, mặt mày ủ rũ, sợ hãi… Sau đó, xe tăng và bộ binh của quân ta cũng nhanh chóng ập vào.
Phạm Xuân Thệ và đồng đội nhảy xuống xe Jeep, mấy nhà báo xúm lại chỉ cho họ chạy lên trên, chỗ nội các chính quyền Sài Gòn đang chờ. Vào dinh, Phạm Xuân Thệ và đồng đội theo cầu thang giữa sảnh, chạy lên tầng một. Người đầu tiên Phạm Xuân thệ gặp là ông Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá Tổng Tham mưu trưởng Quân lực VNCH, người thân tín của Tổng thống Dương Văn Minh.



Nguyễn Hữu Hạnh nói:
-Toàn bộ nội các đang trong phòng họp, xin mời cấp chỉ huy vào làm việc!
Có một nhà báo Pháp đã chụp được những khoảnh khắc này và đã đăng ngay sau 30-4-1975 bên Pháp (xem ảnh).



Phạm Xuân Thệ thấy bất ngờ, thoáng chút lo lắng, Anh chỉ nghĩ mình dẫn đồng đội vào Dinh cắm cờ chứ đâu nghĩ đến chuyện “làm việc” với Dương Văn Minh, cấp trên cũng không lường trước được tình huống này để dặn dò các anh. Theo Nguyễn Hữu Hạnh dẫn đến phòng họp, Phạm Xuân Thệ thấy rất rộng, có khoảng 40 - 50 người ngồi. Thấy quân giải phóng, tất cả lục tục đứng dậy. Một người cao lớn, mặt vuông chữ điền, đeo kính trắng bước lên. Nguyễn Hữu Hạnh giới thiệu: “Báo cáo cấp chỉ huy, đây là ông Dương Văn Minh, Tổng thống”. Rồi ông ta chỉ tay vào một người hơi thấp, trán cao, đeo kính trắng, giới thiệu: “Đây là Thủ tướng Vũ Văn Mẫu”, ông Mẫu khẽ cúi đầu chào đáp lễ.
Ông Dương Văn Minh bước tới, nói thận trọng:
-Chúng tôi biết Quân giải phóng tiến vào nội đô. Chúng tôi đang chờ Quân giải phóng vào để bàn giao.
Nghe tới đó, Phạm Xuân Thệ không biết chuyện bàn giao như thế nào, nên buột miệng phản ứng ngay, giọng kiên quyết:
-Các ông đã thất bại, đã bị bắt làm tù binh, các ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện ngay, không có bàn giao gì cả!

Dương Văn Minh bị hẫng, chuyển từ tư thế chủ động sang bị động lúng túng, ông liền rút trong túi ra khẩu súng ngắn Browning đặt lên bàn. Anh Thệ nhận súng. (Khẩu súng hiện đang ở Bảo tàng Quân đội).
Thật may mắn, khoảnh khắc thiêng liêng nhất đó của cuộc chiến cũng đã được ghi hình. Đây chính là tấm ảnh lịch sử quan trọng nhất. (xem hình)


Khi đó, ngoài sân, những tiếng súng nổ ăn mừng chiến thắng của Quân Giải Phóng vang khắp Dinh Độc Lập, khiến nội các của Dương Văn Minh lo sợ! Trong đầu Phạm Xuân Thệ lúc này chỉ nghĩ phải buộc Dương Văn Minh lên đài phát thanh tuyên bố đầu hàng ngay, tránh tiếp tục đổ máu vô ích càng sớm càng tốt, anh nói tiếp:
-Yêu cầu ông phải sang đài phát thanh tuyên bố đầu hàng ngay, tránh tàn quân của các ông kháng cự, đổ máu vô ích!
Dương Văn Minh ngập ngừng:
-Cấp chỉ huy có thể cho tôi thâu băng ở ngay đây được không? Bây giờ súng nổ như vầy, e rằng ra ngoài đường sẽ nguy hiểm.
Phạm Xuân Thệ ngần ngừ, anh cũng chưa có kiến thức về chuyện ghi âm rồi phát trên đài, nên chưa biết trả lời ra sao thì Dương Văn Minh đã nói với Lý Quí Chung, Tổng trưởng Thông tin, đi kiếm máy thu băng. Phạm Xuân Thệ cũng đành chờ xem sao.
Lúc này, Bùi Văn Tùng, Trung tá, Chính uỷ Lữ đoàn xe tăng 203 bước vào. Ông thấy Phạm Xuân Thệ tay lăm lăm súng ngắn, tưởng là cán bộ quân đoàn đang làm việc, nên không tham gia. Dương Văn Minh thấy ông Tùng cao to, đứng tuổi, nghĩ là cấp chỉ huy, nên cũng nói lại câu nói bàn giao chính quyền, Bùi Văn Tùng cũng phản bác và nói chỉ có đầu hàng vô điều kiện thôi. Thấy giọng Bùi Văn Tùng điềm đạm không quyết liệt như Phạm Xuân Thệ, Dương Văn Minh bình tĩnh hơn và nói đang cho người đi lấy máy để ghi âm lời tuyên bố đầu hàng.
Nhưng rồi mãi không thấy Lý Quý Chung quay lại, Nguyễn Hữu Hạnh nói với Bùi Văn Tùng:
-Ở ngoài đường sợ không có an ninh, sợ phe đối lập nó ám hại!
Bùi Văn Tùng trấn an:
-Cả Sài Gòn quân giải phóng đã giải phóng rồi. Ông Dương Văn Minh đi với chúng tôi, xong việc, chúng tôi đưa ông Minh về lại đây đảm bảo an ninh.
Phạm Xuân Thệ sốt ruột, không thể chờ thêm được nữa, anh cương quyết bắt Dương Văn Minh phải ra đài phát thanh ngay. Thấy Dương Văn Minh lo sợ khi nghe thấy tiếng súng, anh đã trấn an Dương Văn Minh: “Đó là tiếng súng Quân Giải phóng ăn mừng. Chúng tôi đã làm chủ Sài Gòn, sẽ bảo đảm an toàn cho ông đi”. Dương Văn Minh cam chịu chấp nhận.



