Anh Viết
Sơn quý mến!
Một lá
thư quá quý mà hôm nay em mới đọc, cảm ơn anh, em đăng cùng cái truyện này
cho mọi người coi luôn.
(Đúng là duyên ngthiệp, mà là nghiệp lành, vừa gọi cho anh
Sơn thì ổng lại ở SG, hẹn 10 giờ đi nhậu. Cuộc đời quả thú vị! Nay mới biết
con mụ Kỳ Duyên VNnet lại từng là bồ của "miếng giẻ chùi máu" Bùi Tín
mới "hay" chứ!)
Đông La quý mến!
Cho phép mình xưng hô thân mât với Đông
La như thế, vì Tết này tính theo tuổi ta thì mình đã bước vào tuổi 70 rồi.
Minh sinh Giáp Thân, đã nghỉ hưu sau 43 năm quân ngũ, 3 lần đi bộ vượt Trường
Sơn ( tham gia 3 chiến dịch lớn: Khe Sanh , Đường 9 Nam Lào và
Quảng Trị 1972. Rất may mình không bị thương, không sốt rét, hòa bình lập
lại được làm công việc yêu thích và có chút năng khiếu trong công việc đó.
Cách nay
tròn 1 tháng tình cờ mình dọc mấy bài viết của Đông La về cuốn BTC của
thằng HĐ. Đọc là sướng liền, càng đọc Đông La càng mê mẩn. Cả tháng nay
không ngày nào mình không nói về Đông La với vợ con, với bạn bè báo giới
trong Nam ngoài Bắc, gọi điện cho mấy tờ báo lớn bảo họ tìm đọc Đông La đi.
Tóm lại với mình
Đông La là phát hiện của năm 2003. Thực ra cả mấy chục năm
nay mình có phát hiện được ai đâu, dù 30 năm làm phóng viên báo QĐND đi
không biết bao nhiêu dặm đương từ Lạng Sơn đến Cà Mâu, từ Trường Sơn đến
Trường Sa, từ Tây Nguyên đến Poi Pet, rồi Á, Âu, Mỹ ngó qua hết, để đến mãi
bây giờ mới tìm ra một người khá toàn diện( cuộc đời, tri thức, tác phẩm)
làm cho mình cảm thấy lý thú. Như thế mà không gọi là “phát hiện” thì gọi
là cái gi?
Mình tiếc bây
giờ già mất rồi, mắt lại hơi kém nên chỉ thỉnh thoảng comment vào bài của
Đông La chút đỉnh, réo tên mấy cha DTQ, HC. Sàm, Lập cho đỡ cáu thôi.
Viết thư này mình
không có mục đích gì ngoài việc bày tỏ sự kính trọng, ngưỡng mộ đối với
Đông La. Xin chúc Đông La và đôi bên họ hang gia quyến một năm mới nhiều
niềm vui, an lành, hạnh phúc.Mong có một ngày được gặp Đông La hàn huyên
chút chút cho vui.
Nguyễn
Viết Sơn, Lý Nam
Đế HN.
|
ĐÔNG LA
 N N H
 N
(Truyện ngắn)
Tưởng nhớ Khu, Thinh
và các đồng đội E5, QK Miền Đông
Không ngờ cái chỗ ghi dấu sâu đậm nhất,
ấn tượng nhất, khủng khiếp nhất của cuộc đời mình lại có xây một tượng đài,
trở thành một điểm du lịch: Cụm di tích Chiến thắng La Ngà; nơi mình đã tham
gia một trận đánh lớn nhất, ác liệt nhất, đã moi hầm bị sập, những đồng đội
ở dưới. Tính đăng tiếp vài mẩu truyện hồi nhỏ và viết vài ý về luật Biểi
tình, nay có chuyện này, mà cũng đang trong những ngày tháng 4, xin đăng
lại cái truyện ngắn ghi lại một trận đánh của tôi tại nơi mà trước đó thời
chống Pháp cũng đã diễn ra một đánh mà hôm nay người ta đã dựng tượng đài
kỷ niệm.
Nhớ
đến cảnh mấy người bạn 19 tuổi chết tươi mà thật đau lòng và căm giận khi có
không ít kẻ lại muốn nhuộm đen máu bao người anh hùng đã đổ cho nền hòa
bình và độc lập của Tổ quốc.
|
Lại một
tiết đầu đông cuối thu; trời đã lấm tấm rét, dường như trên thinh không vời vợi
có một cánh tay khổng lồ đang xắn từng tảng không khí rét ngọt của mùa đông
trộn vào cái ngôi nhà bao la, xanh thẳm, trong văn vắt của mùa thu; như mọi
lần, Huy lại lững thững trên con đường sau làng.
Anh thường chọn khoảng
thời gian giao mùa này về quê, để cùng lúc có thể gặp được cả hai: một mùa anh
thích, một mùa anh thiếu. Anh yêu mùa thu, cái mùa có vẻ gì đó dịu dàng thanh
khiết như tính cách của một thiếu phụ. Còn mùa đông? Có lẽ, chính mùa đông mới
là mùa để lại trong anh nhiều ấn tượng hơn cả. Anh nhớ những buổi sáng co ro đi
học trong không gian mù sương; anh nhớ cái cảm giác ấm áp mà dường như chỉ
trong giá rét lạnh căm ta mới nhận ra hết được ý nghĩa của nó; và diện mạo của
hạnh phúc, bất hạnh của một kiếp người như cũng hiện ra rõ nét hơn. Thấm thoắt thời
gian anh sống xa quê đã nhiều hơn cả ở quê rồi! Anh biết mình chưa là gì, nhưng
so với những người dân lam lũ trên quê, có vẻ anh đã là một người thành đạt.
Anh giống như một con đom đóm bị mất dạng trong ánh điện phố thị chói lòa, nhưng
lại tỏa sáng rực rỡ giữa đêm quê; khiến anh về quê không phải để thăm quê, mà
như đi gặp chính mình. Anh nhận ra mình trong những tiếng xì xào, trong sự vồn
vã chào hỏi: “Đẻ ra được đứa con như bá đúng là nó mát, chứ cứ như bọn em
đây nó rát lắm bà chị ạ !”. Có một bà già từng nói với mẹ anh thế.
