Thứ Bảy, 21 tháng 7, 2012

ĐẶNG THIỀU QUANG: “Anh Đông La ấy chính là Ông Bụt của tôi”



     Nguyễn Quang Thiều vào SG do Công Ty Phương Nam in truyện thiếu nhi của T mời để tổ chức một buổi giao lưu với độc giả vào buổi sáng nay. Xong, trưa đi ăn cơm, tôi ngồi cạnh một trong những anh chàng viết trẻ thường chăm sóc T rất chu đáo mỗi khi vào SG, có cái bút danh ngồ ngộ là Hoa Nip. Khi biết tuổi anh chàng này, tôi bảo “mày bằng tuổi thằng con tao”, vì thế Hoa Nip gọi tôi là “bác” xưng “con”.  Hoa Nip nói với tôi: “Lần trước, sau khi gặp bác, con lên mạng tìm hiểu mới giật mình, sao một người cái gì cũng biết như bác lại không nói gì, còn những người không biết gì lại nói rất nhiều”. Nghe người ta ngạc nhiên sau khi đọc mình viết, tôi đã quá quen tai nên không ngạc nhiên, chỉ bất ngờ khi Hoa Nip bảo mới đọc một bài của Đặng Thiều Quang có nhắc đến tôi rất hay.
Số là cách đây đã 18 năm rồi, một hôm đến nhà anh Thái Thăng Long chơi, tôi gặp một anh chàng người ốm (gầy), tóc dài như con gái, cầm thư tay của Nguyễn Quang Thiều gởi gắm vào SG gặp anh Long, đó chính là ĐTQ. Anh Long vốn là người gọn gàng sạch sẽ mà anh chàng này đầu tóc như vậy tôi thấy e ngại và nghĩ chắc nó đến ở với mấy thằng lính ở xưởng của mình thì hợp hơn nên chủ động bảo Quang. Chính vì thế mới có chuyện Quang nhắc tới hôm nay. Tôi cũng nhớ chuyện này như là một kỷ niệm chứ không nhớ chuyện mình đã cho tiền Quang như thế nào. Tính tôi giúp ai được cái gì tôi rất vui, ngay trong chuyện viết lách, ngoài việc đấu tranh bảo vệ sự đúng đắn về tri thức và nhận thức, tôi cũng đã bảo vệ danh dự cho nhiều người. Thật thú vị khi tôi không là gì nhưng có đến bốn, năm ông GS, PGS khi đi nước ngoài về, vì nhớ ơn tôi đã "có chai rượu quý tha thiết biếu anh"!
Dưới đây, tôi  đăng một đoạn trích, mà tôi mượn một câu làm đầu đề “Anh Đông La ấy chính là Ông Bụt của tôi”, trong bài Khi ta hai mươi  của Đặng Thiều Quang. Tất nhiên bạn đọc nên hiểu câu trên chỉ là một cách thể hiện tình cảm, sự biết ơn riêng của Quang đối với tôi, chứ lại đi bắt bẻ, giúp nhau mấy đồng lẻ mà thành Phật thì vô lý quá! (ĐL)