Khi xuống đến tiền sảnh, Dương Văn Minh vẫn chưa hết lo lắng và nói: “Mời các ông đi xe của tôi, xe của tôi là xe chống đạn”. Nhưng Phạm Xuân Thệ không đồng ý, buộc Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu phải lên chiếc xe Jeep của mình.
Anh xếp cho Dương Văn Minh ngồi ghế đầu, phía trong, anh ngồi phía ngoài để canh giữ, che chắn. Ghế sau gồm có Vũ Văn Mẫu ngồi giữa, hai bên là Nguyễn Văn Nhu và Phùng Bá Đam. Sau cùng là Bàng Nguyên Thất và Nguyễn Huy Hoàng. Bùi Văn Tùng lên xe thứ hai của Nhà báo Hà Huy Đỉnh, có Borries Gallasch (báo Der Spiegel, Tây Đức), Nguyễn Hữu Thái, và Huỳnh Văn Tòng đi theo. Sau đó, chiếc xe của Nhà báo Kỳ Nhân, phóng viên hãng AP, cũng đi theo, ông chở một số chiến sĩ nhảy lên xe ông. Hai sĩ quan thuộc nhóm Phạm Xuân Thệ là Nguyễn Văn Nhu và Phùng Bá Đam đã tổ chức đi sau hộ tống là 2 xe ô tô của đại đội 2, tiểu đoàn 7.
Hành trình ngắn ngủi Phạm Xuân Thệ chỉ huy đồng đội áp giải Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu từ trong Dinh Độc lập ra sân, đi một đoạn rồi lên xe, đã được nhà báo người Úc Neil Davis quay, trở thành thước phim quý giá, ghi lại giây phút lịch sử sống động trưa ngày 30/4/1975 ở Dinh Độc lập.
***
Từ Dinh Độc Lập ra đài phát thanh khoảng 3km, Lái xe Đào Ngọc Vân được Dương Văn Minh chỉ đường. Trên đường đi, Phạm Xuân Thệ hỏi Dương Văn Minh:
-Ông thấy sức mạnh của Quân giải phóng thế nào?
Dương Văn Minh đáp:
-Tôi biết, khi Quân giải phóng tiến công vào là chúng tôi sẽ thất bại!
Phạm Xuân Thệ hỏi tiếp:
-Tại sao ông biết thất bại mà không tuyên bố đầu hàng trước?
Dương Văn Minh trả lời:
-Khi Quân giải phóng chưa tiến công vào, bên dưới tôi còn rất nhiều người chưa đồng tình với tôi, nếu tôi tuyên bố đầu hàng trước, thì họ sẽ khử tôi ngay.
Khi xe của Phạm Xuân Thệ đến Đài Phát thanh thì Tiểu đoàn 8 thuộc Trung đoàn 66 đã chiếm giữ. Tiểu đoàn trưởng Trương Quang Siều và Chính trị viên Hoàng Trọng Tình ra đón và báo cáo:
-Báo cáo Trung đoàn phó, chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ, chiếm giữ đài an toàn, nhưng chưa tìm được nhân viên.
Phạm Xuân Thệ:
-Tôi biểu dương Tiểu đoàn 8 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ!
Nói xong, anh nói nhỏ với hai cán bộ chỉ huy D8: “Mình đưa Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu sang đây để tuyên bố đầu hàng đấy. Các cậu lên phương án bảo vệ và cử ngay người đi tìm kỹ thuật viên”.
Sau khi Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu yên vị, Bàng Nguyên Thất và Nguyễn Huy Hoàng chốt giữ cửa ra vào. Hoàng Trọng Tình tìm cách kiếm nhân viên đài phát thanh. Rất may có nhà báo Kỳ Nhân, ông đề nghị:
-Các anh theo tôi về làng báo chí, mười mấy ông chuyên viên làm ở đây đều cùng ở làng báo chí Thảo Điền với tôi.
Hoàng Trọng Tình liền cử Trần Viết Cả và Đinh Văn Lâm ở đơn vị trinh sát đi với nhà báo Phạm Kỳ Nhân.
Trong lúc chờ người đi tìm nhân viên đài phát thanh thì Phạm Xuân Thệ nói với các trợ lý Phùng Bá Đam, Đinh Thái Quang, và Nguyễn Văn Nhu, Trịnh Ngọc Ước cùng bàn bạc để thống nhất nội dung bản thảo lời tuyên bố đầu hàng vô điều kiện cho Dương Văn Minh. Mấy người liền chụm đầu góp ý cho Phạm Xuân Thệ chắp bút. Nguyễn Văn Nhu nói:
-Em nhớ hồi xem phim Giải phóng của Liên Xô đánh Phát-xít Đức, khi Đức đọc lời đầu hàng có ý “đầu hàng không điều kiện”, nên mình phải cho ý này vào anh Thệ ạ.
Làm xong, Phạm Xuân Thệ giao bản soạn thảo cho Tổng thống Dương Văn Minh đọc. Dương Văn Minh loay hoay mãi không đọc nổi vì chữ Phạm Xuân Thệ viết khó đọc. Lúc này, Trung tá Bùi Tùng đã tới, ngồi bên Dương Văn Minh. Sau nhiều đêm mất ngủ, người thấm mệt, ông như thiếp đi, thấy Phạm Xuân Thệ đưa tờ giấy cho DVM , ông bừng tỉnh, với tay cầm tờ giấy đọc, thấy có ý chưa chuẩn, ông hỏi Phạm Xuân Thệ:
-Anh là ai?
Phạm Xuân Thệ trả lời:
-Tôi là Phạm Xuân Thệ, Phó đoàn Đông Sơn (biệt danh của Trung đoàn 66).
Phạm Xuân Thệ hỏi:
-Vậy anh là ai?
Bùi Văn Tùng giới thiệu:
-Tôi là Bùi Tùng, Trung tá, Chính ủy Lữ đoàn 203. Tôi tưởng các anh là người của Quân đoàn nên tôi không tham gia. Tôi vào dinh, thấy các anh đưa Dương Văn Minh sang đây, nên tôi đến đây luôn.
Phạm Xuân Thệ vui mừng:
-May quá, chúng tôi đang bàn thảo lời tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh, mời anh cùng làm luôn.
Lúc này Bùi Tùng nói với Dương Văn Minh:
-Bây giờ ông Minh sẽ nói theo văn bản mà tôi sẽ sửa.
Dương Văn Minh:
- Thượng cấp muốn tôi nói thế nào thì xin viết ra giấy.
Chính ủy Tùng lấy một tờ giấy pơ luya màu xanh trong tập giấy có sẵn trên bàn và bắt đầu viết. Xong, ông đưa tờ giấy cho Dương Văn Minh và nói: “Ông xem đi. Có vấn đề gì cần đề nghị thì nói”. Ông Minh đọc xong, thò tay vào túi áo dưới của mình lấy bút ra viết thêm hai chữ “Đại tướng” vào sau chữ “Tôi” và gạch hai chữ “Tổng thống” trong văn bản đi rồi vừa trả lại cho Chính ủy Tùng. Ông nói:
-Xin thượng cấp cho bỏ hai chữ Tổng thống và xin chỉ đọc là Đại tướng Dương Văn Minh thôi.
Bùi Tùng không chấp nhận:
- Không được, dù làm một ngày, một giờ thì cũng phải chịu trách nhiệm, ông nhận chức tổng thống từ Trần Văn Hương những hai, ba ngày rồi. Nếu ông không xưng danh là Tổng thống thì làm sao có thể lệnh giải tán được chính quyền? Dương Văn Minh đành chấp thuận.

Đinh Thái Quang, trợ lý Tuyên huấn, mở máy ghi âm để thu lời ông Minh thì cuộn băng bị rối, Phùng Bá Đam vội chạy vào phòng Hệ thống trưởng Truyền thanh Sài Gòn Nguyễn Văn Thăng lấy chiếc cặp và một số băng ghi âm, có cả băng trắng, đưa cho Quang thu nhưng băng vẫn bị rối.
Trong lúc Quang đang loay hoay sửa máy thì Borries Gallasch, Nhà báo Tây Đức, đề nghị dùng máy của ông, và được chấp thuận ngay. Ông ngồi xuống bên Dương Văn Minh, ghi âm toàn bộ lời tuyên bố đầu hàng của tổng thống Dương Văn Minh: "Tôi, Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống chính quyền Sài Gòn, kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng Hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố chính quyền Sài Gòn từ trung ương đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại cho Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam".



Ghi âm xong, mọi người bàn nhau phải có lời chấp nhận tuyên bố đầu hàng mới có giá trị, ông Bùi Tùng nói Phạm Xuân Thệ làm luôn, Phạm Xuân Thệ nói ông Tùng làm đúng hơn. Thấy hai người cứ đùn đẩy nhau, Phùng Bá Đam đề nghị ông Bùi Tùng thay mặt quân giải phóng Miền Nam chấp nhận lời tuyên bố đầu hàng là đúng nhất. Vì ông là người chỉ huy cao nhất ở đó, lại quê ở Miền Nam, thay mặt quân giải phóng Miền Nam là phù hợp. Ông Tùng đồng ý, lấy tờ giấy pơ - luya màu xanh trên bàn viết rồi đọc cho máy ghi âm: "Chúng tôi đại diện lực lượng quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam long trọng tuyên bố: Thành phố Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của Tướng Dương Văn Minh, Tổng thống chính quyền Sài Gòn".
Ông Bùi Tùng đọc xong thì thủ tướng Vũ Văn Mẫu xin được phát biểu, ông Tùng gạt đi và nói "không cần thiết" nhưng ông Mẫu vẫn nài nỉ "Xin chỉ huy cho tôi nói ngắn gọn, chỉ kêu gọi không có đổ máu, không có tàn sát". Cuối cùng mọi người đồng ý, ghi âm tiếp lời Vũ Văn Mẫu: "Trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôi, giáo sư Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng, kêu gọi tất cả các tầng lớp đồng bào vui vẻ chào mừng ngày hòa bình của dân tộc, và trở lại sinh hoạt bình thường. Các nhân viên của các cơ quan hành chánh quay trở về vị trí cũ theo sự hướng dẫn của chính quyền Cách mạng".
Khi tất cả đã được chuẩn bị chu đáo, các nhân viên kỹ thuật cũng được tìm về, mọi người sang phòng bá âm, và buổi phát thanh trực tiếp đầu tiên trong ngày lịch sử trọng đại 30-4-1975, ngay tại Thành phố SG vừa mới được giải phóng, bắt đầu. Nguyễn Hữu Thái, cựu Chủ tịch tổng hội sinh viên Sài Gòn, đã trở thành phát thanh viên "bất đắc dĩ":
-Xin giới thiệu lời kêu gọi của ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu của Chính quyền Sài Gòn về vấn đề đầu hàng ở thành phố này.
Tiếp theo, đài phát lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh, lời của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu và lời của Chính uỷ Bùi Văn Tùng thay mặt quân giải phóng chấp nhận sự đầu hàng của Dương Văn Minh. Đồng hồ lúc này chỉ 13h20 (giờ Hà Nội là 12h20).
Một đám đông kéo đến đài phát thanh, trong đó có Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Được mời phát biểu trực tiếp trên sóng, ông xúc động nói và hát vang bài “Nối vòng tay lớn”!
***
Mọi việc xong, Phạm Xuân Thệ đưa Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu trở lại Dinh Độc Lập. Anh đã hành động một cách quyết liệt chỉ với một suy nghĩ làm sao để hai bên tránh đổ máu vô ích càng sớm càng tốt, nhưng đó chỉ là suy nghĩ tự phát của anh. Về dinh, biết một cán bộ quân đoàn có thái độ rất căng khi ông đến dinh mà không thấy Dương Văn Minh đâu, Phạm Xuân Thệ đã rất lo lắng, không biết là mình đã làm đúng hay sai? Chỉ đến khi người đứng đầu quân đoàn, Tư lệnh Nguyễn Hữu An ôm anh chảy nước mắt xúc động, nói anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thì anh mới an tâm và tràn trề hạnh phúc. Anh mới thấy mình may mắn hơn biết bao đồng đội. Chiến công là của chung, của cả dân tộc, nhưng lịch sử đã chọn anh có mặt trong giây phút thiêng liêng nhất, bắt sống tổng thống một chế độ tay sai, chấm dứt hai cuộc kháng chiến vĩ đại dài hơn một thế kỷ của dân tộc. Còn Tướng Nguyễn Hữu An, người từng chỉ huy đánh đồi A1 trong Trận Điện Biên Phủ, nay lại chỉ huy một trong năm cánh quân của Chiến dịch Hồ Chí Minh, đã đánh chiếm được Dinh Độc lập, đầu não của quân thù, trong hồi ký của mình đã viết, giọt nước mắt của ông chảy ra khi ôm Phạm Xuân Thệ là giọt nước mắt hạnh phúc nhất trong suốt cuộc đời chinh chiến của ông!

