GIẢI TRÍ TRIẾT HỌC CUỐI TUẦN: TS NGUYỄN THỊ TỪ HUY:
Đăng lại bài viết hơn chục năm trước về ông Tương Lai, lại nhớ về thời mới ra blog, độc giả vào đọc rất nhiều, sau vài năm đã có hàng triệu người theo dõi trên khắp thế giới. Đọc lại mấy cái “còm” thật thú vị, bạn Hoà Bình cũng là chủ một trang blog viết: “Em nghĩ nếu các giảng viên kinh tế chính trị học và triết học sử dụng bài viết này làm tài liệu tham khảo cho sinh viên thì rất hữu ích”; cuAnhcuEm.net là trang hồi đó của bạn Thanh Tùng, một Kỹ sư Bách khoa, giờ là Đạo Sĩ Chăn Gà trên fb, viết: “bái phục” chú Đông La. Hai chú cháu còn gặp nhau ngoài đời bia bọt. Bạn “nguoi dung giua” cũng khen “Bác giỏi triết thật!” nhưng ý này của bạn mới là ý hay nhất: “Cái sai lầm của đa số người là tưởng vận dụng triết vào mọi việc là dễ…”
Quả thực, trong thực tế hiểu được triết đã khó, vận dụng cho đúng vào thực tế để có ích thì khó hơn, hiểu được, khắc phục được hậu hoạ do những triết thuyết độc hại còn khó nữa.
Vậy hôm nay thứ 7 cuối tuần tôi sẽ “giải trí triết học”, dù biết ít người có thể giải trí được.
Gần đây, qua việc chia sẻ bài viết về khủng bố ở Tây Nguyên, tôi vào trang của một bạn, xem lướt thì bất ngờ khi thấy bạn này viết về chuyện “Triết học là khoa học của mọi khoa học” mà đúng 11 năm về trước tôi đã viết khi viết về cô Từ Huy. Lạ là tôi muốn coi kỹ chút bài viết của bạn đó thì tìm lại không sao tìm ra. Còn cô Từ Huy là một “chiến sĩ dân chủ giả cầy”, tốt nghiệp “TS Văn học hạng ưu” ở Pháp. Bài về triết của tôi đó có bạn Lien Bich “còm” vui vui thế này: “Tôi có biết một giảng viên ĐHYK học Triết chương trình cao học một hôm than thế này:" Hôm qua học Triết ông thầy làm mình có sự hại não nhẹ. Thầy nói rằng, sáng sớm chúng ta nhìn vào gương là mình nhưng không phải là mình lại nhận ra chính mình. Nó không phải là nó và tự nó sẽ phát hiện ra chính nó" . Giảng triết học như vậy thì người ta sợ là phải . Tôi thấy bác ĐL giảng về triết học hay và dễ hiểu vô cùng. Giá mà càng ngày càng có nhiều bạn trẻ quan tâm đến những bài viết của bác ĐL thì lợi biết bao. Bác ĐL luôn đi đến tận cùng của vấn đề nên lý lẽ của bác rất thuyết phục , giúp cho những ai muốn biết đâu là sự thật có được nhận thức đúng , từ đó hành động đúng”.
Vậy hôm nay xin đăng lại.
29-7-2023
ĐÔNG LA
TS NGUYỄN THỊ TỪ HUY:
"Triết học là khoa học của mọi khoa học"?
“Triết học là khoa học của mọi khoa học”? Nếu Từ Huy nói câu này cách nay gần hai thiên kỷ rưỡi thì đúng, còn ở năm 2012 này đặt câu hỏi như vậy thì thực sự “không biết” gì! Còn “thần tượng” triết học của cô, ông Bùi Văn Nam Sơn, đã trả lời cô cho là “Khoa học không có triết học thì mù quáng” không chỉ sai mà còn là nói ngược.
