ĐÔNG LA
NGUYÊN NGỌC VÀ NHỮNG LỜI “VÀNG” NGỌC
Trong bài Hy
vọng gì … trên basam
Nguyên Ngọc không chỉ viết: “Mà đứng đầu
cái hội đồng ấy thì theo dư luận là mấy người chẳng dính dáng gì và chẳng biết
chút gì về văn học nghệ thuật cả” mà còn viết:
“Trong
cuộc gặp của Tổng bí thư Nguyên Văn Linh với văn nghệ sĩ cách đây mấy mươi năm,
anh Nguyễn Đăng Mạnh có nói một câu chấn động, anh bảo Đảng khinh bỉ sâu sắc
văn nghệ sĩ. Có người cho là giận mà nói quá. Nay với cái hội đồng vừa kể có
người đứng đầu như vừa nói, lại có quyền hành lớn nhất về văn học nghệ thuật
trên đất nước đau khổ này, thì quả là một sự sĩ nhục to lớn đối với toàn
bộ giới văn nghệ và lý luận văn nghệ”.
Vậy Nguyên Ngọc là người như thế nào mà dám nói như trên?
Ở bài trước tôi đã cho chính Nguyên Ngọc là người “không biết gì” và “nói năng lấc cấc”. Vậy để chứng tỏ tôi thuộc lớp đi sau không phải
là hỗn hào với một người thuộc hàng cô, chú của tôi, xin được liệt kê một cách
toàn diện những nét chính về tài và trí của Nguyên Ngọc.
Trần Đăng Khoa từng cho
Nguyên Ngọc thành danh với những tác phẩm “người
tốt việc tốt”, như một Tố Hữu, một Phạm Tuyên trong văn xuôi. Theo Khoa: “tập truyện ngắn Rẻo cao… thật sự là
kiệt tác… Phải nói đó là những trang
văn hay… là thứ văn trong, sánh như mật ong, lại đượm ướp một làn hương rất đặc
biệt. Đọc cứ bàng hoàng váng vất mãi”.
Tôi tìm đọc thì thấy chắc TĐK “bàng hoàng váng vất” vì 2 câu này: “Mùa xuân về trên rẻo cao đã làm nở những thứ
hoa chỉ thơm ban đêm, kín đáo như nụ cười tình của một cô gái Mèo”; “Cùng với khí lạnh của đêm mùa xuân trên núi
cao, bỗng tỏa vào nhà một thứ hương hoa tím nhạt, xa vắng và gần gũi, thoang
thoảng êm dịu như mùi thơm của cả mùa xuân, của cả núi rừng Mèo”.
Xem kỹ một chút thì thấy Nguyên Ngọc
viết “một thứ hương hoa tím nhạt, xa vắng
và gần gũi”, theo cách nói của Trần Mạnh Hảo, là “sai tiếng Việt”! Với cách
nói thông thường, người ta có thể nghe thấy một giọng nói “ấm áp” nhưng không ai lại ngửi thấy một thứ mùi hương có màu “tím”
cả. Cũng chỉ có thể viết xa xôi
mà gần gũi chỉ cảm giác lúc
gần lúc xa của tâm trạng, chứ không thể viết xa vắng và gần gũi, vì đã xa
vắng sao còn gần gũi được?
Sau chiến tranh mấy năm, với tài năng ấy, Nguyên Ngọc đã được
giao trọng trách lãnh đạo Hội Nhà Văn, làm Bí thư Đảng Đoàn. Đó chính là đỉnh cao trên quan lộ của ông.
Chắc là dấu ấn đậm nhất nên trong bài Hy
vọng gì … ông cũng kể:
“… đầu năm 1979, tôi được điều về làm việc ở
Hội Nhà Văn Việt Nam.
Anh Độ bấy giờ là Trưởng ban Văn hóa văn nghệ trung ương. Một hôm anh bảo tôi
sang chỗ anh chơi …
Anh Độ ngồi im một lúc, rồi nói, chậm rãi: “…
trong nghệ thuật thường vẫn vậy, muốn có đỉnh cao mới thì bao giờ cũng phải có
trường phái mới …, cậu nghĩ coi, có đúng không?”
… Ý kiến của anh khiến tôi giật mình, kinh
ngạc. Không ngờ anh tinh tế, sâu sắc, thậm chí cũng có thể nói uyên bác đến
thế… Cho đến nay tôi vẫn nghĩ chúng ta đã bỏ mất một người lãnh đạo văn nghệ
giỏi nhất, hay nhất, tốt nhất mà ta đã từng có thể có. Bao giờ mới tìm lại được
một người như vậy?”