TP Hồ Chí Minh ngày 21-6-2021
ĐÔNG LA

Thứ Ba, 29 tháng 4, 2025

TÂM TƯ SAU CUỘC GẶP CCB E 66

 TÂM TƯ SAU CUỘC GẶP CCB E 66



Sáng qua, khoảng 8 giờ tôi đến cổng Dinh Thống Nhất, phải đưa giấy mời mới được vào, một bạn đọc mặc quân phục nhận ra tôi, xin chụp ảnh.



Vào Dinh, qua sảnh, tôi vào hội trường phía tay phải, đã chật kín người, thấy mấy người thuộc nhóm Chống DBHB của Đại tá Nam ở hàng sau cùng. Tôi đến, thấy ghế bên BS Phạm Văn Tuấn còn trống, ngồi xuống, phía trước là Nhà Văn Nhất Phương. Đến dự, tôi mong gặp được anh Nguyễn Huy Hoàng, có trong nhóm anh Phạm Xuân Thệ bắt DVM, vì anh có liên hệ tâm giao và thường like bài trên fb của tôi. Còn anh Thệ quá nổi tiếng, gặp thêm tôi thì cũng chẳng để làm gì, với tôi thì chỉ thích gặp người có tình cảm với mình; từng dự các cuộc tụ họp có cả TBT, Chủ tịch nước, tôi cũng thấy chẳng cần phải gặp họ. Rất may, tôi gặp được anh Chiến Hoàng, ccb E66, người cũng hay đọc fb của tôi, tôi bảo muốn gặp anh Hoàng. Anh Chiến đi, lát sau anh dẫn anh Hoàng đến, chúng tôi mừng rỡ ôm nhau, chụp ảnh.



***
Không khí hội trường rất náo nhiệt, sân khấu toàn hát những bài hát thời chiến. Trên cả nước nơi nơi cũng đang tấp nập chuẩn bị cho Ngày Lễ chào mừng Ngày 30-4, lan tận vào cả nhà tôi. Cô cháu ngoại đi học lớp 3 mặc áo cờ đỏ sao vàng, quần sooc rằn ri bộ đội đặc công.
Sự náo nhiệt giống như sức sống của một cơ thể khoẻ mạnh, vậy mà vẫn cứ lo âu. Trong thượng tầng kiến trúc xã hội VN hiện đã có tình trạng giống như những gen trong lĩnh vực lịch sử, văn chương, văn hoá nghệ thuật, giáo dục đã bị đột biến, liên quan đến ý thức hệ, chính trị, tư tưởng. Nếu không ngăn chặn thì chúng hoàn toàn có thể trở thành những khối u nguy hiểm cho sự tồn vong của chế độ.
Nhiều sai trái vẫn được phát tán trong truyền thông. Trong hội trường thuộc Dinh Thống Nhất, E66 tưng bừng kỷ niệm như thế nhưng trên VTV vẫn chiếu Vũ Đăng Toàn nói chính mình mới là người bắt được Dương Văn Minh, rồi Phạm Xuân Thệ đến sau, mới “Báo cáo Tổng thống”!
Trần Đăng Khoa từng viết Phạm Xuân Thệ như Lý Thông cướp công Thạch Sanh Bùi Tùng, đã tiếp tục cùng Phạm Việt Tùng làm phim cho rằng từ việc bắt DVM, quyết định sang đài phát thanh, soạn văn bản là công thuộc ông Bùi Tùng hết. Hữu Mão từng đăng bài trên THỜI BÁO VĂN HỌC NGHỆ THUẬT, với những bình luận: Nguyễn Xuân: “Nhân chứng, vật chứng như vậy mà Lý Thệ vẫn cố mà tranh công là sao vậy?!!!”; Đoàn Kim Học: “Lịch sử luôn phải được tôn trọng. Lý "Thệ" phải được xử ngay”; Trần Đình An: “… Bùi Văn Tùng đã … phát hiện ra sự sai sót nghiêm trọng khi Thệ ghi Dương Văn Minh là Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa… Ông Tùng dùng chữ để Dương Văn Minh là Tổng thống Chính quyền Sài Gòn là quá chuẩn… nếu Văn bản đó được Dương Văn Minh đọc thì chắc chắn Thệ không tránh khỏi là tội nhân của Lịch sử, vì biến cuộc Chiến tranh Giải phóng của quân dân cả hai miền Nam, Bắc thành cuộc chiến tranh xâm lược…”.
***
Xin bàn riêng chút về VNCH. VNCH là một cái tên gọi một chính quyền mà Mỹ đã “nặn” ra ở Miền Nam VN mà phía ta cho rằng là “tay sai”, “bù nhìn”, “ngụy”, nhưng tên của nó vẫn là VNCH. Cũng như Nguyễn Văn A đi ăn cướp, bị bắt, người ta gọi là “thằng ăn cắp”, nhưng tên nó cũng vẫn là Nguyễn Văn A. Không có ai tên là “ăn cắp” cả. Cũng như vậy, không có chính quyền nào tên là “Ngụy”, tên là “Tay sai” cả, mà những cái tên này chỉ là tính chất, là bản chất mà phía ta chỉ ra của chính quyền VNCH. Vì vậy, nói, viết “Chính quyền VNCH” là đúng, chỉ nói, viết “Chính quyền VNCH là chính nghĩa” thì mới là sai. Vì vậy, Trần Đình An do dốt ngôn ngữ văn học, đã thật bậy bạ khi cho Phạm Xuân Thệ là “sai sót nghiêm trọng”, là “tội nhân của Lịch sử” vì viết DVM là “Tổng thống VNCH”.
Thật tiếc, bạn fb của tôi có mấy người rất tốt, rất quyết liệt chống lật sử, nhưng trình độ về ngôn ngữ cũng hạn chế, nên cứ thấy chỗ nào nói, viết VNCH là cũng phê phán. Nếu vậy, văn bản Hiệp định Pari 1973, phần ký kết cũng có viết rõ “Thay mặt Chính phủ VNCH” cũng là lật sử sao, phải ghi là “Chính phủ Ngụy” mới là đúng sao?”