Thủa sơ khai, chữ triết học (philosophy) bắt nguồn từ Hy Lạp: philosophia (φιλοσοφία), theo nghĩa đen, tình yêu trí tuệ (philein = "yêu thích" + sophia = "trí tuệ"). Chữ khoa học từ tiếng Latin scienta, nghĩa là tri thức. Chữ scientia lại do chữ scire mà ra, có nghĩa là hiểu biết. Theo Webter’s New Collegiste Dictionary, “Khoa học” là “những tri thức đạt được qua kinh nghiệm thực tế và nghiên cứu”. Khi nền văn minh còn chưa phát triển, thuật ngữ vì thế mà còn ít, nên tất cả những gì thuộc về sự hiểu biết đã được gọi chung là TRIẾT HỌC, một khái niệm bao gồm cả Triết học và Khoa học ngày nay. Dù đứng chung như vậy nhưng Khoa học vẫn thiên về quan sát, tính toán; còn Triết học thiên về suy ngẫm từ những kết quả của khoa học, nghĩa là khoa học luôn phải đi trước để triết học có cái mà suy ngẫm, như Kant từng nói: “Suy nghĩ không có nội dung là rỗng” (Gedanken ohne Inhalt sind leer). Vì vậy, Bùi Văn Nam Sơn cho Kant nói: “Khoa học mà không có triết học thì mù quáng” là sai. Tôi thấy câu của Kant: “Anschauungen ohne Begriffe sind blind” nên dịch là “Quan niệm mà không có khái niệm thì mù quáng” là đúng nhất. Quan niệm là nhận thức do quan sát, còn chữ Begriffe trong tiếng Anh là terms, tiếng Việt là ngôn ngữ, thuật ngữ; mà thuật ngữ thì chính là khái niệm được khái quát hoá thành lý thuyết của khoa học.
Nhìn vào lịch sử phát triển của khoa học và triết học, ta thấy thực tế không bao giờ “triết học là khoa học của mọi khoa học” với nghĩa Triết học chỉ lối đưa đường cho Khoa học cả. Thậm chí ngược lại. Ngày xưa Triết học thường là sự suy ngẫm của các nhà Khoa học sau những phát minh của họ. Các triết gia chủ chốt trong hành trình của lịch sử triết học đều là các nhà khoa học. Aritstốt (384 – 322 TCN) là một nhà triết học đồng thời là nhà vật lý, nhà sinh học cổ đại. René Descartes (1596–1650), cha đẻ của triết học hiện đại, là nhà toán học. Immanuel Kant (1724 - 1804) là triết gia lớn nhất của thời kỳ cận đại cũng là nhà vật lý, từng đưa ra giả thiết về nguồn gốc vũ trụ. Edmund Gustav Albrecht Husserl (1859 - 1938) là một triết gia sáng lập Hiện tượng học đồng thời là nhà toán học v.v…
Vì thế Triết học, theo định nghĩa của Từ điển Triết học, là “khoa học về các quy luật chung”, nghĩa là một khoa học khái quát, nói nôm na là sự suy ngẫm để rút ra những quy luật chung. Vì vậy nó phải đi sau, bởi nếu không có các quy luật cụ thể do Khoa học phát minh ra thì nó khái quát cái gì? Nhất là trong Duy vật biện chứng, lấy quy luật của vật chất, tức khoa học, làm “chứng để biện luận”.
Sự dẫn đường chỉ lối của Khoa học cho Triết học thể hiện cụ thể nhất trong hai vấn đề xương sống của nhận thức nhân loại sau đây:
Khi Newton đưa ra thuyết hấp dẫn, chính Laplace đã cho rằng vũ trụ là tất định. Từ “từ một tọa độ xác định, người ta có thể xác định được mọi chuyển động xảy ra trong vũ trụ”. Từ điều này, ông đã đi xa hơn nữa khi áp dụng cho cả các quá trình xã hội và hành vi con người, đã đưa ra Quyết định luận máy móc, đồng nhất tính nhân quả với tất yếu, phủ nhận tính ngẫu nhiên, dẫn đến thuyết định mệnh gắn liền niềm tin vào thần linh.
Ngược lại, khi Max Planck phát minh ra lượng tử: Năng lượng của một vật chỉ phát xạ gián đoạn, từng phần một, tức lượng tử. Tiếp theo các nhà bác học đã phát hiện ra bản chất nhị nguyên sóng-hạt của ánh sáng và các hạt vi mô. Từ đó, Heisenberg mới phát biểu nguyên lý bất định, cơ sở của một cơ học mới: Cơ học lượng tử. Nguyên lý này, ngoài ý nghĩa khoa học, còn dẫn tới một quan điểm triết học, một cái nhìn ngược với cái nhìn tất định của quyết định luận Laplace.
