Những ngày hôm nay, tin cuốn sách “Trần Đức Thảo – Những lời
trăn trối” được xuất bản và giới thiệu đang lan tràn trên mạng. Trên VOA Bùi
Tín đã viết như sau:
“một cuốn sách tâm huyết, bạch hóa hết những thâm cung bí sử mà ông
được biết, nhằm đền đáp lại nhân dân, với niềm tin rằng nhân dân sẽ hiểu ra
cuộc đời trong sáng của một trí thức chân chính và nhận ra chủ nghĩa Mác và
đảng CSVN cũng như “ông Cụ” và các đồng chí của “ ông Cụ” là tai họa thật sự
của dân tộc, của nhân dân…
Cả Bộ Chính trị 16 người, 200 ủy viên Trung ương đảng CS, và đặc biệt
là hơn 400 viên tướng và hơn 1.000 cán bộ cấp cao khác của riêng ngành Công
an hãy đọc kỹ “Những lời trăng trối” của nhà triết gia Trần Đức Thảo và tự
vấn lương tâm, rút ra nhiều điều bổ ích”.
Từ lâu, tôi đã được biết GS Trần
Đức Thảo qua những lời ca ngợi là “Một
tài năng triết học nổi tiếng thế giới”; “Trần Đức Thảo đã thắng cuộc tranh
luận với nhà triết học nổi tiếng của Pháp là Jean-Paul Sartre” và “Trần Văn
Giàu cho Trần Đức Thảo, người đọc gần hết sách của thư viện Paris, là người
VN duy nhất xứng với cái danh nhà triết học”, v.v…
Một người tài danh như vậy mà
“trăn trối” như trên quả là nguy hiểm. Có điều có đúng như vậy không? Bởi đã
có quá nhiều chuyện người ta đã biến không thành có, đổi trắng thay đen. Còn
về Trần Đức Thảo có đúng là một “nhà triết học” tài năng hay không tôi cũng
chưa biết. Nghe nói đời ông đã quá khổ, chết rồi được bù lại chút vinh quang
thì cũng được, nên tôi cũng không tìm hiểu làm gì. Bởi khi tìm hiểu thì tính
tôi khi thấy có “chuyện” thì lại không im được. Nhưng nay có chuyện xuất bản
cuốn sách trên thì buộc phải tìm hiểu xem sao. Còn tôi thú thật tôi luôn cho
rằng VN có rất nhiều nhà nghiên cứu, học giả mà không có nhà triết học nào cả kể cả Trần Đức Thảo. Cũng như cụ Cao
Xuân Huy mà tôi từng viết bài viết sau đây:
|
ĐÔNG LA
ĐỌC “CAO XUÂN HUY:
NGƯỜI THẦY - NHÀ TƯ
TƯỞNG”
Người biên soạn - Vũ Thanh - trong Lời
nói đầu sách Cao Xuân Huy: Người thầy – nhà tư tưởng (NXB Văn hóa -
Thông tin, H., 2001) giới thiệu: “Để tưởng nhớ công lao của nhà giáo
dục, nhà triết học, nhà nghiên cứu văn học, vị sư biểu của nền Hán học Việt Nam
Cao Xuân Huy và để cổ vũ cho những tư tưởng triết học của ông, tháng 12-1995,
Trung tâm KHXH và NVQG, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tỉnh ủy và Ủy ban Nhân dân tỉnh
Nghệ An… đã tổ chức Lễ kỷ niệm và Hội nghị Khoa học nhân 95 năm sinh (lần
thứ 95 ngày sinh mới đúng - ĐL) của ông.
Cuốn sách
gồm các bài viết của các tên tuổi hàng đầu của nền học thuật Việt Nam, tất cả đều
bày tỏ tình cảm và xưng tụng GS. Cao Xuân Huy.
Giáo Sư Viện sĩ Nguyễn Duy Quý, nguyên Giám đốc Trung tâm KHXH và Nhân văn Quốc
gia viết về tác phẩm “Tư tưởng phương Đông- gợi những điểm nhìn tham chiếu”
của GS. Cao Xuân Huy: “Sáu trăm trang in… được chưng cất, kết tinh từ một tư
tưởng thông tuệ khác thường (tr.16).
GS. Trần Quốc Vượng khâm phục theo một kiểu khác: “Ông già không “giáo sư”
dạy ông trẻ “giáo sư” mà cái thằng tôi nghe thun thút! Thật trớ trêu là cái đời
người” (tr. 59).
PGS.
Bùi Duy Tân viết: “Vị trí sư biểu của thầy CXH càng hiếm quý khi ở thầy nổi
bật một nhân cách cao thượng, lương tâm thanh khiết, tiêu biểu cho cả lớp trí thức
cao học, con em các “thế gia vọng tộc”, dứt khoát từ bỏ phú quý vinh hoa… phụng
sự cách mạng”; “Các môn sinh hãy làm cho Đạo và Đức của thầy hiển dương như Lê
Quát, Phạm Sư Mạnh đối với Chu Văn An; làm cho lời thầy thành sách như Chính Mô
đối với Lữ đường di cảo của Thái Thuận; Củng Uyên đối với Châu Khuê
thi tập của Nguyễn Bảo khi xưa” (tr.70).
GS. Nguyễn
Đình Chú viết: “Tư tưởng phương Đông - gợi những điểm nhìn tham chiếu… Tôi
biết sức mình chưa thể hiểu hết… tôi vẫn muốn coi nó là một hiện tượng đột khởi
trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, tính từ xưa tới nay” (tr.
221); “tôi muốn nói đây là sự im lặng của núi. Núi của tri thức. Núi của trí
tuệ. Núi của sự suy tư, của sự nghiền ngẫm” (tr.222)…
Và
còn nhiều lời ca tụng tuyệt vời của nhiều người nữa không thể kể ra hết trong
phạm vi một bài viết, tôi dành cái vinh dự kết cái phần ca tụng này cho lời của
GS. Nguyễn Huệ Chi, một học trò nhỏ của GS. Cao Xuân Huy, người đã nhọc công
biên soạn cuốn Tư tưởng phương Đông - gợi những điểm nhìn tham chiếu:
“550 trang viết của Cao Xuân Huy…
Là tinh huyết của cả một đời truyền thụ và sáng tạo… Ông như một vầng sáng đã
đi qua lâu rồi nhưng tới nay ánh sáng mới kịp tỏa chiếu” (tr.88); và, cao
hơn hết, tương tự như Phan Ngọc viết: “Việt Nam có triết nhân Cao Xuân Huy cũng
như Trung Quốc có Lão Tử, Trang Tử”. GS. Nguyễn Huệ Chi đã xếp thầy mình
vào bậc thánh nhân khi gọi Cao Xuân Huy là một “người hiền”!