***
Về những tranh cãi về ngày 30-4-1975, Bác sĩ trẻ Dat Nguyen nhắn tin fb: “Cháu chào chú… Ông Tùng chắc có ông Phúc bảo kê. 30/4 chú không đánh cái đám lật sử làm loạn nữa ạ. Quân Ủy tw ra kết luận mà chúng vẫn làm loạn”. Đông La: “Chửi mãi cũng mỏi mồm”. Bạn Minh Tâm Lê, Kỹ sư Điện - điện tử Đại học Bách Khoa, nhắn tin: “Thấy ông Vũ Đăng Toàn nói không đúng sự thật trên sóng VTV vừa nãy, mong anh đấu tranh đến cùng”. Đông La: “Nhiều sai trái quá o viết hết được”. Bạn Trịnh Tuấn Kiệt nhắn tin: “Có "tiến sĩ" viết thế này bác ạ” về chuyện Hien Cao Dac viết sai hoàn toàn về 30-4-1975.
Dưới bài SỰ THẬT LỊCH SỬ QUA CÁC CUỘC TRANH CÃI VỀ NGÀY 30-41975, rất nhiều người đồng tình với tôi, trong đó có những người có trình độ và từng trải, như Bác sĩ Thang Canh Co Bay viết: “Rất hay và rất chuẩn xác! Nhà văn lẽ ra đưa sớm đầu tháng 4 thì tuyệt vời”; Đại tá Nguyen Huu An: “Thời gian càng lùi xa các nhân chứng trực tiếp nhất cứ khuất dần nên vừa qua có nhiều vị được truyền thông phỏng vấn thì bốc phét, bịa đặt một cách trắng trợn làm sai lệch sự thật lịch sử nhiều quá. Trên truyền thông năm nay chủ yếu nhắc nhiều đến kip xe 390 và ông Bùi Tùng chứ không thấy nhắc gì đến e66/f304 và các CCB e66 và anh Thệ hay kíp xe 843 và nhiều nhân chứng quan trọng khác… không đúng như kết luận của TV QUTU”; v.v…
Dù vậy, tôi rất ngạc nhiên khi anh Phùng Huy Thịnh, một Đại tá Nhà báo, từng liên hệ tỏ ra rất quý mến tôi, nhiều lần thích và nể trọng tri thức của tôi, mong có dịp chúng tôi gặp nhau, lần này anh lại viết: “Tôi, phóng viên báo Chiến sĩ Giải phóng Quân đoàn 2 Khẳng định: riêng vấn đề này, ông không tường tận rồi, Hùng ạ!”. Tôi trả lời: “Phùng Huy Thịnh, ông viết cụ thể ra đi, gởi cho tôi biết, tôi sẽ có ý kiến”.
Phạm Dan bình luận: “… các sự kiện đã tạm "yên ổn" theo quyết định bằng văn bản chính thức của Quân uỷ TW, nhưng tâm tư, lòng người của một bộ phận CCB đánh Mỹ chưa thoải mái thật sự. Do vậy không nên khơi lại sự kiện, hãy để cho nó "yên ổn" mãi mãi…”. Đông La: “Phạm Dan, cái chính là bọn lưu manh, xuyên tạc lại không để yên, chúng nó tuyên truyền trên các báo, làm phim chiếu trên các đài truyền hình, thực ra đã vi phạm luật hình sự, cần phải điều tra, xét xử thì mới không có chuyện nói láo”. Phạm Dan: “ Nguyễn Văn Hùng, Mình cung bức xúc như bạn, nhưng hãy khép lại thôi. Miệng đời thế gian không bao giờ ngăn cấm được … mình quý mến bạn, ủng hộ bạn, song việc này nên khép lại thôi”.
***
Trong thực tế có chuyện đúng là “hai năm rõ mười” cần phải khép lại. Như cuốn “Nỗi buồn chiến tranh”, tự Bảo Ninh nói mình viết sai sự thật: bộ đội hiếp dâm; hành lạc tập thể; bài bạc, hút xách; trốn chạy; tàn sát tù binh; “…chém giết cuồng dại, méo xệch tâm hồn và nhân dạng. Thói hiếu sát. Máu hung tàn. Tâm lý thú rừng…”. Khi trao giải thưởng cho nó, bị dư luận phản ứng dữ dội, Lãnh đạo HNV VN đã phải viết kiểm điểm, Vũ Tú Nam, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Khải phải nhận lỗi, chỉ ra cụ thể những cái sai, vậy mà Nguyễn Quang Thiều vẫn cho là “chạm vào mẫu số chung nhân loại”; và đến nay, Trần Đình Sử và Trần Đăng Suyền là hai GS Văn học vẫn khen hết lời NBCT thì tôi không thể kìm nổi sự căm giận và khinh bỉ trình độ của họ, nên đã buộc phải gọi họ là “Bọn GS Văn mất dạy!”
Quả thực, những sai trái liên quan đến tư tưởng, tình cảm con người rất nguy hiểm. Trong khi những gì cao quý, tốt đẹp quý hiếm như nhân sâm, linh chi thì những sai trái của bọn lưu manh, ngu dốt lại nhiều và dễ sinh sôi như cỏ dại, như sâu bọ, như ruồi nhặng, chúng dễ phát tán như covid-19 vậy. Vì vậy, cần phải tầm soát như tầm soát gen đột biến, cần phải phẫu thuật như phẫu thuật khối u, tức cần phải phanh phui ra , để nhận diện, để điều trị, chứ không phải như góp ý của anh Phạm Đan là “khép lại”.
Sau 30-4, tôi sẽ đăng lại loạt bài về chuyện này.

29-4-2025
ĐÔNG LA

SỰ THẬT LỊCH SỬ QUA CÁC CUỘC TRANH CÃI VỀ NGÀY 30-41975

 SỰ THẬT LỊCH SỬ QUA CÁC CUỘC TRANH CÃI VỀ NGÀY 30-41975




Sáng nay, tôi được Ban Liên lạc CCB E66, Sư 304, QĐ2 mời đến dự Lễ Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng MN, Thống Nhất đất nước: 30-4-1975 – 30-4-2025. Với tôi, tất cả những cán bộ chiến sĩ trong nhóm Đại uý Phạm Xuân Thệ sáng 30-4-1975, sẵn sàng chấp nhận hy sinh, vào Dinh ĐL hang ổ quân địch, bắt sống đầu sỏ, đều xứng đáng được phong anh hùng.

Còn một bài trong chuỗi bài “Lịch sử thành văn” tôi sẽ đăng đúng vào ngày 30-4, hôm nay, sau khi rửa mặt cho đội quân anh hùng do bị Bảo Ninh bôi đen bằng văn chương và được bọn thầy trò văn chương mất dạy tung hô, tôi đăng lại chuyện tranh cãi quanh ngày 30-4-1975, để chỉ ra sự thật lịch sử, để tiếp tục “rửa mặt” cho những người anh hùng trong ngày 30-4-1975.
28-42025
ĐÔNG LA