Cái
ý Trần Độ “muốn
có đỉnh cao mới thì bao giờ cũng phải có trường phái mới” thực ra
không đúng so với thực tế. Những nhà văn vĩ đại như Dostoyevsky, Márquez và
nhiều nhà văn đoạt giải Nobel cũ và mới, họ chỉ sáng tác theo “trường phái” của
chính họ chứ không phải chạy theo các trường phái hình thức đã tự tôn lên thành
các chủ nghĩa như Tượng trưng, Siêu thực,
Hậu hiện đại; Tân hình thức; v.v… Vậy mà Nguyên Ngọc lại “giật mình, kinh ngạc…” về Trần Độ. Một lần nữa chứng tỏ Nguyên Ngọc lại
có tính bốc đồng, nhận thức đầy cảm tính, hay tưởng tượng ra những cái phi thực
tế.
Trần Độ, vị tướng xông pha dọc
ngang, lên Bắc vào Nam, với những công trạng lừng lẫy, khi được giao lãnh đạo
lĩnh vực văn hóa văn nghệ, ông đã cho ra “Nghị quyết 05”:
“… Nền văn hóa mới Việt
Nam xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin là một nền văn
hóa xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc … Bản chất quyền tự do sáng tác của
văn nghệ sĩ nằm trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo … Làm thất bại âm
mưu và hoạt động của các thế lực thù địch và phản động hòng biến văn hóa, văn
nghệ thành phương tiện gieo rắc tâm lý bi quan và lối sống sa đọa…”
Về lý thuyết, rõ ràng Trần Độ đã làm quá tốt. Chính vì thế TBT
Nguyễn Văn Linh mới ủng hộ ông hết mình.
Còn Nguyên Ngọc, dưới trướng của
Trần Độ, khi được giao trọng trách Bí thư Đảng Đoàn Hội Nhà Văn cũng đã đưa “Bản đề dẫn” cũng lại quá hay! Trong cuộc gặp nổi tiếng với TBT
Nguyễn Văn Linh để “cởi trói” văn nghệ, Nguyên Ngọc nói: “nghệ thuật giữ cho con người không sa xuống thành con vật” và “Cái
cốt lõi của văn nghệ là tính nhân đạo”.
Tiếc là khi triển khai vào thực tế thì giữa “lời nói” và “việc
làm” lại ngược nhau. Với tờ Văn nghệ, Nguyên Ngọc đã khai sinh ra một tên tuổi
mới chính là Nguyễn Huy Thiệp, với một loạt truyện ngắn mà truyện"Phẩm
tiết" chính là một trong những yếu tố khiến Trần Độ bị kỷ luật!
Trong truyện này NHT đã miêu tả Vua Quang Trung như một tay du
côn và cho Nguyễn Ánh mới là nòi vương giả. Nhà văn Mai Ngữ đã cho NHT lăng
nhục cha ông tổ tiên mình. NHT (bản gốc) cũng dùng tài văn “nhét c. vào mồm thằng Khải tài như cái đấu” mà dám chê tiệc của vua
nhạt và “xẻo d. thằng Thi” xem có còn
dê được không?
Đến nay, Nguyên Ngọc và còn nhiều người vẫn đề cao văn chương
Nguyễn Huy Thiệp, như Phạm Xuân Nguyên chẳng hạn. Nhưng cũng như vụ bênh Nhã
Thuyên, họ đã đọc văn Thiệp bằng lối đọc mù chữ, còn Nguyên Ngọc đã bất chấp
tuyên bố của mình: “nghệ thuật giữ cho
con người không sa xuống thành con vật” và “Cái cốt lõi của văn nghệ là
tính nhân đạo”. Bởi trong văn Nguyễn Huy Thiệp có rất nhiều chi tiết, hình
ảnh, ý tứ “vả vào mồm” chính Nguyên Ngọc. Về chân dung người nông dân VN: “
Chẳng có khuôn mặt nào đáng là mặt người. Mặt nào trông cũng thú vật, đầy nhục
cảm, không đểu cáng, dối trá thì cũng nhăn nhúm đau khổ”; tả mặt một người đen và tái như da ở “bìu dái”, “lông chân như lông lợn”; về chính trị:
“Chính trị rặt trò mờ ám bỉ ổi”; về văn chương: “Văn chương là thứ bỉ
ổi bậc nhất”; trong truyện Không có vua, hành động loạn luân bố chồng
bắc ghế nhìn trộm cô con dâu tắm đã được biện minh: “Đàn ông chẳng nên xấu
hổ vì có con buồi...”; ghê sợ hơn
nữa, trong Tướng về hưu, nhân vật chính cho chuyện vợ là bác sĩ sản khoa
thường lấy xác thai nhi nấu cho chó ăn là “chả quan trọng gì”; v.v…
Trong văn chương thế giới có nhiều chuyện còn ghê
gớm hơn. Csáth Géza
với truyện Kẻ giết mẹ kể chuyện hai
đứa trẻ vì không được người mẹ quan tâm đã phản kháng một cách vô thức bằng
cách bắt giết những con thú hoang, rồi chúng quen tay, khi đến tuổi dậy thì cần
tiền thỏa mãn tính dục, chúng đã dễ dàng giết chính mẹ mình. Dư Hoa trong
truyện Sống kể câu chuyện trong một
bệnh viện người ta đã lấy sạch máu một đứa học trò 13 tuổi, con một cựu binh,
làm nó chết, để tiếp máu cho bà vợ của ông chủ tịch huyện vốn là lính của cha
đứa bé.