“Tôn sư trọng đạo” là một nét đẹp của văn hóa ứng xử phương Đông, đặc
biệt quan hệ thầy trò đã được tôn thành Đạo: “đạo thầy trò”, rồi nó còn
được dân gian hóa nữa: “Không thầy đố mày làm nên”. GS. Cao Xuân Huy về
tuổi thì ngang với ông nội tôi, khi cụ bắt đầu dạy đại học tôi còn chưa ra đời,
nên cụ là lớp thầy đầu tiên của chế độ mới; với “nhân cách cao thượng, lương
tâm thanh khiết” như PGS. Bùi Duy Tân viết, cụ xứng đáng nhận được sự yêu
quý, kính trọng, tôn vinh của các thế hệ học trò.
Có điều,
nếu đúng là những phát kiến của GS. Cao Xuân Huy đã được “chưng cất, kết
tinh từ một tư tưởng thông tuệ khác thường” như GS.VS. Nguyễn Duy Quý viết
thì không có chuyện gì phải bàn, tiếc là thực tế không phải như vậy. Với độc
giả bình thường chắc sẽ không thể tin nổi GS. Cao Xuân Huy lại sai, rồi một
loạt tên tuổi hàng đầu cũng lại sai theo thầy mình. Nhưng nếu có trình độ và
hiểu được lịch sử khoa học thì sẽ thấy chẳng có gì là lạ lùng cả. Bởi nhân loại
cũng đã từng ngạc nhiên khi thấy lý thuyết của Newton, ngọn Thái sơn của khoa
học cũng sai (chỉ thể hiện rõ ở một phạm vi đủ lớn, như điểm cận Nhật của sao
Thủy đã lệch ra khỏi quỹ đạo thường (Newton) chẳng hạn), cả nhân loại cũng đã
sai khi tin theo giác quan và tin theo ngài: không gian và thời gian là phẳng,
tuyệt đối; mà người chỉ ra cái sai vĩ đại, cái sai của toàn nhân loại đó không
ai khác chính là Einstein – một anh chàng nhân viên hạng ba vô danh!
Ở đây có
chuyện rất lạ, có hai người là GS. Nguyễn Hoàng Phương và GS.VS. Nguyễn Duy Quý
đều từng dạy và học vật lý lý thuyết, riêng GS. Nguyễn Duy Quý còn học triết
nữa, cũng đánh giá cao những phát kiến của GS. Cao Xuân Huy. Chuyện này là một
nghịch lý giống như trong chính ngành vật lý cũng có những nghịch lý như vậy
Trong bài Đọc Tư tưởng
phương Đông - gợi những điểm nhìn tham chiếu, tôi đã viết: “Cụ cho rằng,
vì có cách nhìn tách biệt “không gian”, “thời gian”, nên “đã có những nhà khoa
học như Einstein và những nhà triết học mưu đồ thống nhất hai phạm trù này,
nhưng họ không thành công, vì hai phạm trù này là kết quả của một sự sai lầm cơ
bản trong tư tưởng logic” (Tư tưởng phương Đông - gợi những điểm nhìn tham
chiếu…, tr.77). Cụ cũng cho, do tư duy “chủ biệt” người ta đã “hư cấu”
ra “không gian”, “thời gian”, để rồi cho đó là “những cái trường sở quyết định
sự tồn tại của vạn vật, thậm chí cả Bản thể nữa” (Sđd, tr.116). Và theo
cụ, nếu “thủ tiêu hai cái trường sở hư cấu ấy đi thì chúng ta sẽ nhận thấy một
cách cụ thể rằng cái toàn thể, cái bản thể là cái trường sở trong đó mọi vật
tồn tại cùng nhau và kế tiếp nhau” (Sđd, tr.116).
Đây là những điều mà bất cứ ai hiểu
vật lý cũng không thể chấp nhận!
Ở đây, thứ nhất cụ đã hiểu sai về
thuyết Tương đối, bởi thuyết Tương đối đã cho không gian, thời gian không phải
là bất biến mà là tương đối, cùng phụ thuộc vào chuyển động; chứ nó không
phải là “mưu đồ thống nhất hai phạm trù” Không gian và Thời gian. Thứ hai,
“Không gian” và “Thời gian” là những thực tại, chúng tồn tại khách quan đối với
ý thức con người như cỏ cây, sông núi vậy, chúng là đối tượng nghiên cứu chính
của khoa học, bởi có sự vật hiện tượng nào mà không liên quan đến chúng; và
chúng cũng được triết học phạm trù hóa để khát quát những quy luật chung nhất;
vì vậy, chúng không phải được “hư cấu” ra như ý của GS. Cao Xuân Huy. Còn ý cụ
muốn “thủ tiêu” chúng đi thì sẽ mất tất chứ chẳng còn gì để cụ nhận ra “bản
thể” đâu, bởi nếu có cái “bản thể” như ý cụ đi chăng nữa thì nó cũng phải ở
trong không - thời gian chứ không thể ở bất cứ một nơi nào khác; có điều
không - thời gian tồn tại khách quan, cụ có muốn “thủ tiêu” cũng chả được!
Về tư tưởng
“chủ toàn” và “chủ biệt”, PGS. Phan Ngọc viết: “Cao Xuân Huy
là nhà chủ toàn luận, học thuyết của ông là xuất phát từ chữ “Đạo” trong Đạo
đức kinh… nhưng lại là một người thực chứng am hiểu sâu sắc triết học Tây
phương và Đông phương, quan tâm tới các thành tựu của khoa học hiện đại… chủ
toàn luận cho phép người ta nghiên cứu bản thể một cách khoa học”
(tr.147)...
Trong toàn bộ lịch sử khám phá và nhận thức thế giới liệu đã có hai phương thức
“chủ toàn”, “chủ biệt” làm nên hai nền văn minh Đông, Tây mà phương Tây
thì thấp và sai lầm, còn phương Đông thì cao và đúng đắn không? Rõ ràng là
không có. Thực tế chỉ có một nền văn minh duy nhất được xây nên bởi những nhà
khoa học, nhà tư tưởng, nhà văn hóa, các văn nghệ sĩ ở khắp mọi nơi mà thôi.