Nguồn gốc gây ra sự tranh cãi xung quanh ngày 30-4-1975 là do sau Ngày Giải phóng, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 đã ghi hết công lao cho ông Bùi Tùng, cho xe tăng 843 vào Dinh Độc lập đầu tiên chứ không phải xe 390. Đến khi xuất hiện những tranh cãi, với mục đích tôn trọng sự thật lịch sử, sau quá trình xem xét của các cơ quan lãnh đạo, Viện Lịch sử Quân sự đã được giao tổ chức nghiên cứu, chỉnh sửa. Trong cuộc toạ đàm ba mặt một lời ngày 19-10-2005 ở Dinh Thống Nhất, ông Bùi Tùng đã không phản bác, nhưng sau đó ông lại gặp và trả lời những nhà báo, đạo diễn phim tài liệu để rồi họ phát tán những thông tin sai sự thật trên báo, đài, gây ra sự mâu thuẫn và sai trái trong nhận thức của người dân về ngày lịch sử 30-4-1975 dai dẳng đến tận hôm nay!
Về ngày 30-4-1975, tôi đã phải đọc, xem, nghe hàng ngàn trang tài liệu. Tôi thấy thú vị nhất là lời anh Bùi Quang Thận nói trong cuộc toạ đàm ở Dinh Thống nhất. Lời anh Thận đã chỉ ra nhiều cái sai được thông tin lặp đi lặp lại, nghiễm nhiên trở thành sự thật lịch sử.
***
Về hành trình xe tăng 843 của anh Bùi Quang Thận, theo lời của anh kể, xe anh qua cầu Thị Nghè đã rẽ trái ở ngã 4 đầu tiên, đến đầu đường Thống nhất (Nay là Lê Duẩn) có cổng Sở thú (Thảo cầm viên), gặp một phụ nữ chỉ đường thì Dinh ĐL đã ở phía trước mặt, màu trắng, hiện lên xa xa như sau rừng cây. Vậy mà Đại tá Nhà văn Nguyễn Khắc Nguyệt là người trực tiếp chiến đấu trong đội hình Lữ đoàn xe tăng 203 viết xe Bùi Quang Thận rẽ trái ngã tư thứ 6 thì gặp người phụ nữ hỏi đường, Bùi Quang Thận thấy Dinh Độc lập là “ngôi nhà mầu trắng thấp thoáng phía xa”. Như vậy là sai, vì ai ở SG cũng biết, nếu vượt qua 6 ngã tư thì đến đường Pasteur, rẽ trái thì thấy Dinh Độc lập đã sừng sững trước mặt rồi!
Trong Cuộc Toạ đàm tại Dinh Thống Nhất, anh Bùi Quang Thận kể, khi đến cổng Dinh ĐL, xe 843 của anh đã đâm vào cổng phụ bên trái (theo đường tiến quân) 3 lần thì “cái cánh cửa giữa bung ra thì xe đ/c Toàn mới chạy đường ngang đến… Xe đ/c Toàn vào Dinh ĐL trước chứ còn không hề húc”.
Như vậy, xe 843 là xe đầu tiên húc “bung” cổng Dinh ĐL mới chính là chiến công, đột phá, mở cửa. Bản báo cáo thành tích để khen thưởng, tặng thưởng huân chương do chính ông Vũ Đăng Toàn, trưởng xe 390, Bí thư chi bộ, Chính trị viên đại đội viết, theo lời anh Thận: “không hề có xe 390, bởi vì không phải thành tích của anh ta… ”.
***
Còn chuyện ông Vũ Đăng Toàn, trưởng xe 390, kể mình vào dinh, gặp Tướng Nguyễn Hữu Hạnh dẫn đi bắt DVM, đã “dồn Nội các DVM”, rồi thấy Phạm Xuân Thệ đến “báo cáo Tổng thống”. Nhưng anh Bùi Quang Thận kể, sau khi xe của Vũ Đăng Toàn và của anh vào trước Dinh ĐL: “Lẽ ra đồng chí phải vào yểm trợ tôi chứ, đằng này đồng chí lại nằm trong xe kín mít”. Đặc biệt, có mấy tấm ảnh làm chứng, chụp Tướng Nguyễn Hữu Hạnh dẫn nhóm anh Phạm Xuân Thệ đi bắt Nội các DVM, chứng tỏ ông Nguyễn Hữu Hạnh không thể phân thân làm hai để mà dẫn Vũ Đăng Toàn đến gặp DVM trước được, tức Vũ Đăng Toàn đã nói sai.
***
Trần Đăng Khoa cũng là người đã châm ngòi nổ khi cho rằng Phạm Xuân Thệ là Lý Thông cướp công Thạch Sanh Bùi Tùng. NHÂN 30-4-2020, Trần Đăng Khoa đã viết “NHĂC LẠI VIỆC ÔNG THỆ ÔNG TÙNG” trên facebook:
“Tôi nghĩ ông Tùng có đóng góp rất lớn, người thảo thư đầu hàng cho TT Dương Văn Mimh, thảo thư chấp nhận đầu hàng và trực tiếp đọc lời chấp nhận đầu hàng thay mặt Quân GP. Tất cả đã rõ… tôi lại phải bàn trong tạp chí Hồn Việt… cũng vì ông Phạm Xuân Thệ vẫn một mực khẳng định vai trò lịch sử của mình, chứ không phải đại tá Bùi Văn Tùng”.
Trần Đăng Khoa khẳng định như vậy vì tin vào “nhân chứng thứ ba”, nhà báo Đức Borries Gallasch; điều thứ hai, Trần Đăng Khoa cho là anh Phạm Xuân Thệ không thể “trèo lên đầu” ông Tùng được, ông Tùng là cấp trên”.
Từ đó, TĐK đã “rất hỗn” khi nhắn nhủ Trung tướng Phạm Xuân Thệ, một người anh hùng, như thế này:
“Và thế cũng vinh hạnh lắm rồi. Đời một người lính trận, có được kỳ tích như vậy, lại lên được đến trung tướng, được tuyên dương Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân là quá vinh quang rồi, đừng nhận những gì không phải của mình. Điều đó rất không hay. Nếu người ta không biết, thì có thể nhận nhằng, dù là “tạo nghiệp”, chẳng hay ho gì, nhưng mọi người đều biết cả, người ta còn đưa ra những bằng cớ rất rõ ràng, mà vẫn cứ cãi lấy được thì không thể chịu nổi. Mà thôi, kẻ tranh công theo kiểu Lý Thông thì thời nào cũng có, chẳng bàn làm gì, nhưng Viện Lịch sử quân sự thì phải khách quan. Chính vì thiếu sự khách quan mới có chuyện lùm xùm”.
Đặc biệt Khoa còn cho cả một cơ quan nghiên cứu lịch sử của quân đội thiếu khách quan trong “Cuộc tọa đàm khoa học về một số vấn đề xung quanh sự kiện đánh chiếm Dinh Độc Lập ngày 30-4-1975” của Viện Lịch sử quân sự Việt Nam ngày 19/10/2005, và thật liều lĩnh cho công trình nghiên cứu trọng đại về lịch sử như “chia xôi thịt”:
“… khi tổ chức cuộc hội thảo, ông Thệ lại là trung tướng - Tư lệnh Quân đoàn, còn ông Bùi Văn Tùng chỉ là đại tá đã về hưu, lại là cấp dưới ông Thệ rất xa, vì thế mới có sự nhập nhèm, nên Viện Lịch sử quân sự mới có kết luận theo kiểu vui vẻ cả, như chia xôi chia thịt trong mâm cỗ làng: Ông Thệ thảo thư đầu hàng, ông Tùng thảo thư chấp nhận đầu hàng, hoặc lằng nhằng hơn, cả hai người cùng soạn thảo”.
***
Tôi đã chỉ ra nhiều sai trái ngây ngô của Trần Đăng Khoa.
Trần Đăng Khoa từng đi gặp trực tiếp Bùi Quang Thận, nghe anh kể, rồi viết báo rằng, anh chiến sĩ Bùi Quang Thận chạy lên bậc tam cấp Dinh ĐL, vì nhà quê, không biết cái văn minh của tư bản, đã húc đầu vào tường kính trong suốt, ngã lăn quay. Sự thật, anh Thận kể mình vào Dinh, chạy lên tầng trên, rồi chủ động húc đầu vào vách tường kính để “đánh động”, để DVM ra, bắt ông ta dẫn anh đi treo cờ.
***
Đại tá Nhà văn Nguyễn Khắc Nguyệt là người trực tiếp chiến đấu trong đội hình Lữ đoàn xe tăng 203 cũng viết sai khi cho ông Bùi Văn Tùng, tại dinh Độc Lập, đã bắt Dương Văn Minh và quyết định đưa Dương Văn Minh ra Đài phát thanh để tuyên bố đầu hàng. Trong Hồi ức của Thượng tướng Nguyễn Hữu An, Tư lệnh QĐ2, đơn vị chiếm Dinh Đl, công nhận công trạng bắt Nội các DVM của nhóm anh Thệ. Nguyễn Khắc Nguyệt cũng viết sai so với lời của những nhân chứng nhà báo Hà Huy Đỉnh, Borries Gallasch, đại đội trưởng thuộc trung đoàn 116 đặc công Phạm Duy Đô, cơ sở tình báo, kỹ sư Tô Văn Cang. Bản thân ông Bùi Tùng cũng viết và nói rằng mình là cấp cao nhất nên đã chỉ huy mọi chuyện sáng ngày 30-4, nhưng xem ảnh chụp và video thì thấy nhóm anh Phạm Xuân Thệ đã bắt Nội các DVM, và còn có đoạn video chính miệng ông Bùi Tùng nói lúc ở trong Dinh ĐL, ông không biết Phạm Xuân Thệ, vậy ông chỉ huy ai? Chỉ huy cái gì?
Nguyễn Khắc Nguyệt cũng sai khi viết ông BT quyết định đưa DVM sang đài phát thanh để tuyên bố đầu hàng. Nhóm anh PXT mới chính là những người sau khi bắt DVM đã quyết định đưa DVM sang đài phát thanh, rồi soạn văn bản tuyên bố đầu hàng cho DVM, ông Bùi Tùng đến sau, đã tham gia và hoàn tất văn bản, rồi đưa cho DVM đọc.
Nguyễn Khắc Nguyệt cũng bịa đặt hoàn toàn khi viết về xe 843, sau khi chết máy vì húc không đổ cổng phụ dinh Độc lập, đã khởi động lại được, và: “Trong xe 843 Hoả… lao vào sân dinh… Hoả tăng ga cho xe 843 chạy song song với xe 390. Hai chiếc xe như hai người lính cận vệ hai bên cho người đại đội trưởng của mình”. Đây là cảnh hoàn toàng tưởng tượng của ông Nguyệt.
***
Tôi cũng đã viết bài NHỮNG SAI TRÁI CỦA NHÓM PHẠM VIỆT TÙNG, TRẦN ĐĂNG KHOA LIÊN QUAN TỚI BỘ PHIM “CHUYỆN THẬT 30-4-1975”. Mục đính chính của Phạm Việt Tùng và nhóm làm phim là muốn chứng minh ông Bùi Tùng có mặt ở Dinh ĐL, anh Phạm Xuân Thệ và ông Bùi Tùng đã biết nhau ở Dinh ĐL, nên anh Thệ cấp thấp hơn phải chịu sự chỉ huy của ông Bùi Tùng ở cả Dinh ĐL lẫn ở Đài PT, nghĩa là công trạng trong ngày 30-4-1975 sẽ thuộc phần ông Bùi Tùng hết!
Nhưng chính bộ phim lại chiếu đoạn video quay ngay sau 30-4-1975, trong đó ông Bùi Tùng xác nhận công trạng anh Phạm Xuân Thệ cùng mình “đưa TT Dương Văn Minh sang Đài PT SG” chẳng khác gì đã tố chính ông Bùi Tùng. Vì sau 15 năm, khi viết báo cáo, ông đã cho rằng vì ông ấy quân hàm cao nhất nên đã chỉ huy mọi chuyện, công trạng thuộc về mình, và ông đã quên luôn tên anh Phạm Xuân Thệ.
***
Nhóm bênh vực ông Bùi Tùng hay đưa Borries Gallasch ra nhưng lại cố tình cắt xén và diễn dịch sai ý của Nhà báo Đức. Về chuyện Phạm Xuân Thệ bắt DVM, Borries Gallasch đã viết rất rõ:
“Là một người châu Âu duy nhất, là một nhà báo duy nhất, tôi chứng kiến Đại tướng Minh “lớn” - tổng thống của VN cộng hòa, đã bị bắt bởi Phạm Xuân Thệ, chỉ huy của đoàn Đông Sơn thuộc quân đội giải phóng. Tay cầm súng ngắn đã lên đạn, một khẩu K54 của Nga, Thệ rất phấn khích la lớn yêu cầu ông Minh ra đài phát thanh”.
Còn lời của ông Bùi Tùng trong bộ phim của Phạm Việt Tùng, Trần Đăng Khoa cũng như một lời thú nhận ông không có vai trò gì trong việc chỉ huy bắt Nội các DVM sáng 30-4-1975:
“… xe đầu tiên ấy thì ông Minh, ông Mẫu, rồi sau này tôi biết là có anh Thệ đi kèm cái xe đó. Tôi đi xe sau thì có nhà báo Bô-rit Ga-lat Tây Đức và anh Hà Huy Đỉnh đi cùng”.
Ông Tùng không biết anh Thệ lúc đó thì chỉ huy gì?
***
Đặc biệt, suốt mấy chục năm, báo chí, truyền hình, sách sử đều mặc nhiên tin tưởng và nghe theo lời Nguyễn Hữu Thái kể là mình đã dẫn anh Bùi Quang Thận lên nóc dinh treo cờ, để rồi ba người Bắc-Trung-Nam: Bùi Quang Thận-Nguyễn Hữu Thái-Huỳnh Văn Tòng “chứng kiến giây phút thiêng liêng: đất nước đã hoà bình, thống nhất”. Sự thật, anh Thận kể, người dẫn mình lên nóc dinh treo cờ chính là Lý Quí Chung (sau là Nhà báo Chánh Trinh), trùng khớp với lời kể của chính Lý Quý Chung, và có lần hai người còn gặp lại nhau kể chuyện treo cờ cho một hãng truyền thông.
***
Đặc biệt, ngày 14/3/2022, Thường vụ Quân ủy Trung ương, gồm sáu vị: Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư QUTƯ; Nguyễn Xuân Phúc, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước; Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ; Thượng tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư QUTƯ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Đại tướng Lương Cường, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã có Kết luận số 974-KL/QUTW:
"Vào thời điểm trưa ngày 30/4/1975, sau khi trực tiếp chỉ huy việc áp giải Dương Văn Minh đến Đài phát thanh Sài Gòn, tại đây, đồng chí Đại úy Phạm Xuân Thệ, Phó Trung đoàn trưởng Trung đoàn 66 cùng các cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 66, Sư đoàn 304, Quân đoàn 2 tổ chức soạn thảo lời Tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh… Văn bản đang được soạn thảo thì đồng chi Trung tá Bùi Văn Tùng, Chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203, Quân đoàn 2 có mặt. Từ đó đồng chí Bùi Văn Tùng cùng bộ phận cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 66 tiếp tục soạn thảo và hoàn chỉnh lời Tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh đọc vào máy ghi âm để phát trên Đài phát thanh."
Một vụ việc sau tranh luận đã được cơ quan lãnh đạo chỉ đạo, các cơ quan có chức trách tổ chức điều tra, nghiên cứu, hội thảo ba mặt một lời, và cuối cùng Thường vụ Quân ủy Trung ương đã ra kết luận như trên, đúng như Viện Lịch sử Quân sự đã viết, như nhóm anh Phạm Xuân Thệ trình bầy, như vậy, kết luận của Thường vụ Quân ủy Trung ương cũng chính là kết luận về sự sai trái của ông Bùi Tùng và những người kết bè bênh vực ông.
***
Từ bộ phim “Chuyện thật 30-4-1975” của nhóm Phạm Việt Tùng, Trần Đăng Khoa, theo dõi cả quá trình ta thấy để chống lại kết luận của Viện Lịch sử Quân sự đã có sự liên kết của Bùi Tùng, Dương Trung Quốc, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Khắc Nguyệt, Phạm Việt Tùng, Lâm Thành Quý, Nguyễn Hữu Thái, và v.v…
Độc giả đặt câu hỏi, quỹ OBAMA đã xuất hiện tại Việt Nam ủng hộ thái độ chống đối trong các lĩnh vực như lịch sử, văn học nghệ thuật, khoa học xã hội, vậy nhóm Phạm Việt Tùng, Trần Đăng Khoa có liên quan không? Một độc giả khác viết: “Ông Phạm Việt Tùng nói trong phim: “... sẵn sàng chi cả 100 tỷ thì ông ta lấy đâu ra tiền nếu ko phải đã có các thế lực thù địch, phản động bên ngoài chống lưng, hỗ trợ về kinh phí?”