Riêng anh, anh chẳng bao giờ thỏa mãn cả, anh đã có được những cái mà ngày xưa
trong mơ cũng không thấy, không hiểu sao vẫn thường xuyên âu lo và mệt mỏi; phải
tại cái tham vọng không cùng, hay tại cái nhịp sống đua chen quá căng thẳng nơi
phố thị? Chính những lúc ấy, hình ảnh những người dân quê chất phác lại hiện
lên an ủi anh, anh kính phục họ, bởi cuộc sống của họ quá vất vả nhưng họ
vẫn vui vẻ, nghị lực của họ cũng mới vững vàng làm sao! Trong một đất nước có
quá nhiều biến cố, chính từ những con người bình dị ấy đã hợp thành cái sức
mạnh vô địch làm nên bao kỳ tích, những người sẵn sàng hy sinh tất cả, nhưng
lại không quan tâm lắm đến việc sẽ được nhận lại cái gì! Anh chợt nhớ đến bạn
bè thuở thiếu thời, qua cuộc chiến khốc liệt, đứa còn đứa mất... có đứa đến nấm
mộ cũng không, thân thể có khi chỉ còn là một bó rễ cây tại một cánh rừng lạnh
ngắt nào đấy! Như vậy, chỉ mỗi việc anh còn được sống thôi đã là may mắn quá
rồi! Thế mà...
Cứ vừa đi vừa nghĩ, anh ra bờ sông chọn một vạt cỏ êm, gần chiếc cầu bê tông,
ngồi xuống. Vẫn còn kia cây đa cổ thụ với những chạc ba khổng lồ có thể nằm
trên đó được, từng bó râu nặng vẫn lững lờ buông chấm mặt sông. Có điều, nó lại
có vẻ rũ rượi, lá cứ héo úa, vàng sậm; sau mỗi đợt gió chiều lăn tăn thổi,
những chiếc lá quăn queo chao mình rơi xuống lòng sông, trông như những
giọt nước mắt. Người ta bảo, nó khóc một ông già nên buồn mà sinh bệnh. Ông
chính là người cuối cùng của một dòng họ, không biết từ bao đời, đã trồng
nên nó.
- Người
ta bảo thế có phải không mẹ? Huy về nhà hỏi mẹ.
- Ờ thì
người ta có bảo thế.
- Nhưng
ông ấy chết lâu chưa?
- Chẳng
còn ai, nên không biết cúng kiếc thế nào, cũng chẳng biết là đã 49 ngày chưa?
Anh chợt
thấy nhói lên trong lồng ngực và ngợp thở, phải thở dốc mấy cái mới bình tâm
trở lại. Có phải trong cuộc mưu sinh và rượt đuổi bao ảo ảnh phù du, anh đã trở
thành một kẻ tệ hại rồi không?
***
Cuối năm
1972, sau đợt B52 đánh phá Hà Nội, lớp học cấp III của Huy và Nhữ, sau kỳ thi
đại học, tham gia đợt tuyển quân. Riêng Nhữ được hoãn vì nhà chỉ còn một mình,
người anh Nhữ mới hy sinh.
Một đêm, chính tại chỗ mà Huy vừa ra ngồi
đó, hai anh bạn cũng đã ngồi trò truyện sau buổi khám sức khỏe:
- Có lẽ
kỳ này mình cùng đi với Huy thôi, Huy
ạ.
-Thôi ở
nhà đi học đại học. Học như mày thi làm gì mà không đỗ. Có khi còn được ra nước
ngoài nữa ấy chứ!
- Mình cũng
chẳng có anh hùng gì đâu, nhưng thấy các bạn đi hết, riêng mình được đi học,
cứ cảm thấy hèn hèn, như là ăn vụng một cái gì ấy!
- Mày đúng
là lẩn thẩn. Không lẽ trong chiến tranh cứ phải ra trận mới vinh quang thôi
sao. Mày không nhớ thầy dậy lý kể chuyện bác Trần Đại Nghĩa ở Viện Khoa học
đấy à, bác ấy cải tiến vũ khí bắn rơi B52 làm bọn phi công Mỹ chết khiếp! Công
nhận là oách thật! Nếu không phải đi bộ đội, tớ cũng muốn đi học để thành nhà
khoa học như bác ấy.
- Ừ, thầy
chủ nhiệm bảo Huy có tài đấy, chỉ tại lười thôi, thầy bảo Huy có máu nghệ sĩ,
lúc hứng lên thì học không ai theo kịp. Kể không có chiến tranh, chúng mình cùng
đi học với nhau thì vui nhỉ? Mà tại sao lại có chiến tranh?
Huy im lặng.
Lúc này anh chàng học sinh không thể trả lời được câu hỏi quá hắc búa ấy. Mãi
sau này, Huy cũng đã tự hỏi và cũng đã tự trả lời nhiều lần. Anh thấy, chiến
tranh thực chất là sản phẩm của cái lòng tham. Những kẻ có sức mạnh dễ sinh
lòng tham, khi thực hiện cái lòng tham đó tất phải xâm phạm vào cuộc sống người
khác. Và tệ hại nhất người ta còn đưa ra một thứ triết lý về sức mạnh.
Nó đề cao và biện minh cho cái ác: bản chất của con người luôn muốn vươn
tới cái siêu việt, vì thế, tất phải giết chóc lẫn nhau để tranh đoạt!
Chính vậy mới có kẻ như Hít-le từng cho rằng, loài người sinh ra có giống
thượng đẳng, giống hạ đẳng; và giống thượng đẳng thì có quyền tiêu diệt và
thống trị giống hạ đẳng! Không ngờ suốt chiều dài thăm thẳm của lịch sử, loài
người đã bị cuốn theo cái lòng tham ác độc đó, các cuộc chiến to nhỏ đã nối
nhau diễn ra và món khoái khẩu nhất của chúng chính là máu, là thịt tươi!
Thấy Huy
không trả lời, Nhữ lại tiếp:
- Để Huy
đi một mình tớ cũng lo lắm. Thôi, kỳ này cho tớ đi với nhé, cho vui!
- Mày buồn
cười, lúc nào cũng cứ như ... chị tao ấy. Mà mày muốn đi thì phải hỏi thày
mày chứ, rồi còn các chú ở xã đội nữa.
- Các chú
ở xã đội thì không lo, đang tổng động viên mà, còn thầy tớ tớ cũng đã hỏi rồi.
Đầu tiên tưởng ông già không cho, không ngờ ông lại bảo, đến Hà Nội cũng còn
bị bỏ bom, chiến tranh leo thang thì dù có ở quê để tránh hòn tên mũi đạn cũng
chưa chắc có tránh được, tớ muốn đi thì đi!