Trong nền văn minh đó có thể có những yếu tố mang tính “chủ toàn” độc
đáo thuộc về phương Đông. Còn nói phương Tây có phương thức “chủ biệt”
ngược với phương Đông là điều không có thật, mà phương thức “chủ biệt”
là cái tất yếu của mọi việc nghiên cứu ở bất cứ lĩnh vực vào, từ bất cứ phương
trời nào, không phân biệt Đông Tây, kể cả trong phương thức “chủ toàn”
cũng có tính “chủ biệt”. Cái tính “chủ toàn” đó có lẽ được thể
hiện rõ nhất ở lĩnh vực Đông y và lĩnh vực tu luyện thiền định, tu luyện khí
công. Từ những cách thức chung nhất như bắt mạch, ngồi thiền, hít thở, quán
tưởng, những động tác, tư thế tập luyện… người ta có thể phòng ngừa, chữa
bệnh (đặc biệt tốt cho các bệnh thoái hóa và lão hóa) và khai mở những tiềm
năng đặc biệt của cơ thể con người mà phương Tây không có (nếu sau này có là
chỉ học theo). Tuy nhiên cả nền triết học cổ phương Đông cũng như lĩnh vực Đông
y và tu luyện về đại thể mang tính chủ toàn nhưng chúng cũng chứa những yếu tố
chủ biệt. Bởi trong triết học người ta cũng phải phân rõ ra “âm” - “dương”,
định ra ngũ hành: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, và đưa ra luật tương
sinh, tương khắc cụ thể của chúng. Kinh dịch cũng đưa ra quy luật: thái
cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái,
bát quái sinh vạn vật… Còn trong Đông y cũng phải xác định cụ thể những
đường kinh, lạc, định đúng vị trí các huyệt; các thang thuốc cũng
có những vị, tùy theo mỗi bệnh, được phối hợp với nhau tùy theo tính
chất riêng của chúng và với những khối lượng cụ thể… Tất cả, tất cả những điều
đó đều mang tính phân tích, tính chủ biệt. Còn cứ cho phương Tây có riêng tư
tưởng “chủ biệt” đi thì người ta cũng lại có định luật vạn vật hấp dẫn,
có định luật bảo toàn năng lượng, họ cũng biết con người sống phải phụ
thuộc vào môi trường, và cụ thể hơn, người ta còn biết chất cần thiết nhất cho
con người và động vật chính là ôxy; và người ta còn chỉ ra cơ thể con người
cũng như toàn bộ sinh thể cũng đều được cấu tạo từ những nguyên tố giống như
trong Tự nhiên. Tất cả những cái đó cũng đều mang tính chủ toàn.
Vì
vậy “chủ toàn” chỉ là đôi nét độc đáo của văn minh phương Đông, còn chia
tách rồi khái quát hóa thành hai phương thức “chủ toàn”,“chủ biệt” đối
lập nhau giữa Đông và Tây thì e rằng chính GS. Cao Xuân Huy cũng lại đi vào cái
vết xe đổ chia tách của chính mình.
Theo GS. VS. Nguyễn Duy Quý, Cao
Xuân Huy cho “toàn thể quyết định bộ phận” (tr.17); GS. Vật lý Nguyễn
Hoàng Phương cũng viết: “Ông CXH viết: “Phương thức chủ toàn cho rằng toàn
thể quyết định bộ phận, bao giờ cũng sử dụng phương pháp luận biện chứng, còn
phương thức chủ biệt cho rằng bộ phận quyết định toàn thể” (tr.183).
PGS.
Cao Xuân Hạo: “Quan điểm chủ toàn đẻ ra phương pháp tư duy biện chứng và
tổng hợp; tư tưởng chủ biệt đẻ ra phương pháp tư duy siêu hình và phân tích
tính” (tr.164).
GS. Nguyễn Huệ
Chi trích Cao Xuân Huy: “Nguyên lý chủ đạo của quá trình đó là: Toàn thể
quyết định bộ phận… Chúng ta hẵng gọi cái tư tưởng được xây dựng trên nguyên lý
này là tư tưởng “chủ toàn” (tr. 289).
Nhìn
lại toàn bộ lịch sử loài người, nền văn minh từ thời ăn lông ở lỗ đến ngày hôm
nay rõ ràng là một quá trình đi lên, dù trải qua biết bao khúc quanh gập ghềnh.
Vậy tác động vào quá trình đi lên đó có đúng là theo ý của GS. Cao Xuân Huy “toàn
thể quyết định bộ phận” và chủ toàn là biện chứng và chủ biệt là
siêu hình hay không?
Nếu
chủ toàn cho toàn thể quyết định bộ phận, coi cái chung quyết định cái riêng,
nghĩa là đã coi cái riêng như “cá mè một lứa”, triệt tiêu tính năng động
vốn có của mỗi bộ phận. Điều này có thể sẽ tốt cho sự ổn định, nhưng là một sự
ổn định dẫm chân tại chỗ. Nó cũng giống như thời kỳ kế hoạch hóa áp đặt kế
hoạch chung cho toàn xã hội đã kìm hãm nền kinh tế phát triển vậy. Trái lại,
phương thức chủ biệt coi trọng bộ phận, xác định đúng khả năng và khuyến khích
mọi thành tố thể hiện mình, mọi bộ phận sẽ có điều kiện phát huy khả năng, tất
sẽ phát triển, đồng thời sẽ kéo theo cái toàn thể phát triển. Có lẽ kinh tế thị
trường khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển mang hình mẫu của tinh
thần chủ biệt này.
Theo định nghĩa của triết học, siêu hình coi sự vật, hiện tượng là bất biến,
ngược lại biện chứng coi vận động là phương thức tồn tại và động lực của phát
triển. Vậy phải cho phương thức chủ toàn có tính siêu hình còn phương thức chủ
biệt mang tính biện chứng mới đúng, nên GS. Nguyễn Hoàng Phương và PGS. Cao
Xuân Hạo viết tư tưởng Cao Xuân Huy có tính biện chứng như trên là nói ngược!