28-4-2025
ĐÔNG LA

Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2025

LỊCH SỬ THÀNH VĂN, Phần 2 GIÂY PHÚT XE TĂNG HÚC BUNG CỔNG DINH ĐỘC LẬP VÀ CỜ GIẢI PHÓNG TUNG BAY TRÊN NÓC DINH

LỊCH SỬ THÀNH VĂN, Phần 2
GIÂY PHÚT XE TĂNG HÚC BUNG CỔNG DINH ĐỘC LẬP VÀ CỜ GIẢI PHÓNG TUNG BAY TRÊN NÓC DINH
Bài trước tôi viết: “Tôi dám nói hai ông GS Suyền và Sử là “bọn GS văn mất dạy” khi ca ngợi BN là vì họ không học lời cha ông ta dạy “chân, thiện, mỹ” là giá trị cốt lõi của văn chương”. Vì chính Bảo Ninh trên Báo Đất việt online từng thú nhận: “… tôi viết trong cuốn sách này… không hoàn toàn là sự thật… Tôi nghĩ thế là quyền của tôi, và có người phê phán tôi thấy cũng chẳng sai”. Trần Đăng Suyền viết NBCT “Có tư tưởng sâu sắc… là kiệt tác… đỉnh cao văn học VN thời đổi mới”, “ông (BN) nhìn chiến tranh qua thân phận con người không lấy sự kiện, biến cố lịch sử làm hệ quy chiếu”. Vậy ta hãy xem Bảo Ninh “quy chiếu” về hình ảnh “anh chiến sĩ giải phóng” là như thế này đây: Hiếp dân lành (chuyện cô Phương bị hiếp tập thể trên tầu, Nỗi buồn chiến tranh, nxb Hội nhà văn, 1991, tr 243) ; hành lạc tập thể (giữa phân đội trinh sát với 3 cô gái trong khu trại tăng gia huyện đội, tr.31); bài bạc, hút xách (hút hồng ma), trốn chạy (nhân vật Can), tàn sát tù binh (tr. 42) …”. Những chiến sĩ chiến đấu để giải phóng đất nước bị xâm lược, Bảo Ninh viết là “…chém giết cuồng dại, méo xệch tâm hồn và nhân dạng. Thói hiếu sát. Máu hung tàn. Tâm lý thú rừng…” (trang 49). Theo Phạm Xuân Nguyên, Bảo Ninh cũng “có công” viết để người nước ngoài hiểu về anh “chiến sĩ giải phóng” sau “chiến thắng vĩ đại” là như thế này: “… Dennis Mansker… khi đọc NBCT. …ông choáng váng và xúc động. Ông viết: "Đây là một bức tranh trung thực và tàn nhẫn đến kinh ngạc về bi kịch của một người lính Bắc Việt bị tê liệt hết nhân tính của mình sau mười năm tham chiến…”. Tôi đã viết: “Bản thân cựu lính chiến Bảo Ninh cũng còn rất khôn ngoan, chẳng có “tê liệt” cái quái gì hết, không hiểu vì cái gì mà ông ta viết để cho người ngoài hiểu đồng đội của mình “tê liệt hết nhân tính” như một lũ súc vật vậy?!”
Trần Đình Sử cũng khen NBCT hết lời nhưng lại trích đoạn nhân vật Kiên của Bảo Ninh ra đi với lời dặn của cha đại ý là “đừng ngu mà chết vì lý tưởng”, cụ thể BN viết: “Nghĩa vụ của một con người trước trời đất là sống chứ không phải hy sinh nó, là nếm trải sự đời một cách đủ ngành ngọn chứ không phải là chối bỏ…, mong con hãy cảnh giác với tất cả những sự thúc giục con người lấy cái chết để chứng tỏ một cái gì đấy” tr. 61).
Trong 2 cuộc kháng chiến vĩ đại để giải phóng đất nước, giành lại chủ quyền dân tộc, ai cũng lo bảo toàn mạng sống, sợ hy sinh thì làm sao có ngày chiến thắng, sao có được một nước VNXHCN ra đời, để ông Sử, ông Suyền được thành “cháu ngoan Bác Hồ”, được đi học, đi dạy, rồi thành GS, Nhà Lý luận phê bình, được học sinh thần phục, được nhà nước vinh danh, để rồi hôm nay viết hươu vượn, nhăng cuội về NBCT.
***
Vậy sự thật hình ảnh “anh chiến sĩ giải phóng” như thế nào? Hôm nay tôi xin đăng tiếp chuỗi bài “Lịch sử thành văn” tôi đã viết về Ngày Lịch sử 30-4-1975.
27-4-2025
ĐÔNG LA
Phần 2
GIÂY PHÚT XE TĂNG HÚC BUNG CỔNG DINH ĐỘC LẬP VÀ CỜ GIẢI PHÓNG TUNG BAY TRÊN NÓC DINH