Chính từ đây, hai khuynh hướng triết học duy tâm và duy vật đã dựa vào để phát triển tư tưởng theo hai khuynh hướng cũng trái ngược nhau. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khắc phục được sự hạn chế của cái nhìn máy móc theo quyết định luận Laplace, còn triết học duy tâm đưa ra vô định luận.
Như vậy, chính khoa học phát triển nhanh đến mức mà triết học chạy “bở hơi tai” vẫn không kịp. Nên nhà bác học tật nguyền thiên tài S.Hawkingmới nói rằng:
“Đến thời điểm này, đa số các nhà khoa học quá bận rộn vào việc phát triển những lý thuyết để trả lời câu hỏi như thế nào và chưa bận tâm đến việc trả lời câu hỏi vì sao? Mặt khác, những triết gia là những người mà công việc là đặt ra câu hỏi vì sao, lại không đủ điều kiện để thông tuệ được các lý thuyết hiện đại. Ở thế kỷ 18, các nhà triết học xem toàn bộ kiến thức của loài người trong đó có khoa học tự nhiên là thuộc lĩnh vực của họ...? Song đến thế kỷ 19, 20, khoa học trở nên quá toán học đối với những nhà triết học... Các triết gia giới hạn các câu hỏi lại đến mức mà Wittgenstein, nhà triết học danh tiếng nhất của thế kỷ này đã thốt lên: “Nhiệm vụ duy nhất còn lại của triết học là phân tích ngôn ngữ”! (S.Hawking, Lược sử thời gian, NXB Trẻ, tr. 155, Cao Chi, Phạm Xuân Thiều dịch).
Trong một bài khác, đăng cuộc nói chuyện khác giữa hai “anh em” Nam Sơn và Từ Huy, bài “Để biết mình, hãy nhìn vào mắt người khác!”, cũng trên trang phebinhvanhoc của Viện Văn. Nguyễn Thị Từ Huy nói: “…lần trước chúng ta có nói vài điều về Socrates. Bây giờ, có lẽ cần lùi xa hơn để nhớ lại một câu châm ngôn được xem là linh hồn của tư tưởng Socrates cũng như của nền văn minh phương Tây: “Hãy tự biết mình!” (Gnothi seauton)”
Socrates thì tất nhiên là ghê rồi. Có điều tư tưởng của ông đã quá quen thuộc, trở thành hiển nhiên, thành châm ngôn, bây giờ lên mạng bấm một phát là ra tất cả, có cần phải “chuyện trò”, rồi lại còn đăng lên nữa hay không? Cái chính là giờ Từ Huy có “tự biết mình” hay không mới là quan trọng? Nếu không, rồi có khi lại tan nát cả sự nghiệp, thậm chí còn “tiếp bước” đàn anh Cù Huy Hà Vũ vào tù ra tội mà vẫn không “tự biết” được.
Có một thực tế, nhiều người cứ mãi lọ mọ hết công trình này đến công trình khác, chi li, để có vẻ uyên thâm, hàn lâm, ngụp lặn trong đống chữ mốc meo, có thể rất cần cho việc tạo nên những danh xưng ghê ghớm, nhưng có mang lại ích lợi gì cho xã hội không thì thật khó trả lời. Có một nghịch lý, một nhà nghiên cứu có thể biết rất rõ về cái đề tài mình làm trong phạm vi chuyên môn, nhưng thực ra lại không biết nó là cái gì, nó như thế nào trong phạm vi đời sống? Bởi muốn biết nó là cái gì, như thế nào phải đặt nó trong thế so sánh dưới ánh sáng của cả nền tri thức hiện đại. Mà với mấy con mọt sách bị ngộ chữ, sa lầy trong vũng hẹp chuyên môn của mình, thì lấy đâu ra tri thức?