Sau gần
ba chục năm, cuộc nói chuyện hôm nào vẫn còn hiển hiện trong ký ức Huy. Là người
trong cuộc, chính anh vẫn phải luôn ngạc nhiên mà tự hỏi rằng, không biết trên
trái đất này có dân tộc nào như vậy không, có một thời, thanh niên đã rủ nhau
đi bộ đội, vào nơi đầu rơi máu chảy cứ như đi trảy hội?!
***
Sau một
năm huấn luyện tại vùng đồi Quảng Ninh, đầu năm 74, đơn vị Huy và Nhữ vào chiến
trường. Nửa năm đầu cả hai đều được chọn trong số những người có học khá làm
đội mẫu của Ban Quân huấn Quân khu Miền Đông, đóng tại Chiến khu Đ. Công việc
của họ vẫn là huấn luyện để diễn tập minh họa trong những đợt chỉnh huấn.
Lúc đầu,
bộ mặt ghớm ghiếc của chiến trường chưa hiện ra trước những người lính trẻ. Mảnh
đất “Gian lao mà anh dũng” đã mang đến cho họ nhiều chuyện lạ; họ được
biết nhiều loại trái cây rừng như gùi, trường,
dâu da…; họ cũng vô vàn thích thú khi ban đêm được đội đèn đi săn cùng
những bậc đàn anh kỳ cựu, rồi được thưởng thức đủ loại thịt thú, từ heo, nai,
mễn, cheo, rùa, kỳ đà đến cá sấu... Ban ngày họ tập lại những bài tập đánh
lấn, đánh công sự vững chắc, đánh binh chủng hợp đồng,... Ban đêm, tòng teng
đu đưa trên những cánh võng, dưới mái lá trung quân; giữa nền đêm sâu thẳm,
tĩnh lặng, họ nằm nghe tiếng sông Đồng Nai rì rầm trò truyện cùng với những
vách đá rêu phong, tiếng thú rừng thảng thốt gọi bạn giữa đêm khuya...
Thì ra, giữa chiến trường không chỉ có ác liệt, mà cũng nhiều thơ mộng lắm.
Đó chính là những lúc hiện về trong đáy sâu tâm khảm họ hình bóng của mẹ và
những người thân yêu, và bồi hồi hơn cả là những cô bạn gái! Dù tuổi 17, 18 ở
thôn quê thời ấy, hầu hết họ thường mới chỉ biết thập thò trước ngưỡng cửa
của ngôi nhà tình yêu, còn bao nhiêu bí mật huyền diệu, nguyên trinh vẫn được
cất giấu rất kỹ lưỡng phía sau những cánh cửa! Huy và Nhữ cũng có một người
bạn gái cùng xóm như thế. Họ chơi với nhau, học với nhau từ nhỏ. Nhưng khi
người con gái đến thời má thắm môi hồng, bộ ngực căng dần dưới lớp áo mỏng,
với bản tính nhường nhịn, Nhữ đã dần tự tách ra một khoảng cách, tạo điều
kiện cho Huy gần Liên Hơn.
Đêm
đêm, đung đưa trên cánh võng, thỉnh thoảng nỗi nhớ Liên cồn cào, da diết lại
tràn ngập lòng Huy; trong xa cách, người bạn gái hiện lên mới đẹp và dịu hiền
xiết bao! Anh cũng có một buổi chiều chia tay giống như bao chàng lính trẻ
khác. Chiều ấy, cũng chỗ cây cầu, anh ngồi đợi Liên. Ở vị trí ấy, mặt trời đỏ
ối trước khi khuất dần sau đường chân trời, len lỏi như giăng mắc ở các cành
đa. Cả một khoảng trời rực lên một phông ánh sáng đã được hơi nước tán sắc
thành mầu cam sậm, vô vàn tia hồi quang muôn hồng ngàn tía dệt nên trên đó
những dải nan quạt. Lúc đó, Liên đến với anh, tóc bay bay, rực sáng, trông
Liên không phải đi mà như lướt trên mặt đất; không phải từ một ngõ nhỏ ra mà
như trên tận chín tầng trời buớc xuống, bằng chính những bậc thang ánh
sáng!... Nhưng thực sự giữa hai người mới chuyển từ giai đoạn xưng hô “mày,
tao” trẻ con sang gọi tên chứ chưa một lần nói đến chữ yêu. Trước khi xa
nhau, không thể không nói, nên Huy đã ngập ngừng:
- Kỳ này
tôi đi bộ đội, Liên có buồn không?
- Liên không
buồn... chỉ... nhớ thôi.
- Thế...
Liên nhớ ai?
- Hỏi thế
mà cũng hỏi, ghét ghê!
- Liên ơi,
hôm nay tôi muốn nói với Liên... một chuyện... quan trọng đấy.
- Huy
nói đi... không sao đâu!
- Ờ... tôi
muốn nói là... là tôi... mai đi bộ đội đấy!
- Thì...
Liên biết rồi mà.
- À, đúng
rồi, tôi muốn nói là... Liên ở nhà đi học tiếp nhé. Nhớ bao giờ đi lấy chồng
đừng quên tôi.
- Ứ... Liên
sẽ không đi lấy chồng đâu!
Cứ thế,
như bao đôi trai gái thẹn thùng khác, điều muốn nói Huy vẫn chưa nói được. Hồi
nhỏ, chí choé cấu véo nhau thật tự nhiên, nhưng lúc chia tay, một cái nắm tay
vẫn ngại. Đọc tiểu thuyết thấy chỗ nào nói đến chữ hôn là đánh dấu thật kỹ,
thỉnh thoảng lại dở ra đọc đi đọc lại; trong những đêm trằn trọc, ngọn lửa
bản năng cháy bùng lên mãnh liệt trong cơ thể trẻ trung của những chàng trai,
những “vùng cấm” trên thân thể người thiếu nữ thực sự là thiên đường bí mật;
thế nhưng trước người yêu, rất ít trai làng dám khám phá, ngay cả việc đơn
giản nhất là thực hiện một cái hôn thôi! Để rồi, sẽ lại nuối tiếc cả một đời.