Đương kim Tổng thống VNCH thời điểm sáng 30-4-1975 là Dương Văn Minh, người mới nhận chức Tổng thống từ Trần Văn Hương vào ngày 28 tháng 4 năm 1975. Dương Văn Minh chính là người mà năm 1963 đã lãnh đạo cuộc đảo chính bắn chết anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm, Cố Vấn Ngô Đình Nhu và xử tử hình “Bạo chúa Miền Trung” Ngô Đình Cẩn. Khi Quân Giải phóng đã tấn công đến Cầu Sài Gòn, Dương Văn Minh buộc phải đọc Tuyên bố “yêu cầu hai bên cùng ngưng nổ súng”. Băng ghi âm được phát trên đài Phát thanh Sài Gòn đúng 9h30 phút.
Dù Dương Văn Minh đã đọc tuyên bố yêu cầu ngưng nổ súng như vậy, nhưng trên đường tiến công của Binh đoàn Thọc sâu của quân ta vẫn bị quân địch chống trả tới cùng.
Sau khi phá tan ổ kháng cự ở Cầu Sài Gòn, lực lượng đi đầu Binh đoàn Thọc sâu của Quân đoàn 2 vượt qua Cầu Sài Gòn. Phó Tư lệnh Hoàng Đan chỉ thị cho Lữ đoàn xe tăng 203 cho Tiểu đoàn 1 đi đầu, Tiểu đoàn 2 bám theo; chỉ thị cho Trung đoàn đặc công 116; Trung đoàn bộ binh 66 bám sát đội hình xe tăng tiến về hướng Dinh Độc Lập; Tiểu đoàn 8 của Trung đoàn 66 có nhiệm vụ đánh chiếm Đài phát thanh Sài Gòn.
Đến gần 10 giờ, mũi tiến công đến ngã tư Hàng Xanh, Ngô Sĩ Nguyên, Pháo thủ số 1 trên xe tăng 390, thấy hai chiếc xe M113 và một đoàn xe ô tô, cũng là lúc anh nghe thấy lệnh của Trưởng xe Vũ Đăng Toàn:
-Mục tiêu!
Ngô Sĩ Nguyên bóp ngay cò súng, các quả đạn bay trúng mục tiêu làm hai chiếc xe M113 toác ra và cháy bùng lên.
Đoàn quân được lệnh tiếp tục rẽ trái tiến lên. Đi đầu là xe tăng 866 của trưởng xe Lê Tiến Hùng, khi xe 390 dừng lại bắn xe địch, xe 843 của đại đội trưởng Bùi Quang Thận đã vượt lên đi thứ hai, xe 390 của Trưởng xe Chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn đi thứ ba. Tiếp theo sau là chiếc xe Jeep chở Đại úy Phạm Xuân Thệ, Trung đoàn phó Trung đoàn bộ binh 66.
Đến Cầu Thị Nghè, một ổ kháng cự của địch có cả xe tăng M41 và xe thiết giáp M113 đã bất ngờ bắn vào đội hình quân ta. Xe 866 dẫn đầu bị trúng đạn. Trưởng xe Lê Tiến Hùng bị thương và một chiến sĩ công binh ngồi trên xe đã hy sinh. Xe 843 của Bùi Quang Thận dừng lại lập tức bắn cháy các xe của địch, dập tắt ổ kháng cự cuối cùng. Xe tăng 390 lại lao lên dẫn đầu. Ngoài Trưởng xe Vũ Đăng Toàn, trên xe 390 còn có Ngô Sĩ Nguyên, Pháo thủ số 1; Lê Văn Phượng, Đại đội phó kỹ thuật kiêm pháo thủ số 2; và Lái xe Nguyễn Văn Tập. Xe tăng 843 đi sau, trên xe 843, ngoài Trưởng xe Bùi Quang Thận có Thái Bá Minh, Pháo thủ số 1; Nguyễn Văn Kỷ, Pháo thủ số 2; và Lái xe Lữ Văn Hỏa.
Các chiến sĩ đều được hướng dẫn trước, qua cầu Thị Nghè, đi qua 7 ngã tư, rẽ trái là sẽ tới Dinh Độc lập. Nhưng lần đầu đi giữa phố phường của một thành phố lớn, san sát nhà cửa, các chiến sĩ bị ngợp, không chỉ có các ngã tư mà còn có các ngã ba, khiến các chiến sĩ không thể nhận diện chính xác thứ tự các ngã tư. Xe 390 đã đi quá đường, vượt qua ngã tư thứ 7 là Hồng Thập Tự-Công Lý (nay là Nguyễn Thị Minh Khai-Nam Kỳ Khởi Nghĩa). Đi khoảng hơn chục mét đến cổng một trường học thấy bảng hiệu ghi là trường Lê Quý Đôn, nhận ra đã lạc đường, Lái xe Nguyễn Văn Tập nói với Trưởng xe Vũ Đăng Toàn:
-Xe mình có khi bị lạc rồi!
Vừa lúc đó có một thanh niên đi ngược tới, Nguyễn Văn Tập ngừng xe, xuống giữ ngay anh chàng lại, nói với trưởng xe:
-Anh Toàn ơi, bảo nó dẫn mình tới Dinh Độc lập.
Chàng thanh niên sợ hãi:
-Các ông cho con về cất đồ.
Chờ một chút thấy chàng trai rẽ vào đường gần đó mất hút luôn, Nguyễn Văn Tập nhớ ra sau lưng mình chính là ngã tư thứ 7, nên anh cho xe lùi ngay lại, “đánh vào tay trái”, rẽ về hướng Dinh Độc lập.
***
Trong khoảng thời gian đó, ở trong xe 843, Bùi Quang Thận cũng không nhớ chính xác thứ tự các ngã tư, đến một ngã tư anh lệnh cho xe rẽ trái, chạy hết một dãy phố đến một ngã ba đầu một con đường lớn, nơi có chiếc cổng sắt lớn dẫn vào một công viên ghi “SỞ THÚ SÀI GÒN”. (Bây giờ là ngã ba Nguyễn Bỉnh Khiêm-Lê Duẩn). Anh ra lệnh dừng xe. Đang bối rối, rất may, từ phía trước, anh thấy một phụ nữ đi xe máy lao tới. Anh ra hiệu cho xe dừng lại, nhưng chiếc xe vẫn lao đi như không biết đến cử chỉ của anh. Anh lập tức bắn ba phát chỉ thiên. Người phụ nữ sợ quá phanh gấp chiếc xe máy chững lại. Trước mắt, anh Thận thấy một phụ nữ khoảng ngoài ba mươi mặt mày tái mét. Chắc chị ta đã kinh hồn bạt vía bởi luôn bị tuyên truyền, khi Việt Cộng chiếm thành phố sẽ có một “cuộc thảm sát đẫm máu”, “sẽ rút móng tay của từng cô gái một vì sơn móng tay”, sẽ bắt và giết hết những đứa con lai của những người phụ nữ quan hệ với lính Mỹ.
Với giọng từ tốn, anh Thận đã trấn an được người phụ nữ, rồi đề nghị:
- Chị chỉ hộ tôi đường vào Dinh Độc Lập.
- Tôi chỉ xong ông cho tôi đi chứ - người phụ nữ vừa nói vừa run.
- Vâng, xong việc, chị hoàn toàn tự do- Anh quả quyết.
- Ông đang đứng trước hướng Dinh Độc Lập đó – chị nói mà không dám chỉ tay - nó phía sau tàn cây như rừng phía cuối đường nầy đó.
Bùi Quang Thận nhìn thẳng, từ đầu đường Thống Nhất, anh thấy Dinh Độc Lập không đồ sộ như suy nghĩ của anh, nhưng nó là khu nhà bề thế như nằm sau rừng cây. Anh lập tức lên xe, lệnh tiến thẳng đến cổng Dinh Độc lập. Qua ngã tư cuối cùng, Bùi Quang Thận thấy Dinh Độc lập sừng sững trước mặt. Xe 843 rú ga vượt qua đoạn đường cuối tới đường Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) ngay trước cổng dinh. Không biết quân địch trong Dinh thế nào, Bùi Quang Thận lệnh cho Pháo thủ Thái Bá Minh bắn pháo lên trời để thị uy, nhưng Minh bóp cò 2 lần đạn vẫn không nổ. Minh hét bảo Pháo thủ 2 Nguyễn Văn Kỷ thay đạn, và đó cũng là lúc Lái xe Lữ Văn Hỏa đã lái xe đến gần cổng Dinh có những hàng rào kẽm gai và chướng ngại vật. Bùi Quang Thận hô:
-Cứ lao thẳng vào!
Vì xe đang chạy nhanh, lại tránh chướng ngại vật, xe lạng sang phía trái về phía cổng phụ, Lữ Văn Hỏa vội kéo cần lái phải, chỉnh thẳng hướng, đâm xe thẳng vào cổng. Phải đâm ba lần cánh cổng chính Dinh Độc lập mới bật ra, lần thứ 3, bánh xe đâm vào trụ cổng trái rất vững, làm xe chết máy, dừng lại.
***
Lúc này, xe 390 từ hướng Đường Công Lý cũng vừa chạy đến. Lái xe Nguyễn Văn Tập thấy xe 843 dừng lại trước cổng phụ, nói với Trưởng xe Vũ Đăng Toàn:
-Bây giờ thế nào?
Vũ Đăng Toàn quát, giọng hơi gắt:
-Tông vào đi chứ còn thế nào nữa!
Tập lập tức nghiến răng kéo cần lái phải, đánh vuông góc, chỉnh đầu xe đúng giữa, húc tiếp vào hai cánh cổng chính đã bung ra, chạy vào sân Dinh, thực hiện một “đường cua” đẹp nhất trong cuộc đời lái xe tăng của anh. Pháo thủ Lê Văn Phượng, lúc xe ở ngay trước cổng, đứng trên tháp pháo, anh nhìn thấy thấp thoáng một nhà báo cầm máy ảnh, chạy lom khom trong sân Dinh. Đó chính là nữ nhà báo người Pháp Francoise Demulder, người đã chụp được khoảnh khắc lịch sử, chiếc xe tăng 843 sau khi húc bung cổng chính, chết máy nằm ở cổng phụ bên trái; xe tăng 390 húc tiếp cổng chính, đúng khoảnh khắc đang vượt qua cổng vào sân Dinh Độc lập. Nguyễn Văn Tập tiếp tục rú ga cho xe chạy nhanh vòng qua phía phải bồn có đài phun nước đến cửa dinh, rồi dừng lại. Pháo thủ Ngô Sĩ Nguyên cầm AK nhảy ngay xuống xe thì thấy một người chạy lại nói:
-Vừa rồi tôi không cắt cầu dao điện bánh xe thì xe của anh chắc cháy rồi!
Nguyên trả lời:
-Cảm ơn nhé!
Người đàn ông đó chính là Lê Văn Hinh, một tình báo viên với mật danh H5. Trong vai “thiếu úy cảnh sát dã chiến”, từ ngày 18/4, anh đã được cử vào làm bảo vệ khu vực Dinh Độc lập. Sáng ngày 30/4/1975, anh biết đoàn xe tăng của quân giải phóng sẽ không thể húc đổ cổng được vì tất cả hàng rào đã bị cài điện. Khoảng 10 giờ 30 phút, ông đã tìm gặp ngay viên thiếu tá cảnh sát, người đang giữ chìa khóa hệ thống điện trong Dinh Độc lập, khôn khéo thuyết phục “người anh em” ngắt toàn bộ cầu dao trung tâm điều khiển điện của hàng rào. Vì vậy, đoàn xe tăng của quân giải phóng đã húc đổ cổng chính và cổng phụ, an toàn tiến vào sân dinh.
Cũng vào lúc xe 390 vừa ngừng, Trưởng xe Vũ Đăng Toàn định cầm cờ nhảy xuống xe, lên cắm cờ, Lê Văn Phượng vỗ vai Toàn:
-Thôi anh, đã có đồng chí Thận đang cầm cờ chạy theo xe mình vào kia rồi!
Toàn nghe Phượng, ở lại xe, lệnh cho anh em sẵn sàng chi viện cho anh Bùi Quang Thận cầm cờ tiến vào Dinh.
Còn Bùi Quang Thận, trước đó ít phút, khi xe 843 chết máy, kẹt lại cổng phụ của Dinh, anh quyết định thoát ly khỏi xe, chạy bộ vào cắm cờ. Anh giao nhiệm vụ cho các đồng đội chi viện cho mình và dặn: “Các cậu ở lại, mình vào Dinh. Nếu không thấy mình quay ra, cũng không thấy lá cờ này nhô lên, thì tức là mình đã chết ở trong Dinh rồi!”