Nếu nhìn vào thực tế ta cũng sẽ thấy có rất nhiều dẫn chứng cụ thể và sống động
chứng minh tư tưởng “toàn thể quyết định bộ phận” là nói ngược. Bất cứ
một việc to hay nhỏ nào, người ta thường phải tìm ra “cái chìa khóa” hay
“điểm mấu chốt”, tức tìm ra cái bộ phận có thể quyết định sự phát triển của
cả cái toàn thể. Như Chiến dịch Điện Biên Phủ chẳng hạn, chính quyết định của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp chuyển từ cách “đánh nhanh thắng nhanh sang đánh
chắc tiến chắc” là cái chìa khóa mở ra cánh cửa tới chiến thắng; Chiến dịch
tổng tấn công 1975, đòn điểm huyệt bất ngờ vào Buôn Ma Thuột khiến thế trận
địch đổ vỡ như dãy đô-mi-nô cũng là việc mở một trong những cánh cửa chính đi
tới Ngày Toàn Thắng. Nhìn vào tự nhiên ta cũng sẽ thấy, trong mọi cơ thể sinh
vật thì chính cái gen bé tí trong nhân các tế bào mới là “bộ phận”
quyết định cái “toàn thể” cơ thể, chính từ nó mà làm nên sự khác biệt
giữa các giống loài và lưu giữ mật mã di truyền đến các đời sau. Quá trình sinh
sản, sự kết hợp giữa tinh trùng và trứng thực ra là sự ghép đôi nhiễm sắc thể
của hai nửa tế bào để thành một tế bào mới mang thông tin di truyền của cả cha
mẹ, rồi từ một tế bào gốc đó, tức từ một “bộ phận” bé tí ti đã phân hóa
rồi hình thành nên cả cái “toàn thể” cơ thể. Khi gen bị tác động,
như những người lính bị nhiễm chất độc da cam chẳng hạn, sẽ sinh ra những đứa
trẻ tật nguyền; còn làm đột biến gen có chủ đích và sàng lọc trong sinh
học phân tử, sẽ tạo ra được những giống mới tốt hơn.
Nói
chung, giữa toàn thể và bộ phận có mối liên hệ hữu cơ qua lại tuỳ theo mỗi sự
vật hoặc hiện tượng. Còn cứ nhất quyết chia ra xem hơn thua, thì như chứng minh
ở trên, chính “bộ phận” quyết định “toàn thể” chứ không phải
ngược lại.
PGS.
Cao Xuân Hạo viết: “Con đường phát triển của một nền văn minh xây dựng trên
tư tưởng chủ biệt là một con đường tuyến tính (linénaire); con đường phát triển
của một nền văn minh xây dựng trên tư tưởng chủ toàn là một con đường cầu tính
(sphérique).
Sự
phát triển tuyến tính của văn minh cũng ví như người leo thang, bước lên bậc
trên thì bỏ bậc dưới, càng lên cao càng xa cách cội nguồn, càng xa rời thiên
nhiên, đi đến tình trạng cằn cỗi héo hon. Sự phát triển cầu tính… đi theo con
đường ấy lập lại mô hình phát triển của vũ trụ… Càng phát triển, nó càng thấu
triệt bản thể của vạn vật… không hề xa rời cội nguồn, xa cách thiên nhiên” (tr.164).
Đọc những
dòng PGS. Cao Xuân Hạo viết về sự phát triển cầu tính quả là hay, có
điều nó giống như sự tưởng tượng của văn học viễn tưởng vậy, bởi nó không có
trong thực tế. Nếu coi Trung Quốc là trung tâm phương Đông, nơi sinh ra Lão Tử,
Trang Tử, cái nôi của tư tưởng chủ toàn, cũng không thấy cái hình dạng phát
triển “cầu tính” ở đâu cả. Trái lại, từ thời Trung Quốc cải cách theo tư
tưởng của Đặng Tiểu Bình “không phân biệt mèo trắng hay đen, miễn là bắt
được chuột”, e rằng Trung Quốc đã tăng trưởng nóng, tức “tuyến tính” một
cách cực đoan, còn bức hại thiên nhiên hơn cả phương Tây. Trong khi những nước
như Nhật, Hàn, Sinh theo tư duy chủ biệt của Tây từ lâu, họ đã trở thành những
nước phát triển bền vững, tăng trưởng kinh tế luôn hài hòa với bảo vệ môi
trường, khiến đất nước của họ rất sạch và ngăn nắp. Nghe nói người ta có thể
rửa mặt được ở các con kênh trong thành phố của Hàn Quốc. Còn nói chung, đã
phát triển, dù “tuyến tính” hay “cầu tính”, con người sẽ tiêu pha
hoang phí hơn tất phải bóc lột thiên nhiên nhiều hơn, ảnh hưởng tới môi trường
sống. Vấn đề khí thải nhà kính đang làm tan băng, bão lụt ngày càng hung tợn là
những chứng minh cụ thể nhất.
Trong một bài viết, GS. Nguyễn Huệ Chi đã kể lại duyên cớ đưa ông tới việc biên
soạn và công bố công trình của thầy mình: Năm 1983, ông “có dịp tiếp xúc với
cảo bản có lẽ là độc nhất… Tập cảo bản mỏng manh nát nhàu… chính là một vấn đề
triết học trọng đại: bản thể luận và nhận thức luận về vũ trụ… Nếu từ trước tới
nay chúng ta phân triết học thành duy vật và duy tâm… thì dưới con mắt Cao Xuân
Huy, cách phân chia như vậy… chưa đạt tới tầm cao trong nhận thức bản chất vũ
trụ, và xét cho cùng không tránh khỏi vi phạm lô-gic. Trên bình diện nhận thức
luận mà nói, nhà triết học phải hiểu biết thế giới như một thực thể toàn vẹn
không chia tách, trong “tâm” có “vật”, trong “vật” có “tâm”. Nếu tách “vật” ra
khỏi “tâm” thì làm sao “tâm” biết được “vật” vì chẳng phải tồn tại là do ý thức
mách bảo chứ có tồn tại nào nằm ngoài ý thức mách bảo đâu?... Ngược lại, nếu
tách “tâm” ra khỏi “vật” thì cũng không làm sao giải thích được “tâm” từ đâu mà
sinh ra, vì nói “tâm” là “vật” sinh ra chẳng hóa ra cái không đẻ ra cái có hay
sao? Vì thế, lô gich tư duy yêu cầu phải có một bản thể luận duy vật thông minh,
giúp người ta nhìn vào bản chất tối sơ của vũ trụ một cách đúng đắn, trong đó
vốn đã chứa dựng hai tiềm năng: khoáng thể và sinh thể hay là mầm mống sơ khai
của “vật” và “tâm” rồi. GS. Cao Xuân Huy nói: “Vậy thì cái sinh khí được thêm
vào những yếu tố khoáng vật để tạo thành sinh vật không phải một thực chất do
khoáng vật sinh ra mà là một khả năng đã có sẵn ở trong Toàn thể, trong bản
thể”.