Cái hôn ở thôn quê thời ấy vẫn là một điều “hệ trọng”. Giữa cánh rừng thăm
thẳm, Huy cũng thấy tiếc nuối, nếu mai đây, giả dụ trong cuộc chiến này mình
mất đi, hóa ra cái hôn mặt ngang mũi dọc thế nào vẫn chưa biết! Khỉ thật! Huy
thấy người bạn gái thật hiền, chẳng khác gì cô Tấm trong câu chuyện cổ, nhưng
cô Tấm của Huy không nón thúng quai thao, áo dài tứ thân, chỉ áo gụ, cổ trái
tim thôi... Bất chợt, những vần thơ không biết ở đâu bỗng chốc hiện về . Anh
liền đốt vội chiếc đèn dầu mà lính Miền Đông thường tự tạo bằng chai dầu
muỗi, lấy giấy bút cặm cụi viết:
Những hạt mưa mang theo
mầu đêm
Rơi êm đềm trên tán cây, vạt cỏ
Những hạt mưa đều đều
như nhịp thở
Làm trào lên nỗi nhớ
đêm nay!
Ở nơi em mưa có đang bay?
Để mát lành vây quanh giường em ngủ...
Huy chợt
giật nẩy người khi giọng Nhữ bất ngờ vang lên:
- Ông tướng
làm thơ hả, nhớ nàng rồi phải không? Vừa nói Nhữ vừa giật tờ giấy trong tay
Huy - Đưa tớ đọc thử xem sao?
- Thơ tớ
chỉ là thơ con cóc thôi, cậu thấy đấy, hồi đi học toàn xơi ngỗng môn văn, thỉnh
thoảng lắm mới được điểm năm.
Nhưng đọc
xong, Nhữ lại reo lên:
- Ô! Thơ
Huy cứ như thơ của nhà thơ chính hiệu ấy. Hay thật! Nhưng sao trời đang sáng
trăng vằng vặc thế này mà lại nói là trời mưa?
- Mày không
thấy người ta bảo nhà văn nói láo nhà báo nói phét à? Sáng tác thì phải bịa
chứ! Tao viết về nỗi nhớ, nỗi nhớ tức là phải buồn, vì thế phải nói trong khung
cảnh trời mưa sẽ hợp hơn. Đấy, tao nghĩ như thế đấy.
- Ừ, thầy
dạy văn cũng bảo, muốn sáng tác phải có năng khiếu chứ không phải cứ học giỏi
môn văn là được đâu. Mà Huy đâu phải học dốt văn, chỉ cái tội lười không thuộc
thơ văn để lấy dẫn chứng khi làm bài thôi.
- Đúng thế
thật! Tao không bao giờ thuộc nổi thơ văn trong sách giáo khoa mày ạ!
***
Thời gian
thơ mộng đối với những người lính trẻ qua nhanh, cuối năm 74, bộ mặt chiến
tranh thực sự hiện ra với đầy đủ sự hung tợn, ác liệt của nó. Lúc này, tại
Quân khu bộ, những người lính cơ quan cũng được tổng động viên, một trung đoàn
được thành lập để bổ sung cho Cánh quân hướng Đông. Cuộc Tổng tấn công vĩ đại
chưa từng có trong lịch sử dân tộc sắp bắt đầu! Huy và Nhữ vẫn được ở cùng
nhau trong một trung đội thuộc C2, D74, E5, Quân khu Miền Đông.
Sau nhiều
năm, những hình ảnh của một thời gian khổ, khốc liệt nhưng hào hùng ấy, tuy
không còn mạch lạc, nhưng luôn khắc sâu những ấn tượng trong ký ức Huy. Những
buổi chuyển quân vai chảy máu khi phải vác những quả đạn to như con lợn nhỡ; mùa
mưa đất đỏ bám theo mỗi bước đi nặng trịch như đeo hai quả chùy; dốc cao trơn
nhẫy, bàn chân phồng rộp, bỏng rát, tứa máu, còn luôn bị trượt khỏi dép, đạp
lên những hòn sỏi, buốt thấu đến tận tim óc! Những đêm đào công sự sỏi trắng,
sỏi đỏ chặt như nêm, cuốc chim tóe lửa, không gì thất vọng cho bằng phía dưới
lại hiện ra lù lù cái lưng tảng đá xám ngoét như lưng con voi; giờ G đã sắp
điểm mà phải bắt đầu đào lại. Những lúc như vậy, bên Huy lúc nào cũng
có Nhữ đỡ đần, thằng bạn răng hơi vổ, da hơi đen, tính tình chu đáo như một
bà chị cả, nhưng lại khỏe mạnh chắc nịch như một tay lực điền chính hiệu. Hồi
đi học, dù điểm thi thường là cao hơn Huy nhưng Nhữ lại rất phục Huy, bởi Nhữ
biết là Huy có tài. Huy ít học bài, nhưng những bài toán khó nhất cả lớp
không ai giải được, thì người lên giải sẽ lại chính là Huy, cái thằng bạn
khác người, thất thường, lầm lì, mắt xếch, vóc dáng có phần hơi ẻo lả. Một
trong những lý do có vẻ ngây ngô khiến Nhữ xung phong đi bộ đội là để được ở
bên giúp Huy, vì Nhữ thấy tính Huy không hợp với chiến tranh. Chiến tranh cần
sự cẩn trọng, chu đáo, kiên trì, kịp thời...; chiến tranh không mang tâm hồn
nghệ sĩ; nó không có chỗ cho sự tùy hứng. Viên đạn ra khỏi nòng súng bay rất
nhanh và thẳng, cứ thế xuyên qua mục tiêu, nó không biết xúc
động!
Giờ đây,
trong tất cả những hình ảnh xa vợi, hỗn độn, nhòa nhạt của quá khứ, thì trong
ký ức Huy, trận đánh đầu tiên, hình bóng thằng bạn thân yêu, luôn hiển hiện rõ
nét hơn tất cả.
***
(Cầu La Ngà)
(Tượng đài)
(Nhìn từ cầu La Ngà)
Trận ấy, đơn vị của Huy và Nhữ được giao nhiệm vụ dùng 1 tấn bộc
phá giật đổ cây cầu La Ngà bắc qua sông Đồng Nai trên một tuyến giao thông
quan trọng, rồi trụ lại chốt chặn, cắt đường chi viện của Sư 18 địch, để quân
ta tiến hành chắc thắng những trận đánh phía Phương Lâm, Định Quán. Với
những người lính binh nhất 19 tuổi như bọn anh thì chỉ hiểu được láng máng
như vậy.
Đêm ấy,
hai đại đội, C2 của Huy và Nhữ và C1 thuộc D74, tiếp cận ấp La Ngà,
mỗi đại đội một bên đường, hỗ trợ cho một trung đội đặc công thủy chuyển khối
bộc phá tiếp cận mục tiêu; giờ G điểm hỏa, các bộ phận sẽ xông lên đột ấp,
xây chốt...