         ...Ước mơ gì ư? – Tôi ước Bụt hiện lên hỏi: “Sao con khóc?” – Tôi sẽ ước như thế, khi mà trong túi tôi còn vỏn vẹn có đôi ba chục ngàn, và chưa biết trông vào đâu giữa đất Sài Gòn xa lạ.
       Tôi đến nhà anh Thái Thăng Long đúng lúc nhà thơ Đông La đang đến chơi, sau khi đọc lá thư giới thiệu của Nguyễn Quang Thiều và hàn huyên chán chê, biết tôi đang “Tình bơ vơ”, anh Đông La – tên thật là Hùng, mời tôi về tá túc ở xưởng sản xuất thuốc tăng trưởng thực vật của anh – gần bùng binh Hàng Xanh. Suốt một tuần ở Sài Gòn, tôi sống cùng những người công nhân trẻ, chủ yếu họ ở Thái Bình (Quang lầm, Hải Dương chứ không phải TB) vào – cùng quê với nhà thơ, đại gia Đông La. Nói là đại gia cũng không ngoa, hồi năm 95 mà làm ăn như nhà thơ này, có lẽ chỉ kém Nguyễn Văn Mười Hai chủ nước hoa Thanh Hương chút xíu thôi à. Anh Đông La ấy chính là Ông Bụt của tôi.
      Sáng sáng điểm tâm xong, tôi cà phê cà pháo với mấy anh em làm thuê cho đại gia Đông La, rồi sau đó lượt phượt khắp phố phường Sài Gòn. Anh Đông La thật tốt, dúi cho tôi ít tiền đủ để lang thang khắp nơi. Tôi mua một chiếc máy ảnh Kodak bằng nhựa, vỏ giấy. loại xài một lần, chụp dè sẻn trong ba mươi sáu kiểu chứ không thoải con gà mái như máy kỹ thuật số bây giờ. Tôi đi thăm các bảo tàng, phủ đầu rồng, chui xuống hầm điện đài, xem những thước phim tư liệu, sờ tay vào chiếc xe tăng húc đổ cánh cổng Dinh Độc Lập hồi Ba mươi tháng Tư vẫn nằm ở vườn cây đó.
Tôi vào Bảo tàng Chiến tranh, say mê ngắm khẩu đại bác tự hành 175mm mệnh danh “Vua chiến trường” của Mỹ với tầm bắn xa tới 32 km, hay rùng mình sởn gai ốc khi nhìn thấy bày ngoài sân cái máy chém lịch sử, ra đời cùng với Bộ luật 10/59. Hay là khi họ chiếu đoạn phim quay cảnh Tết Mậu Thân năm 68, chỉ huy cảnh sát chính quyền Sài Gòn khi đó – tướng Nguyễn Ngọc Loan, ông ta tiến đến rất nhanh, rút khẩu côn xoay kê vào đầu một chiến sĩ biệt động thành và bóp cò. Hay những thước phim quay cảnh tự thiêu trên đường phố của một hoà thượng nữa. Thật kinh hoàng!
Rất nhiều cảm xúc trái ngược nhau. Cảm giác ghê rợn của chết chóc. Cảm giác rằng mình may mắn không sinh ra vào thời đó, không phải chứng kiến những ngày tháng đen tối ấy. Cảm giác sợ hãi khi thấy rằng con người có những lúc thật là điên rồ...
Tôi đến quảng trường trung tâm, khu vực nhà thờ, nhà hát. Sài Gòn vào năm 1995 đang chuyển mình mạnh mẽ, những toà cao ốc mọc lên khắp nơi. Khách sạn New Word Đường Lê Lai, Quận 1- Khi đó lừng lững đứng ở ngay khu phố sầm uất, nó có một vị trí tuyệt đẹp, người ta có thể đi từ phố này sang phố khác xuyên qua cái tiền sảnh to tướng, rất ấn tượng, như thể ta đi qua bụng một con voi khổng lồ vậy. Hay như Cao ốc Osic (trụ sở Inmexco cũ) Đường Nguyễn Huệ, quận 1 – hồi đó như một mẫu mực về kiến trúc hiện đại của Sài Gòn.
Tôi ngồi dưới chân bức tượng “Bác Hồ với thiếu nhi” của nhà điêu khắc Diệp Minh Châu đặt trong vườn hoa trước cửa UBND thành phố, tôi ngắm dòng người cuồn cuộn xung quanh, dòng người ấy mang sức sống mãnh liệt, lan toả, và truyền cảm hứng một cách kỳ lạ.
Nhưng cũng trong thời gian ấy, tôi lại thấy có những con người dường như ở một thế giới khác. Đó là ở chân cầu Thị Nghè, mỗi lần đi qua đó, anh Đông La lại chỉ cho tôi một ông già đạp xích lô và bảo: “Một người nổi tiếng đấy”
Ông ta nổi tiếng như thế nào?
Sáng sáng, ông ta ngồi bên xị rượu với một quả cóc bổ tư, hay bổ tám gì đó. Ông khật khừ đến trưa thì có thêm một ông bạn nhậu. Lúc đó quả cóc hết một nửa, xị rượu hết một nửa. Đến xẩm tối thì đôi tri kỷ cưa hết đôi ba xị rượu, vỏ chai lăn lóc bên cạnh, quả cóc biến mất còn trơ lại hạt. Lúc đó đôi bạn chia tay, ông già leo lên chiếc xích lô, lượn lờ vài tiếng, cố kiếm đủ tiền ăn tô hủ tiếu và mua xị rượu với trái cóc cho ngày hôm sau. Ngày này qua ngày khác. Cứ thế và cứ thế.
Tôi ở Sài Gòn chừng hơn một tuần, đến thăm trụ sở đại diện phía Nam của báo Hoa Học Trò – gặp gỡ mọi người trong toà soạn, anh Phạm Công Luận, cả Phan Hồn Nhiên nữa. Anh em rủ đi ăn Hamberger Mã Nhật Tân ( Manhattan ) rất vui. Không những thế, biết tôi nhẵn túi, anh em còn tài trợ một khoản tiền trở về “cố hương” nữa.
Cứ đôi ba ngày, nhà thơ Đông La lại chở tôi đi gặp gỡ và ăn nhậu với một số văn nghệ sĩ. Trịnh trọng, và cả một chút hài hước, anh giới thiệu tôi là “văn sĩ Bắc Hà”.
Sau khi chơi bời chán chê, tôi cảm ơn mọi người, đặc biệt là nhà thơ Đông La và nhà thơ Thái Thăng Long. Rồi tôi tạ từ mọi người, lên đường trở về. Tôi ghé qua Huế chơi thăm vài người bạn, vài cô gái họ Tôn Nữ quen biết từ hồi vào tham quan, và cả vài cô không mang họ nữa (!)...
Trích trong bài  Khi ta hai mươi
In Uncategorized on Tháng Tám 8, 2007 at 9:09 sáng