Một
bản thể luận như vậy sẽ cho phép ta giải quyết thỏa đáng các vấn đề vốn rất nan
giải trong nhận thức luận lâu nay, chẳng hạn vấn đề vì sao chủ thể nhận thức
được khách thể? Một khi bản thể vũ trụ là cái chung nhất, tồn tại sâu kín trong
bất cứ vật thể nào, trong cả chủ thể lẫn khách thể, thì chủ thể và khách thể là
đồng thể, đồng chất, và việc chủ thể nhận thức được khách thể không còn
có gì là lạ”
(tr.86-87).
PGS. Cao
Xuân Hạo, người con yêu của GS. Cao Xuân Huy cũng phân tích học thuyết “chủ
toàn” của cha mình:
“Triết
học Lão - Trang không hiểu mối quan hệ giữa các sự vật … là mối dây nối liền…
các sự vật lại với nhau, một cái gì cộng thêm vào sự vật và nằm giữa các sự
vật, mà chính là cái sinh ra sự vật và làm cho sự vật tồn tại và vận động.
Không có mối quan hệ đó thì đơn giản là không có sự vật nữa. Dương sở dĩ
có được là nhờ có âm và ngược lại… chứ không phải là “trong vũ trụ có dương
và có âm” (Sđd, tr.163).
“Triết học
phương Tây cận đại và hiện đại vốn xây dựng trên cái cogito của Descartes: “Tôi
tư duy, vậy thì tôi tồn tại”. Cách lập luận tưởng chừng như nghiêm nhặt này
thực ra xuất phát từ tiên đề tiên nghiệm và sai trái: Tôi là thực thể nằm ngoài
và đối lập với vũ trụ? Hơn nữa, nó lại chứa đựng một lỗ hổng không tài nào lấp
được: nếu tôi biệt lập với vũ trụ, thì làm sao tôi lại có thể nhận thức được
nó?” (tr.166); “Giải quyết vấn đề gọi là cái hiện thực khách quan là
“vật chất” hay là “thượng đế” phỏng có bổ ích gì cho sự hiểu biết của chúng ta
về vũ trụ?” (tr.167).
Cũng như “không gian” và “thời gian”, “tâm”, “vật”
là những thực tại, việc xác định và khái niệm hóa chúng để nghiên cứu giống như
chuyện trong đồng ruộng có lúa, có ngô thì người ta nói có "lúa", có
"ngô", sao lại nói là “vi phạm lô-gic”, là “sai”, là “ngụy
vấn đề”? Còn theo Nguyễn Huệ Chi: “Nếu tách “vật” ra khỏi “tâm” thì làm
sao “tâm” biết được “vật”?”, hoặc theo Cao Xuân Hạo: “nếu tôi biệt lập
với vũ trụ, thì làm sao tôi lại có thể nhận thức được nó?” mà theo Nguyễn
Huệ Chi: “Một khi bản thể vũ trụ là cái chung nhất, tồn tại sâu kín trong…
cả chủ thể lẫn khách thể, thì… việc chủ thể nhận thức được khách thể không còn
có gì là lạ”; và theo Cao Xuân Hạo: “Vũ trụ với tôi là một. Tôi ở trong
vũ trụ, và vũ trụ cũng ở trong tôi, cho nên tôi biết tôi và vũ trụ cùng hiện
hữu, không phải nhờ giác quan, mà một cách trực tiếp, hồn nhiên, ngay lập tức.
Đó chính là cách nhận thức hồn nhiên của trẻ sơ sinh”.
Các
cụ đã nói “Dao sắc không gọt được chuôi”, giống như dù tinh đến mấy ta
cũng không thể nhìn thấy gáy của mình, việc cho “tâm”, “vật” phải
nhập vào nhau thì “tâm” mới thấy “vật” là nói ngược. Trong thực
tế, muốn nhìn thấy bất cứ vật gì phải có khoảng cách nhất định, tùy thuộc thủy
tinh thể điều tiết tiêu cự của mắt sao cho ảnh của vật hiện đúng võng mạc, tế
bào thần kinh thị giác mới nhận được và chuyển thành ý thức, tức là “tâm”;
và với hỗ trợ của kính thiên văn hiện đại, người ta còn có thể thấy được các
thiên hà ở tận biên của vũ trụ xa xôi, cách ta hàng chục tỷ năm ánh sáng nữa.
Còn cái lập luận cho ta nhìn thấy vật là do ta có cùng bản thể với vật, thì tại
sao trong tối cái bản thể còn nguyên đó, sao ta vẫn không thấy gì? Và chắc
những người bị khiếm thị sẽ là chứng nhân sống động nhất phản bác cái “ngụy vấn
đề” mà các vị đã tưởng tượng ra đó! Còn nếu như PGS. Cao Xuân Hạo nói cha mình
không phải nói về cái nhận thức phàm trần mà là nhận thức cái bản thể
huyền diệu chỉ những đứa trẻ sơ sinh mới nhận ra cơ. Nếu đúng vậy thì mỗi giây
thế giới có biết bao đứa trẻ sinh ra đã nhận thức được bản thể thì việc
gì cái Trung tâm Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu (CERN) trong suốt 15 năm, phải bỏ
ra biết bao công sức và trí tuệ, tiêu tốn đến 9 tỷ đôla, chế ra chiếc máy gia
tốc hạt LHC (Large Hadron Collider) với đường kính 3,8 m, chiều dài tới 27 km,
nằm ở độ sâu 100m dưới mặt đất ở khu vực biên giới giữa Pháp và Thụy Sĩ. Nó
được thiết kế để hai chùm proton chuyển động ngược chiều, khi mỗi hạt đạt năng
lượng 7 tỷ tỷ điện tử vôn sẽ va đập vào nhau, tạo thành một quả cầu lửa,
đáp ứng theo cái ước mơ của các nhà bác học đang đi tiên phong trong việc nhận
thức vũ trụ, tái tạo được điều kiện của vụ nổ Big Bang, để rồi xem “cái bản
thể” (tức bản chất tối sơ của vật chất) là cái gì? Và nó đã tạo nên các hạt
cơ bản như thế nào?” (Xin xem trên VietNamNet, 23/11/2009: Chùm
proton đã “lên đường” trong máy gia tốc LHC; Cỗ máy lớn nhất thế giới chuẩn bị
vụ nổ "Big Bang").