Từ nơi đóng
quân bên một khe suối, hành quân qua những khu rẫy chuối, đu đủ trĩu quả, những
rừng mía bạt ngàn, đoàn quân rồng rắn nhấp nhô, súng đạn đầy mình, lầm lũi đi
trong ánh hoàng hôn. Đến một rẫy mía ở bìa ấp đơn vị dừng lại.
Mọi người
để nguyên ba lô ngả lưng, chờ đợi. Lúc này, Huy đã tự hỏi, không biết rồi
sau trận đánh này trở về sẽ thiếu ai, số đó có mình không? Nếu có, không biết
mặt mũi cái chết sẽ như thế nào? Những người bạn cũng đang im lặng, đang trầm
tư như anh kia, trước trận đánh đầu tiên này, không biết họ đang nghĩ gì? Sau
này, Huy đã được xem nhiều phim ảnh chiến tranh, với con mắt của người từng tham
chiến, anh thấy nhiều phim, người lính chỉ như là những mô hình để thực hiện
các ý đồ của đạo diễn: hoặc hớn hở coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, hoặc mặt
đằng đằng sát khí coi quân địch như cỏ rác. Không, không phải! Người lính trong
chiến trận không phải như vậy! Không phải ai cũng là anh hùng, ai cũng là gỗ
đá! Trước khi là lính, họ đều là, hoặc những chàng trai nông dân cù mì, đa
cảm, hiền từ, hoặc những chàng học sinh ném lỉnh; trước mỗi trận đánh, bản năng
sinh tồn trỗi dậy, không người lính nào không nghĩ đến cái chết; không ai
không sợ chết; họ rất hiểu giá trị của cuộc sống, hiểu nỗi đau để lại khi mình
mất đi; họ lo lắng cho mẹ, cho những người thân yêu... Nhưng bên cạnh đó, họ
cũng lại là những chiến sĩ được giáo dục; có ý thức rất rõ về trách nhiệm,
nghĩa vụ... Tất cả, tất cả những tình cảm, những tâm trạng, những nghĩ suy ấy
đã trộn lại trong đầu óc họ, tạo nên một trạng thái bồi hồi, náo nức, cùng
những âu lo, phấp phỏng... thật khó diễn tả.
Rồi giờ G đã điểm, một ánh chớp bỗng nháng lên chói gắt, sáng lóa cả
một vùng; một tiếng nổ long trời lở đất, như ngàn vạn tiếng sét được bó lại
đồng loạt gầm lên; nước, đất đá dưới sông Đồng Nai được ném lên rào rào.
Trong thế bất ngờ, và trạng thái kích động bởi tiếng nổ, các mũi nhanh chóng
đột ấp. Huy cố bám theo đội hình. Lần đầu tiên vào một ấp miền Nam cũng
nhiều lạ lẫm, rất nhiều cây cối lúp xúp, Huy chỉ nhận ra được cây chuối, cây
mít quen thuộc. Bàn chân, hai ống chân bị dây thép gai và gai mắc
cỡ cào tứa máu, hai đầu gối húc vào những tảng đá nằm phục trong bóng tối
sưng vù, vậy mà Huy không cảm thấy đau đớn gì. Hình như tất cả ý thức được
huy động hết vào cái công việc cấp bách, hệ trọng, hiểm nguy, nên những cảm
giác đau đớn thông thường bị lấn át hết cả, và các đầu dây thần kinh cảm giác
cũng quên mất nhiệm vụ của mình! Đến các vị trí xung yếu: những ngã ba,
đỉnh dốc, ụ đất, lùm cây... đơn vị dàn quân; cứ một tổ ba ba, lính mới lính
cũ kèm nhau, chung một hầm. Tổ của Huy ngoài Huy ra còn có Phẩm và Dũng. Phẩm
quê ở Tiên Lữ, da đen trũi, hồi ở nhà chuyên đóng gạch, người chắc nịch như
con gấu; còn Dũng là tiểu đội trưởng, một cựu binh dân Long An, từng là du
kích, đánh nhau rất chì, nhưng rất hay chửi thề. Bọn Huy rất may là tìm được
một căn hầm rất kiên cố có sẵn của dân, nó lại được một cây mít cổ thụ lúc
nào cũng như khom lưng che chở cho. Tổ của Nhữ ở bên cạnh, cách hầm Huy vài
chục mét.
Ngay sau
tiếng nổ, như con thú đang ngủ say bị đánh thức bất ngờ, bọn địch đóng ở lô
cốt hai bên cầu bừng tỉnh và lập tức nã đạn. Súng đạn các cỡ thi nhau gầm lên
loạn xạ, xé không khí chiu chíu, vạch những đường đạn đỏ lừ, loằng nhoằng đan
nhau, rạch nát màn đêm. Nhưng giữa khoảng đen bao la, chúng không thể biết
đâu là mục tiêu, nên cũng chỉ bắn hú họa, và cũng không thể đổ đạn vô tội vạ
mãi được. Không gian lại trở lại im lặng, nhưng là cái im lặng đã được kéo
căng ra như sợi dây đàn, cái im lặng trước một trận động đất, một cơn bão!
Sáng ra,
như vừa ăn sáng, cà phê cà pháo đàng hoàng xong, pháo địch từ bốn hướng bắt
đầu khạc đạn. Một trận đánh nhỏ đầu chiến dịch chẳng khác gì đụng vào tổ ong,
tất cả các cụm pháo ở vùng xung quanh như Định Quán, Túc Trưng, Gia Kiệm, cây
số 125... bu lại, rót pháo như giội nước; cái ấp nhỏ rung lên bần bật như một
hòn đất bị vồ nện. Căn hầm Huy nằm bên những căn nhà lợp mái tôn, pháo đụng
nổ ngay trên mái. Tiếng pháo nổ gần rắn đanh, đinh tai nhức óc, áp suất cao
như dứt da dứt thịt, trộn với tiếng những mái tôn bị đập như trăm ngàn phèng
la cùng gầm lên ù tai, lộng óc. Những tấm tôn bị dứt xé bay lên trời lả tả
như những tàn giấy, rơi xuống xoang xoảng, xoang xoảng! Không khí khét lẹt
mùi thuốc súng trộn với mùi nhựa cây cháy, căn hầm chao đảo như một tổ chim
trước giông bão...