Nguyễn Thị Từ Huy chính là một điển hình cho loại nhà nghiên cứu như thế. Có thể Từ Huy đúng là rất giỏi trong cái luận án TS của mình, và rất xứng đáng được mấy ông Thầy Pháp đánh giá là “tối ưu”, nhưng qua một số bài viết và hành động của cô vừa qua thì cô lại rất ngu ngơ, “không biết” gì. Từ Huy hoàn toàn đúng như mẫu người ngụp lặn trong đống chữ, bàn về câu nói của Socrates “Hãy tự biết mình!” nhưng chính cô lại không”tự biết” gì về mình.
(11-12-2012)
ĐÔNG LA
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
*Từ điển Triết học (NXB Tiến bộ Maxcơva và NXB Sự thật Hà Nội, 1986, bản in tại Liên xô); * http://vi.wikipedia.org/wiki/Immanuel_Kant; *CÂU TRUYỆN TRIẾT HỌC (Nguyên tác : The Story of Philosophy - Will Durant - Trí Hải và Bửu Đích dịch); *GSTS Triết học Hồ Sĩ Quý: Immanuel Kant từ triết học phê phán đến nghiên cứu con người.
BÌNH LUẬN:
Lien Bich
Tôi có biết một giảng viên ĐHYK học Triết chương trình cao học một hôm than thế này :" Hôm qua học Triết ông thầy làm mình có sự hại não nhẹ. Thầy nói rằng , sáng sớm chúng ta nhìn vào gương là mình nhưng không phải là mình lại nhận ra chính mình.Nó không phải là nó và tự nó sẽ phát hiện ra chính nó " . Giảng triết học như vậy thì người ta sợ là phải . Tôi thấy bác ĐL giảng về triết học hay và dễ hiểu vô cùng. Giá mà càng ngày càng có nhiều bạn trẻ quan tâm đến những bài viết của bác ĐL thì lợi biết bao. Bác ĐL luôn đi đến tận cùng của vấn đề nên lý lẽ của bác rất thuyết phục , giúp cho những ai muốn biết đâu là sự thật có được nhận thức đúng , từ đó hành động đúng.
Anonymous • 7 năm trước
Rất mừng khi có nhiều bạn trẻ quan tâm và học hỏi ở bác Đông La. Nhưng bác đừng "truyền" hết cái tính nóng nảy của bác nhé!!!
Nhà em nói đây cũng là một cách tự phê với bản thân mình.
vannguyen •
Kính bác Đông La,
Nghe danh bác đã lâu, giờ mới được biết, quả thật bác là con người đa tài. Bài viết của bác có nhiều thuật ngữ mà cháu, người rất kém, vẫn chưa hiểu. Mong bác có thể bỏ chút thời gian giải thích giùm được không ạ? Vì hai bài viết của bác cùng một chủ đề nên sau đây cháu viết gộp thành các điểm:
1. Bác viết: “Còn cái “cuộc cách mạng Copernicus nổi danh của Kant” đưa ra thuyết “không thể biết” xuất phát từ việc
cho lý tính có tính “an-ti-nô-mi”, tức tách đôi thành
những mặt đối lập: Người ta không nhận thức được vật tự nó (Ding an sich), mà chỉ nhận thức được hiện tượng (Erscheinung) mà nó thể hiện.” “Vật tự nó” (Ding an
sich) theo Kant là gì? “an-ti-nô-mi” theo Kant là gì? “Erscheinung” theo Kant là gì? “Thuyết không thể biết” của Kant là gì? Và Kant trình bày “lý tính có tính “an-ti-nô-mi”, tức tách đôi thành những mặt đối lập: Người ta không nhận thức được vật tự nó (Ding an sich), mà chỉ nhận thức được
hiện tượng (Erscheinung) mà nó thể hiện.” ở đâu?
…
5. Bác viết: “Max Planck phát minh ra lượng tử”. Vậy chữ “lượng tử” ở đây bác hiểu là gì? Và Max Planck “phát minh ra lượng tử” năm bao nhiêu?
Bác là bậc tiền bối, sau khi viết phản biện hay như vậy đối với bài của Từ Huy, thì cháu bác sẽ dành chút thời gian để trả lời cho kẻ hậu bối này. Chân thành cảm ơn bác. Mong sớm nhận
được hồi âm của bác.