Về
chuyện khả năng trẻ sơ sinh nhận thức được bản thể, dường như GS. Cao
Xuân Huy và các vị đã nhầm lẫn cho trạng thái của đứa trẻ “hồn nhiên như
nhiên” giống như trạng thái Giác ngộ của đức Phật trở về “Không” do
thiền định vậy. Cái hồn nhiên của đứa trẻ thực sự là trống rỗng, như tờ giấy
trắng, còn khi ngồi thiền ở thế kiết già, mắt cá chân này luôn điểm
huyệt tam âm giao ở chân kia, cùng với trạng thái thần kinh thư giãn tối
đa khi trở về “Không”, dần dần sẽ hoạt hóa những giác quan tạo ra những
khả năng đặc biệt, như trường hợp người mù nhìn thấy. Riêng tôi tập sơ sơ cũng
đã thấy loại ánh sáng màu xanh mà người ta gọi là khí quang, và cũng có
thể cảm thấy dòng năng lượng làm nóng các huyệt đạo và thấy nó truyền theo các
đường kinh như xung điện vậy. Trường hợp đặc biệt như đức Phật, theo kinh Phật,
khi ngồi thiền liên tục đến 49 ngày (!), đã xuất hiện khả năng siêu phàm, nhìn
thấy các cõi, các kiếp, kể cả các thiên hà xa xôi, v.v… Tôi không
dám phủ nhận những điều huyền bí này, nhưng khoa học chưa kiểm chứng tôi cũng
không thể có ý kiến dứt khoát được.
Trong đoạn phân tích tư tưởng của
GS. Cao Xuân Huy ở trên, Nguyễn Huệ Chi và Cao Xuân Hạo có những ý trùng nhau
dù diễn tả bằng từ ngữ khác. GS. Nguyễn Huệ Chi viết: “nhà triết học
phải hiểu biết thế giới như một thực thể toàn vẹn không chia tách, trong “tâm”
có “vật”, trong “vật” có “tâm”; “một bản thể luận duy vật thông minh, giúp
người ta nhìn vào bản chất tối sơ của vũ trụ một cách đúng đắn, trong đó vốn đã
chứa dựng hai tiềm năng: khoáng thể và sinh thể… GS. Cao Xuân Huy nói: “Vậy thì
cái sinh khí được thêm vào những yếu tố khoáng vật để tạo thành sinh vật không
phải một thực chất do khoáng vật sinh ra mà là một khả năng đã có sẵn ở trong
Toàn thể, trong bản thể”.
PGS. Cao Xuân Hạo: “Tôi ở trong
vũ trụ, và vũ trụ cũng ở trong tôi”; “Triết học Lão - Trang không hiểu
mối quan hệ giữa các sự vật… là mối dây nối liền… các sự vật lại với nhau, một
cái gì cộng thêm vào sự vật và nằm giữa các sự vật, mà chính là cái sinh ra sự
vật và làm cho sự vật tồn tại và vận động”.
Những ý này, nếu diễn
tả cho tiện và chính xác, là “phản khoa học” (tất nhiên không nên chính
trị hóa từ phản, nó cũng chỉ có nghĩa như trong khoa học thường dùng như
phản vật chất, phản điện tử, phản proton… thôi), bởi nếu cho “tâm”,
“vật” là một và yếu tố sinh thể có sẵn trong bản thể thế thì
tại sao đất đá và vô vàn vật vô tri lại không có “tâm”? Tại sao ý thức
(“tâm”) lại chỉ có ở con người? Còn xét trong thực tế, ai hiểu khoa học
và triết học duy vật biện chứng sẽ hiểu quá rõ: vật chất sinh ra ý thức.
Vật chất ở đây chính là bộ não người, có kết cấu đủ phức tạp, đặt
trong vô vàn mối liên hệ của một cơ thể sống, khi tỉnh thức sẽ nhận thức, sẽ
suy tư, sẽ thể hiện tình cảm… đó chính là “tâm”. Người ta hoàn toàn dễ
dàng chủ động làm cho bộ não ngưng “tiết ra” ý thức, như gây mê trong
phẫu thuật chẳng hạn. Mặt khác, trong đời sống cũng có các hiện tượng thần giao
cách cảm, khả năng đọc ý nghĩ người khác của một số người, và công nghệ hiện
đại cũng đã chế ra được những dụng cụ được điều khiển bằng ý nghĩ. Tất cả những
cái đó chỉ ra “tâm” là sản phẩm và khi được sinh ra tồn tại độc lập với
“vật”, mắt thường không thấy nhưng các dụng cụ khoa học đã xác nhận được
bản chất của nó là sóng điện từ. Ngược lại việc thực chứng “vật” sinh ra
“tâm” đó, chưa hề có bất cứ chứng cớ nào chứng tỏ “tâm” sinh ra “vật”. Điều này
chỉ có trong truyện thần thoại và giáo lý tôn giáo. Riêng những hiện tượng
huyền bí, dù chưa được chứng thực toàn diện một cách khoa học, giả sử linh hồn
có thực như các nhà ngoại cảm nhìn thấy đi, thì tôi đoán nó cũng thuộc một dạng
vật chất đặc biệt, có thể sẽ như một dạng sóng điện từ có cấu trúc như một cơ
thể. Đây là hiện tượng quá phức tạp và mơ hồ, tôi cũng không thể có ý kiến dứt
khoát cũng như trường hợp giác ngộ của đức Phật vậy. Bởi ta không thể bác bỏ
được rất nhiều chứng cớ, nhưng những chứng cớ đó cũng chưa và cũng không thể
kiểm chứng được một cách khoa học! Đây là một nghịch lý, và vì thế nó mãi là
huyền bí chăng?