Pháo ngừng,
bọn bộ binh lập tức tấn công. Chiếc cầu không sập, hình như do bộc phá được
điểm hỏa trong tình trạng thả trôi nên nổ không chính xác. Một bộ phận bọn Sư
đoàn 18 bên kia sông cứ từng đợt, từng đợt tràn qua cầu đánh nhau với tiểu
đoàn của Huy, hòng đoạt lại cái ấp. Qua cửa hầm, Huy nghe thấy phía ngoài lộ
tiếng xe ô tô và tiếng bọn lính hô hét, chửi thề nhộn nhạo, anh cũng nhìn
thấy thấp thoáng bọn chúng đầu cát-ket, lưng ba lô, quân phục xám xanh, tay
cầm súng, băng đạn quấn đầy mình, từ trên xe nhảy xuống. Bọn địch mà anh đã
được biết từ vô vàn thông tin thực sự là như thế ư? Biết là chúng cũng thuộc
giống người như mình nhưng anh vẫn cảm thấy có cái gì đó rất khác biệt, cứ
như một loại sinh vật nào đấy rất nguy hiểm mà bọn anh cần phải tiêu diệt ngay,
nếu không, chính chúng cũng đang hùng hổ lùng sục bọn anh để tìm diệt...
Nhưng đây
chỉ là những cảm nghĩ của Huy trong trận đánh đầu tiên. Còn sau giải phóng,
khi thấy bàn thờ của gia đình bên nơi đóng quân ở Biên Hòa, để hai tấm hình
thờ hai cha con ở hai phía trận tuyến, anh đã hoàn toàn nghĩ khác. Rồi khi
chuyện với Liên ở quê gãy đổ, đem lòng yêu một người con gái Sài Gòn có gương
mặt hao hao gương mặt của Đức Mẹ, anh hoàn toàn không quan tâm đến chuyện cô
có hai chú ruột, một đại úy, một linh mục tuyên úy thuộc quân lực VNCH. Vì
nghĩ rằng, số phận của mỗi con người thật nhỏ bé, chỉ như một hạt bụi bị cuốn
đi bởi con lốc cuộc đời. Nếu anh sinh ra ở miền Nam, biết đâu
cũng có thể trở thành một người lính Ngụy! Còn trong trận chiến đầu tiên,
trước giây phút sinh tử, một mất một còn, làm sao anh có thể nghĩ một cách
“nhân văn” như vậy được, chỉ có một ý chí tiêu diệt lẫn nhau mà thôi!...
Khi bọn địch tới
gần, những căn hầm quân ta ở gần lộ đã phát hỏa. Huy chỉ nhận ra tiếng AR15
của địch nổ đanh gọn và nhanh hơn, còn tiếng AK nổ trầm hơn và âm vang hơn,
có sức uy hiếp hơn; còn tất cả là một mớ âm thanh của B40, B41, M79, pháo,
cối... hỗn loạn trộn vào nhau, chát chúa, rú rít, gầm gào, nghiền nát sự yên
tĩnh của không gian và tâm trạng con người.
Tại hầm
Huy, Dũng có kinh nghiệm nên ở cửa hầm cảnh giới. Lúc này, không gì làm những
người lính mới bình tâm cho bằng khi được ở bên cạnh những bậc đàn anh dày
dạn trận mạc. Hai người chuẩn bị sẵn sàng ở dưới, được lệnh của Dũng sẽ đội
hầm đánh địch. Một toán quân địch đang lò dò tiến đến phía hầm của Huy. Tuy
rất tỉnh táo nhưng trước giây phút lần đầu giáp mặt với quân thù, với cái
chết, cơ thể những người lính mới tự nhiên run bắn lên, không sao kìm lại
được, bản năng sinh tồn mạnh hơn nhiều lần lý trí, nghe nói có người còn
“tè”cả ra quần nữa. Bọn địch đã tới tầm bắn, Dũng hét:
- Phẩm đâu,
lên bắn B40 ngay!
Phẩm lóng
ngóng mang B40 lên mặt hầm, nhưng cứ loay hoay mãi.
- Bắn ngay vào tụi núp ở gốc hồng xiêm kia!
Phẩm vẫn
chưa bắn mà lại gọi Huy:
- Huy ơi,
lấy tao ít giẻ đút lỗ tai, mày!
Trong tình trạng căng thẳng như vậy mà Huy còn phải bật cười, vội
xé miếng vải lau súng ngoi lên hầm đưa cho Phẩm. Đang ở dưới được đất che chở,
lên trên trống trải, Huy bỗng thấy sống lưng lạnh toát, anh chợt hiểu cái mà
người ta gọi “hở sườn” là như thế nào, và cái tâm trạng mình là mục
tiêu bị ngắm bắn là như thế nào.
Dũng văng tục :
- Đ.má!
Lẹ lên! Nó liệng cho trái lựu đạn chết ráo trọi bây giờ!
Phẩm chưa
kịp bắn, còn Huy, như phản xạ tức thời sau lời giục giã của Dũng, liền nghiến
răng bóp cò khẩu AK, báng súng thụi vào vai anh, nòng giật ngược lên trời, cả
băng đạn đuổi chim cò hết! Lập tức Huy cảm thấy đầy phấn khích, mấy tay cựu
binh nói đúng thật, khi súng đã gầm lên trong tay rồi thì đếch còn sợ gì nữa!
Nhưng anh lại thấy Dũng văng tục:
- Đ, má!
Bắn gì kỳ vậy? Hết đạn, rồi bắn bằng gì?
Đúng là
trong tình trạng hồi hộp, bao nhiêu bài học điểm xạ “pằng pằng” hai phát một quên
béng đi mất. Nhưng có điều đặc biệt nghiêm trọng là, khi đánh phục kích mà
bắn không trúng ngay loạt đạn đầu, sẽ chẳng khác gì “lạy ông tôi ở bụi này”!
Bọn địch phát hiện ra ngay mục tiêu, lập tức bắn rát rạt, hai luồng đạn đan
chéo cánh sẻ ghìm đầu bọn Huy xuống. Tình thế thật nguy kịch, không biết xử
trí ra sao, tính mạng ngàn cân treo sợi tóc. Một suy nghĩ rất nhanh lóe lên
trong đầu Huy, không lẽ mình lại chết vô duyên ngay phút khởi đầu thế này
sao? Bao công lao sinh dưỡng của mẹ cha, bao năm tháng học hành, bao ước mơ...
rồi bao ngày tháng tập luyện kỳ công nữa, không lẽ bị cắt ngang đơn giản thế
sao? Sinh mạng con người trong chiến tranh sao quá mong manh!... Bỗng một tiếng
nổ gầm lên, súng địch im bặt, bọn Huy cũng định thần lại bắn bồi thêm ngay,
hất bọn địch xuống dưới con dốc. Lúc này Huy mới nhìn sang phía hầm Nhữ, thấy
khẩu B41 trên vai thằng bạn còn bốc khói, còn nó thì toe toét, không biết do
cười hay tại hàm răng của nó hơi bị mất trật tự nhô ra! Mẹ kiếp! Mày chỉ chậm
tí ti là tao toi rồi! Lần đầu tiên anh cũng hiểu được “chia lửa” ở
chiến trường là như thế nào, và tình đồng đội không chỉ là tình bạn thông
thường mà còn hàm chứa những ý nghĩa thiêng liêng! Phía trước mặt, Huy thấy
rõ một cái đùi của một thằng lính bị tiện đứt, mặt cắt của nó lùi xùi gân
trắng nhởn, nhớp nhúa thịt máu đỏ lòm, quần áo còn bốc cháy loang lổ.