Bùi Quang Thận vượt qua các bậc tam cấp, lao vào trong Dinh, từ ngoài trời nắng tháng tư như đổ lửa, anh thấy mát rượi. Chân anh mang dép cao su, mặc áo ngắn tay, đầu đội mũ xe tăng, trên xe nhiều vũ khí nhưng anh vội, không mang một thứ gì, chỉ rút cái ăng-ten có cờ giải phóng là chạy vào. Theo cầu thang ở chính giữa sảnh, anh leo đến tầng 2, thấy người lố nhố. Bất chợt anh cũng thấy sợ khi một mình, tay không vũ khí, chạy vào hang ổ quân địch. Anh nghĩ giá có vũ khí thì cũng yên tâm hơn. Rồi anh nghĩ bụng “Bây giờ tốt nhất là bắt một người dẫn mình đi cắm cờ”. Với cách nghĩ của một chàng trai nông dân, học mới lớp 7, “ít chữ, ngắn học”, như sau này chính anh kể, anh đã húc đầu vào tấm kính ngăn phòng, đánh động, để Dương Văn Minh đi ra. Cái húc khá mạnh, khiến anh bị choáng, ngã ngồi xuống, một lát anh tỉnh ngay lại, phải băng đầu. Anh thấy đi ra một người, chính là Nguyễn Văn Diệp, Tổng trưởng tài chính, được lệnh ra đón quân giải phóng. Anh nghĩ bụng, bây giờ phải túm lấy tay anh ta ngay, đòi gặp Tổng thống DVM, bắt được DVM là mình sẽ an toàn. Anh nắm chắc lấy tay ông Diệp, quát to:
- Cho gặp Dương Văn Minh ngay.
- Vâng, vâng... để tôi vào báo tổng thống - giọng ông Diệp run run.
Phía Nội các Dương Văn Minh, khi xe tăng vào Dinh Độc Lập, đang ở trong phòng. Ông Lý Quí Chung, Tổng trưởng thông tin, thấy tiếng chân người vang dội trong sảnh, và nghe rõ tiếng hô to: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Người bước ra khỏi phòng trước tiên là Tổng thống Dương Văn Minh. Lý Quí Chung bước theo. Vừa bước ra hành lang ông thấy ở đầu kia có người bộ đội cầm cờ và hô to: “Mọi người giơ tay lên!”. Ông Minh, ông Mẫu và mọi người nhất loạt giơ tay. Ra đến đại sảnh, Lý Quí Chung thấy một người bộ đội nói với tổng thống Minh: “Anh chỉ cho tôi đường đi lên để hạ cờ ngụy quyền”. Ông Minh quay sang nói: “Chung, toa hướng dẫn cho người này lên sân thượng”. Sau này ông Chung mới biết đó là anh Bùi Quang Thận. Ông đưa anh Thận đến thang máy để lên sân thượng, những người còn lại theo ông Dương Văn Minh trở lại phòng. Riêng ông Nguyễn Hữu Hạnh ở lại để đón quân giải phóng nơi đầu cầu thang xuống tầng 1. Người ông gặp đầu tiên là Đại uý Phạm Xuân Thệ cùng đồng đội ở Trung đoàn 66, súng lăm lăm trong tay đang lao lên (chi tiết sẽ viết số sau).
Còn Bùi Quang Thận cầm cờ đi theo Lý Quí Chung trong một hành lang dài, rồi rẽ phải đến một thang máy nhỏ. Ông Chung bấm nút mở cửa, mời Bùi Quang Thận bước vào. Anh lần đầu thấy thang máy nên ngần ngừ bước vào, rồi lại quay ra ngay lập tức, nghi ngờ, “Hắn định giở cái trò khỉ gì thế này? Mình đi cắm cờ, nó lại giam mình vào cái hộp bằng inox này sao đi cắm cờ được?” Lý Quý Chung giải thích, "Dạ thưa, ông vào đi. Đây là cái thang máy. Tôi đưa ông đi cắm cờ mà". Anh thấy gã có vẻ thành thật nhưng vẫn cảnh giác, vì không có súng, anh bắt gã vào trước, úp mặt vào tường. Lý Quí Chung bấm nút, thang máy đưa Bùi Quang Thận và ông ta lên đến tầng thượng, ra đến cột cờ, anh thấy lá cờ địch quá to, còn lá cờ của mình chỉ là cờ hiệu trên nóc xe tăng nên quá nhỏ giữa cái không gian lồng lộng của nóc Dinh. Vì lá cờ địch được chằng buộc rất kỹ vào dây kéo nên Bùi Quang Thận phải dùng răng cắn đứt mép rồi xé ra. Lúc này, Trần Đức Tình, chiến sĩ thuộc Đại đội 6, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 9, Sư đoàn 304, QĐ2, cũng đã có mặt trên nóc dinh. Thấy Bùi Quang Thận cứ dứt dứt không đứt, Tình nói:
-Thôi tội gì, tôi có dao đây!
Nói xong, anh cầm dao cắt rời mối nối góc cờ địch với dây kéo.
Gỡ xong cờ địch, Bùi Quang Thận thay lá cờ giải phóng lỗ chỗ vết đạn của mình vào, rồi kéo lên. Bất chợt, anh lại hạ cờ xuống, đưa tay xem đồng hồ, lấy bút thận trọng ghi: 11 giờ 30 ngày 30-4 và ký tên Thận lên góc lá cờ, xong, anh lại kéo cờ lên trở lại.
Cùng lúc Bùi Quang Thận lên treo cờ trên nóc dinh, dưới sân, Đào Ngọc Vân, lái xe jeep của Phạm Xuân Thệ, cũng lấy lá cờ của người đàn ông đi theo chỉ đường, chạy lên ban công phất cờ. Tiếp đó, Đại trưởng Phạm Duy Đô thuộc Trung đoàn 116 đặc công, cũng ngồi trên xe 843 với Bùi Quang Thận, khi xe 843 tiến vào dinh, Phạm Duy Đô đã xuống xe, cũng lao lên ban công, rút lá cờ trong túi ra phất báo hiệu cho các xe tăng tiến vào. Trên ban công, mọi người thường thấy hai người phất cờ là vì như vậy.



***
Lúc này, dưới sân, nhiều xe tăng đã vào sân, dàn đội hình. Các chiến sĩ bộ binh cũng đã vào nhiều, họ gom toàn bộ số lính ngụy đưa vào góc sân dinh và canh giữ những vị trí cần thiết. Còn ngoài đường Thống Nhất, xe tăng, xe bọc thép, xe ô tô chở bộ binh vẫn nối đuôi nhau tiến về hướng dinh. Tiếng súng bắn chỉ thiên mừng chiến thắng của quân giải phóng nổ vang trời. Nhưng vẫn còn lẻ tẻ đâu đó những tiếng súng kháng cự hận thù lầm lạc của những người lính thuộc một chính quyền tay sai bại trận. Từ phía trụ sở Bộ Ngoại giao (nay là Sở Ngoại vụ TP.HCM), những tay súng biệt kích dù 81 đã bắn trúng Tô Văn Thành, chiến sĩ tiểu đoàn 7 bộ binh đang ngồi trên thành xe tăng. Đó là chiến sĩ giải phóng cuối cùng hi sinh ngay trước cổng Dinh Độc Lập.
Còn trong dinh, Phạm Xuân Thệ đang buộc Dương Văn Minh sang Đài Phát thanh SG đọc lời Tuyên bố đầu hàng!
21-6-2020
ĐÔNG LA