Còn viết
như trên: “Dương sở dĩ có được là nhờ có âm và ngược lại… chứ không phải là
“trong vũ trụ có dương và có âm”; và “bất cứ vật gì trong vũ trụ cũng có
âm có dương: năng lượng, vật chất…” cũng là phản khoa học. Bởi khoa học đã
chứng minh không phải “âm”,“dương” có được là nhờ có nhau mà chính “âm”,
“dương” cùng được sinh ra sau Big Bang từ “chân không lượng tử”
khi nhiệt độ giảm xuống phù hợp và các lực vật lý từ từ “kết tinh” tách khỏi
nhau. Trong vũ trụ cũng chẳng phải “bất cứ vật gì cũng có âm có dương”
bởi hạt ánh sáng (photon) là năng lượng điện từ và nơtron trong hạt nhân
không có âm dương bởi chúng là trung hòa tử!
Tư
tưởng phương Đông cũng không đúng khi vừa coi “âm”, “dương” mang
tính “bản thể” như khoa học (Mọi vật đều cõng âm ôm dương – Lão
Tử) nhưng cũng lại cho là những tính chất đối lập trong cuộc sống như sáng
tối, nóng lạnh, đực cái, v.v… Thực ra chúng hoàn toàn khác nhau về bản
chất. Như “âm”, “dương” của khoa học là điện tích trái dấu của các hạt
cấu tạo nên vật chất, còn sáng, tối thực ra chỉ là chuyện có hoặc không
có sự chiếu sáng mà thôi!
Theo ông Nguyễn Huệ Chi ở câu trên:
“GS. Cao Xuân Huy nói: “Vậy thì cái sinh khí được thêm vào những yếu tố
khoáng vật để tạo thành sinh vật không phải một thực chất do khoáng vật sinh ra
mà là một khả năng đã có sẵn ở trong Toàn thể, trong bản thể”; Cụ cũng viết
trong Tư tưởng phương Đông…: “Làm sao khoáng vật là cái thấp, cái ít,
cái nghèo lại có thể biến thành thực vật, động vật là cái cao, cái nhiều cái
giàu được”.
Quan
niệm như trên thực sự cũng là phản tiến hóa. Theo khoa học, sinh vật
được tạo thành không phải thô sơ như cách nghĩ của Cao Xuân Huy là do “sinh
khí được thêm vào những yếu tố khoáng vật” như cho mì chính vào nồi canh
như thế. Tuy vật chất hữu sinh và vô sinh đều có cùng bản chất là các chất hóa
học, nhưng quá trình biến đổi từ chất vô cơ sang cơ thể sống không phải là
một quá trình tắt mà trong điều kiện của chính tự nhiên, với thời gian dài hàng
chục tỷ năm, từ các chất vô cơ mới tiến hóa thành cơ thể sống. Tại Đại học
Chicago (Mỹ), Stanley Miller đã mô phỏng sự tiến hóa bằng cách phóng điện (như
tia sét) vào hỗn hợp hơi nước, methane, amoniac, hydro [như khí quyển trái đất
xưa, chứa các nguyên tố chủ chốt của cơ thể như O, H, C (tạo chất hữu cơ), N
(tạo protid)], và kỳ diệu thay, ông đã thu được nhiều axit amin, viên
gạch đặc trưng của cơ thể động vật. Trong những điểu kiện nhất định, các đơn
phân tử: axit amin, nucleotit trùng hợp tạo thành các đại phân tử hữu cơ
protein, axit nucleotit, vật chất di truyền ARN, ADN. Khi các đại phân tử lipit
protein axit nucleotit xuất hiện trong nước do tính kị nước sẽ lập tức hình
thành nên lớp màng bao bọc tập hợp các đại phân tử hữu cơ tạo nên các giọt nhỏ
li ti chịu tác động của chọn lọc tự nhiên sẽ tiến hoá dần tạo nên các tế bào sơ
khai, giúp chúng có khả năng nhân đôi, phiên mã, dịch mã, tổng hợp trao đổi
chất, sinh trưởng và sinh sản. Quá trình tiến hoá tiếp diễn nhờ các nhân tố
tiến hóa tạo ra sinh vật đơn bào, đa bào rồi các sinh vật như ngày nay
Có sự
tiến hóa như vậy bởi các chất luôn có tính chất hóa học, khi đủ các điều
kiện, chúng tất yếu sẽ phản ứng. Cùng cấu tạo từ các hạt cơ bản, nhưng
cấu trúc khác nhau các chất sẽ có tính chất khác nhau, cấu trúc càng tinh vi
phức tạp càng sinh ra những tính chất tinh vi phức tạp. Như người ta ăn Na và
Cl ở dạng nguyên tố sẽ chết ngay, nhưng khi chúng hợp thành chất muối NaCl, sẽ
có tính chất hoàn toàn khác, cơ thể mà thiếu nó cũng sẽ chết! Tương tự, vật
chất qua quá trình sinh sản tiến hóa đã hình thành cơ thể có cấu trúc vô cùng phức
tạp, mà bộ não con người là phức tạp và tinh vi nhất, đã sinh ra được ý thức!
Tóm lại, trong lịch sử nhận thức không hề có hai phương thức “chủ toàn”,
“chủ biệt” ngược nhau, làm nên hai nền văn minh cao thấp khác nhau, mà “chủ
toàn” chỉ là đôi nét riêng của văn minh phương Đông, còn “chủ biệt”
là phương thức tư duy nghiên cứu tất yếu chung cho mọi thời, cho mọi vùng miền.
Thật là sai trái, cực đoan và khiên cưỡng khi cho tính phân tích của “chủ
biệt” là việc phân tách, cô lập cái “bộ phận” ra khỏi cái “toàn
thể”, để rồi cho là “sai”, là “vi phạm lô-gic”, mà đúng ra “chủ
biệt” chính là khả năng nhìn sâu hơn vào bản chất sự vật, hiện tượng; không
phải chia tách, cô lập các thứ mà chính là sự định vị, để xác định bản chất,
tính chất riêng và các mối liên hệ chung, tương hỗ giữa các “bộ phận”
trong cái “toàn thể”. Còn chủ toàn, ngoài những nét ưu việt trong Đông y
và tu luyện, với nền văn minh nói chung, thực ra là cách nhìn chung chung,
đại khái ở trình độ thấp. Chính lý do này đã làm cho phương Đông “đi
trước về sau”!