Ngày đầu
hình như địch cũng mới chỉ thăm dò, sự giành giật chốt còn chưa ác liệt. Cả
tiểu đoàn chỉ vài người bị thương nhẹ. Chiều ấy, bọn Huy ăn bữa cơm đầu tiên
trên trận địa, mỗi người được anh nuôi chia cho một nắm cơm, Huy ngồi nhai mà
thấy như miệng mình nhai rơm.
Đêm xuống, trận đánh tạm nghỉ, không biết những trận giữ chốt khác có
giải lao thế không? Chiến tranh với những người lính đã có một ngày kinh
nghiệm không còn quá bí hiểm nữa.
Sáng sau,
mới tinh mơ, mắt còn cay xè sau một đêm chập chờn thức ngủ, Huy ngạc nhiên
khi thấy Nhữ đã khệ nệ bưng sang hầm anh một nồi to, toe toét:
-Tớ tóm
được một con gà bị thương, nấu một nồi mì tôm đây này, cố ăn đi mấy tướng, lấy
sức mà đánh nhau!
Không hiểu
mì miếc, nồi niêu xoong chảo, củi lửa nó lấy đâu ra, mà lúc này Huy mới để ý,
không biết dân ấp có được sơ tán trước không mà mấy căn nhà gần hầm Huy không
có ai cả. Huy nói với Nhữ:
-Thôi mày
về hầm đi, kẻo pháo nó lại bắn đến ngay bây giờ đấy!
Quả
thực, khi bọn Huy chưa ăn hết nồi mì tôm, mà miệng đắng nghét khô khốc cũng
chẳng nuốt nhiều được, pháo địch lại bắt đầu dội đến, dữ dội hơn, ác liệt hơn
ngày đầu. Cứ sau khi pháo ngừng là bọn bộ binh lại xông lên. Quân ta, có công
sự nên đánh trả quyết liệt, hắt chúng xuống dễ dàng. Những quả B40, B41 có
sức uy hiếp rất lớn, cứ nện cho một phát, có mấy thằng bị thương vong là chúng
lui ngay. Nhưng không vì thế mà trận chiến kém ác liệt. Đạn, pháo vãi như trấu
không thể không trúng mục tiêu. Một người trung đội trưởng đã bị thương rất
nặng, một mảnh pháo xuyên qua ngực, qua cả khuỷu tay anh. Hai thằng khiêng
anh về tuyến sau kể “thấy rơi ra cả một miếng gan!”, Huy nghĩ chắc máu đông
chứ gan rơi ra thì làm sao mà còn sống được! Ai cũng tưởng anh không qua khỏi,
nhưng thực tế đến nay anh vẫn còn sống. Người ta bảo trong chiến trường có sự
linh ứng ngược, người bị thương tưởng chết thì hay sống, ngược lại, người
tưởng chắc sống lại hay bị chết!
Khoảng 10
giờ trưa, thấy một đợt pháo vừa bắn tiếng có vẻ trầm hơn, Dũng liền nói:
-Tụi nó
bắn pháo khoan đó, tụi bây! Cứ khi nào tiếng đề-pa nghe gọn là nó bắn về hướng
mình đó!
Quả thực,
phải kinh nghiệm như Dũng mới nhận ra được vậy, còn Huy chỉ cảm thấy duy nhất
một cảm giác y như bị nhốt bên trong một thùng phuy mà bên ngoài có người quại
búa tạ vào. Rất may căn hầm anh núp dưới cây mít to, pháo đụng là nổ ngay
trên cây, nên không việc gì. Đến khi một đợt pháo dài tưởng vô tận vừa ngừng,
bọn anh chợt thấy đại đội trưởng Bảy lù lù ở cửa hầm quát:
- Mang cuốc
xẻng sang moi hầm thằng Nhữ ngay!
Giời ơi!
Huy nấc lên, bật dậy. Anh Lộc y tá đã có mặt. Căn hầm bị san phẳng y như người
ta vừa bốc mộ lấp đất lại. Không lẽ dưới mặt đất câm lặng kia đang có ba sinh
mạng, lại còn có cả thằng bạn chí thiết của mình nữa! Nhữ ơi! Chúng mày đang
ra sao?!
Mọi người
khẩn trương moi hầm. Đất, cát, những cây gỗ, những tấm ván lót hầm được kéo
lên. Một cái đầu, tóc đen nhẫy, nhòe nhoẹt máu trộn đất, hiện ra. Đại trưởng
kêu lên:
- Moi mũi cho nó thở!
Mọi người
nhận ra Khuê và chỉ thấy “phì” một cái rồi thôi; Khuê đã bất tỉnh, nhưng còn
thoi thóp. Sau này, vốn có tính tò mò, Huy đã hỏi Khuê là thấy thế nào trong
cái lúc bị chôn sống ấy? Không ngờ, câu trả lời của Khuê thật đơn giản: “Không
thấy gì cả”! Thì ra, cái chết đến với người trong cuộc không kinh khủng
quá như những người chứng kiến! Hai người xốc nách Khuê mang lên đặt bên cây
vú sữa để anh y tá làm những việc cấp cứu. Moi được một lúc nữa thì tìm được
Thái, người nhỏ bé, đã khá tuổi, hàm răng như nhuộm đen, quê Thái Bình. Anh
bị một mảnh pháo nhỏ xuyên qua chỗ mang tai và đã hy sinh! Còn lại mình thằng
bạn của Huy. Làm sao mày sống nổi dưới vô vàn mảnh pháo khoan như thuốn kia?