Ông bạn tôi, “Đại tá Vật lý” Đỗ Kiên
Cường, trong bài phê phán công trình của GS. Cao Xuân Huy đã viết: “Tôi đã
suy nghĩ rất nhiều về sai lầm của một trong những trí tuệ mẫn tiệp nhất của
chúng ta mà chưa tìm được căn nguyên xác đáng. Và tôi tạm bằng lòng với ba căn
nguyên nhân sau: 1) Bất cập ở khoa học tự nhiên và khoa học tâm trí; 2) Lấy
quan điểm duy vật thô sơ và phép biện chứng sơ giản phương Đông làm nền tảng
triết lý; và 3) Xa rời những quan điểm của triết học duy vật biện chứng… Và nỗi
băn khoăn đã được giải tỏa khi tôi biết… GS. Trần Thanh Đạm rất có lý khi cho
rằng, có thể những gì trình bầy ở trên là những quan điểm mà người thầy đáng
kính đã vượt qua, đã từ bỏ… Đó là lý do thầy không công bố, không viết di chúc
công bố và để bản thảo ở tình trạng như GS. Nguyễn Huệ Chi đã trình bầy?” (Hiện
tượng tâm linh, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2001, tr.179).
Còn tôi thì nghĩ đơn giản hơn nhiều, cụ sai vì cụ không hiểu. Thực chất GS. Cao
Xuân Huy chỉ học Trường Cao đẳng Sư phạm, mà lại về lĩnh vực xã hội, lại ở thời
trình độ mọi mặt ở nước mình rất thấp, các phát minh mới trên thế giới cũng
chưa có, nhưng khi bàn về bản thể luận và nhận thức luận cụ buộc
phải tiếp cận nhiều lý thuyết phức tạp về vật lý như Thuyết Tương đối;
về sinh học và hóa học như Thuyết Tiến hóa, chất vô cơ và hữu cơ,
chất vô sinh và hữu sinh; về triết học, mà đặc biệt triết học duy vật biện
chứng lại lấy khoa học tự nhiên làm “chứng”, như các cặp phạm trù “không
gian thời gian”, “Tâm” “Vật”, “Nhân Quả”, “mâu thuẫn”, “đối lập và thống nhất”,
“chất và lượng”, “riêng”, “chung”, v.v… mà để hiểu tất cả những điều
đó, cần phải có một nền tảng tri thức vững chắc và tư duy chính xác, chứ một
cái đầu chỉ giàu suy tư và khát vọng sáng tạo thôi thì khó mà hiểu được. Vì
vậy, việc GS. Cao Xuân Huy sai và một loạt học giả hàng đầu là học trò của cụ
cũng sai theo là điều dễ dàng xảy ra; chỉ có những bậc thiên tài, không học
khoa học tự nhiên mà cũng hiểu thì mới không sai mà thôi, mà trên thế giới hình
như còn chưa có, bởi có những học thuyết phức tạp đến nỗi cả thế giới có thời
chỉ vài người hiểu mà thôi. Với nhiều nhà kinh điển phương Tây, trước khi là
nhà triết học, họ cũng là các nhà khoa học tự nhiên, như Descartes là nhà toán
học, vật lý và sinh lý học; Kant là nhà vật lý và Husserl cũng là một tiến sĩ
toán học, v.v…
Còn ở
ta không ít người không học tự nhiên nhưng đã ngộ nhận tin mình cũng hiểu. Tôi
đã viết, tự tin không phải đi thi nên tha hồ mà tự tin, nhưng khi viết ra cái
sai sẽ lộ ngay, như mấy trường hợp mà tôi đã chỉ như Lê Đạt, Nguyễn Huệ Chi và
chính Cao Xuân Huy, v.v!…
Thật tiếc,
các vị học trò của GS. Cao Xuân Huy đã đọc một công trình triết học, đánh giá
đóng góp khoa học của một con người lại đầy cảm tính, cảm tình, đã không có một
nền tảng tri thức khoa học vững chắc, không dựa trên thực tiễn cuộc sống, lại
cảm nhận một cách xúc động nên đã liên tưởng quá phong phú như đọc một tác phẩm
văn chương vậy. Vì thế sai lầm là tất yếu!
Với mẩu
chuyện vui này phần nào nói lên phương thức và khả năng tư duy của GS. Cao Xuân
Huy, có lẽ cụ nên nghiên cứu thuần về văn hóa đạo đức thì phù hợp hơn là triết
học, khi cụ thờ ơ trước sự kiện có thể nói là đột biến của khoa học và công
nghệ, thể hiện khả năng vĩ đại của loài người nhận thức và chinh phục thế giới.
PGS. Phan Ngọc kể:
“Ngày
Liên Xô phóng được con tàu mang người lên vũ trụ, tôi mừng rỡ chạy đến tìm
thầy, nói:
- Bác ơi, đã phóng được người lên vũ trụ rồi.
Tôi thấy thầy nhìn tôi với đôi mắt thương hại, nói:
- Anh mà cũng mừng à?
-
Mừng chứ bác, sao lại không mừng?
- Hôm nay phóng người lên vũ trụ,
mai phóng người lên mặt trăng, rồi lên sao Kim, sao Hỏa. Ngay dưới Trái Đất có
bao điều bất công, bất hạnh này mà không chịu lo. Lại lo chạy đi đâu? Loài người
tại sao không lo cách sống với nhau cho yên ổn, hòa bình, mà lo chạy đi mãi thế!” (tr.160).
Einstein, trong cuốn Thế giới như tôi đã thấy, chương về Husserl
đã viết:
“Trong
quá trình phát triển của tư duy triết học những thế kỷ qua, câu hỏi sau đây
đóng vai trò chủ đạo: Những nhận thức nào có thể được mang lại từ tư duy thuần
tuý?… Liệu có thể có những nhận thức như vậy không?... Trong những nỗ lực dũng
cảm nhưng tương đối vô bổ này, dù sao cũng dễ nhận ra một vệt phát triển có hệ thống,
đó là: sự hoài nghi ngày càng gia tăng trước mọi thử nghiệm theo hướng
"tư duy thuần túy", hòng nắm bắt được điều gì đó về "thế
giới khách quan" và thế giới "sự vật"”.
TP Hồ Chí Minh,
25-11-2009.