Nếu không bị thương thì cũng làm sao mà thở được? Tự dưng tay chân Huy bủn
rủn, luống cuống, nên anh được thay ngay. Rồi Nhữ cũng đã được tìm thấy. Một
cây đà đè ngang ngực làm gẫy tay và xương sườn Nhữ; máu trào ra cả mũi và
miệng; giữa trán một mảnh pháo khoan xuyên qua để lại một vết thương chỉ nhỏ
như hạt đậu, nhưng nó vẫn đủ sức giết chết Nhữ ngay! Thế là hết! Một nỗi
trống vắng mênh mông dâng ngập lòng Huy. Ý muốn được trả thù cũng cuồn cuộn
dâng lên!
Trận ấy,
vì không giật đổ được cây cầu, tiểu đoàn của Huy đã phải trả giá bằng trận
đánh giữ chốt khốc liệt, các anh đã chặn địch không phải bằng việc cắt đường
giao thông mà bằng chính tính mạng của mình. Nhiệm vụ đã hoàn thành, nhưng
đơn vị thương vong gần hết. Có điều, mọi người không ngờ rằng, đi đánh sập
cầu mà lại giữ được cầu, không hoàn thành trọn vẹn nhiệm vụ nhưng lại làm nên
một chiến công ngoài dự tính! Bởi sau đó chiến dịch phát triển quá nhanh, thế
trận thay đổi, chính chiếc cầu lại làm nhiệm vụ nối liền một trục đường tiến
công của đại quân ta đánh Long Khánh, trận đánh ác liệt nhất, mở cánh cửa máu
tiến về Sài Gòn!
Sau đó,
bọn Huy đã chôn Nhữ và đồng đội tại một bìa rừng. Đêm lạnh, xác mấy người co quắp
lại. Bọn Huy đã vào nhà dân lục tìm dầu nóng để bóp, nhưng không biết lại lấy
nhầm dầu 777, nên cái mùi dầu này còn ám ảnh anh mãi đến tận hôm nay. Huy để
Nhữ nằm gối đầu về phía Nam
để lúc nào Nhữ cũng có thể nhìn được về quê hương mình. Ngoài lọ penexilin
để tên tuổi, Huy cũng đẽo cho Nhữ một tấm bia gỗ.
Thế đó,
với Huy, chiến trường thực sự chỉ có mấy tháng cuối cùng của cuộc chiến như vậy,
trận đánh thực sự ác liệt cũng chỉ có trận đầu tiên ấy. Nó chỉ như một ví dụ
về chiến tranh đối với cuộc đời anh, thế nhưng vẫn cho anh thấy toàn bộ sự
tàn khốc của nó, sự mong manh của tính mạng con người trước đạn bom, sự sợ hãi
của con người khi đối diện với cái chết, sự đớn đau trước những mất mát hy sinh...
và cuối cùng, nó cũng cho anh biết được thế nào là niềm vui chiến thắng! Cái
niềm vui không giống với bất cứ niềm vui nào, nó lớn lao hơn tất thảy, cao cả
hơn tất thảy, bởi nó được đổi không phải bằng bất cứ thứ bạc vàng châu báu
nào, mà bằng một thứ còn quý giá hơn vô vàn lần: đó là máu, là chính sự sống!
***
Sau đó,
hòa bình về, sau khi thi xong vào đại học, Huy mới về quê. Đó là những khoảnh
khắc hạnh phúc nhất của cuộc đời anh. Sự gặp mặt vui mừng hơn nhiều lần sau
xa cách, sự sống quý giá hơn vô vàn lần sau trải qua chết chóc, những người
lính trẻ về quê thực sự như những người anh hùng!
Huy đã đến
thăm cha Nhữ. Anh chàng đã mang nguyên vẹn niềm vui và cả cái tuổi trẻ nông
nổi đến gặp ông, mà không biết rằng, nỗi đau của người cha mất đứa con độc nhất,
nỗi đau tuyệt diệt của một dòng họ, cuồn cuộn dâng lên trong lòng ông. Anh
chàng còn ngu ngốc tỏ ra hãnh diện, như là một ân nhân, bởi là người đã chứng
kiến cái chết của con ông, đã mai táng chu đáo cho con ông, rồi lại còn mang
về giao lại cho ông bao kỷ vật nữa! Anh chàng cũng còn hứa hươu vượn nhiều điều
với người cha tội nghiệp, mà sau này, cuộc sống trong hòa bình không phải chỉ
có mầu hồng như anh chàng tưởng, anh chàng đã không thực hiện được điều gì.
Ngay tình yêu với cô bạn cùng xóm xinh đẹp kia, trong gian khổ hy sinh, trong
xa cách, tưởng như như bất tử, nhưng anh chàng lại thấy là “không hợp” giữa
cuộc sống bon chen nơi phố xá. Nếu cưới Liên, chỉ mỗi việc lo “chuyển hộ
khẩu” thôi, cũng đã đủ làm cho Huy khiếp vía rồi. Chia tay Liên Huy cũng
tiếc, nhưng đành vậy. Tồi tệ hơn nữa là, những lần về quê Huy lại ngại không
đến thăm cha Nhữ, với cái cớ, đã không giúp được gì thì thôi, đến gặp chỉ gợi
thêm trong ông những đau khổ... Chỉ khi khá thành đạt, suy nghĩ cũng chín
chắn hơn, anh chàng định làm một điều gì đó có ý nghĩa cho ông cụ, thì ông
đã chết! Chua xót thay!
Nhữ ơi,
tao đã trả ơn mày như thế đấy! Thằng bạn suốt đời chỉ biết nhường nhịn, cả tình
yêu, cả sự nghiệp,... và cả mạng sống nữa. Như bao người lính trẻ khác, mày
chưa nhận được tí ti gì của cuộc sống, mà cuộc sống hôm nay tồn tại được chính
từ những cái chết của chúng mày! Cái điều quá cũ mòn ấy ai cũng biết, nhưng
hành động để đáp trả thì không phải ai cũng nghĩ đến. Bây giờ, tao đã vác
trên mình một khuôn mặt thành đạt. Sự thành đạt quyến rũ lắm, mày không biết
đâu, nhưng để có nó cũng khó khăn lắm, nên nhiều người đã vì nó mà phải trả
mọi giá, kể cả lương tâm mình! Thằng bạn của mày, tuy chưa đánh mất lương tâm,
nhưng từ lâu có phải tao cũng đã là một kẻ vô tâm, một kẻ tham lam, ích kỷ
rồi không?
Bình Thạnh
Ngày giỗ thứ chín của cha
13-5(âm lịch)1999
Sửa chút ít 22-12-2008
|