Giống như một bệnh nhân cần bác sĩ,
cái cơ thể xã hội cũng cần đến những bác sĩ, đó chính là những nhà tư tưởng và
những nhà văn mà tác phẩm của họ có tầm tư tưởng. Họ viết về phần tăm tối của
con người để rung hồi chuông cảnh tỉnh, viết về cái ác với tấm lòng lương thiện
chính là hướng người đọc về phía thiện. Nhưng văn của Nguyễn Huy Thiệp không như vậy. Qua những dẫn chứng trên, Nguyễn Huy Thiệp
thường xóa nhòa ranh giới giữa đúng sai, thiện ác bằng cái nhìn vô cảm của mình
và bằng những hành động, lời nói mất nhân tính của các nhân vật.
Như vậy hai người “có công” đầu làm Trần Độ thất sủng chính là
Nguyên Ngọc và Nguyễn Huy Thiệp.
Chính
Trần Độ thừa nhận Nguyễn Huy Thiệp “có
thể chưa hay, chưa giỏi trong việc xây dựng nhân vật văn học lấy nguyên mẫu từ
một anh hùng dân tộc, vua Quang Trung” và “… với truyện ngắn Phẩm Tiết… anh
Thiệp thực có ý định nêu tên để chửi rủa vài người nào đó, thì đó là ý định
xấu, có hại”.
Chính
ông cũng phải thừa nhận sự yếu kém của chính mình: “Tôi tự thấy tôi là người không thiếu bản lĩnh, nhưng do tính phức tạp
của môi trường mới mà chất lính trong tôi chưa hòa nhập được, nên tôi bị vấp
ngã giữa đường”.
Tôi
cũng đã viết: “Và xem chừng Trần Độ bị kỷ
luật bởi vì ông đúng như lời Tướng Nguyễn Sơn từng nói về ông mà chính ông đã
kể lại trong Hồi ký:
- Mày ngồi đây làm gì. Mày thì
biết chó gì văn nghệ”.
Tiếc
là Trần Độ, vị tướng có nhiều công trạng trong kháng chiến, ông quen chung vui
niềm vui chiến thắng mà không biết cách chấp nhận thất bại của riêng mình, đã
trở cờ, phản lại sự nghiệp cách mạng vĩ đại mà chính mình đã dấn thân. Khi
đương chức ông cho Chủ nghĩa Mác Lê-nin là mặt trời chân lý sáng soi, ngược lại
khi mất chức ông lại cho là “cái bánh vẽ
khổng lồ”.
Như vậy tại sao Nguyên Ngọc vẫn
khăng khăng đề cao Trần Độ: “Cho đến nay tôi vẫn nghĩ chúng ta đã bỏ
mất một người lãnh đạo văn nghệ giỏi nhất, hay nhất, tốt nhất mà ta đã từng có
thể có. Bao giờ mới tìm lại được một người như vậy?”
Chứng
tỏ Nguyên Ngọc lại thể hiện tính bất chấp sự thực, cố chấp đề cao Trần Độ một
cách băng nhóm, bè cánh. Khi nắm trận địa báo Văn Nghệ, Nguyên Ngọc còn đăng
bài “Hãy đọc bài ai điếu cho nền văn
chương minh họa” của Nguyễn Minh Châu; tạo nên cái không khí Hồng vệ binh “lật đổ các thần tượng đã rữa nát” thời
ấy.
Theo
Văn Chinh viết: “Nguyên Ngọc - người tạo
gió trong văn học, góp gió nhiệt tâm của mình vào gió lớn thời đại để ngọn cờ
văn học được phất lên mạnh mẽ; cũng chính là người làm hỏng, làm chậm đà đổi
mới của văn học”; rồi: “Với cá tính
triệt để và cực đoan, … Cái người nhân danh dân chủ này lại mất dân chủ một
cách trắng trợn đến thế, …cái lý cố gì mà Tổng biên tập tờ báo của Hội lại
không đăng, nhất định không đăng nghị quyết của BCH Hội nhận định và chấn chỉnh
báo Văn nghệ của Hội… Vâng, như
tôi biết, đó là hai trong các nguyên cớ trực tiếp người ta đã thay Tổng Biên
tập Nguyên Ngọc”.
Vậy mà từ khi mất chức Nguyên Ngọc
chưa bao giờ nhận ra được sai lầm và yếu kém của mình cả.
Tiếc là theo quán tính dư luận mà
chính Nguyên Ngọc tạo nên, Nguyên Ngọc vẫn là người có công đầu trong “đổi mới”
văn chương, vẫn là người trí cao tâm sáng.
Nhưng nếu ai đủ thông thái sẽ thấy
Nguyên Ngọc đúng là không biết gì.
Khi là người bên lề, Nguyên Ngọc đã
cố công truyền bá lý luận văn học phương Tây. Nhưng do ông không hiểu bản chất
vấn đề nên vừa dịch sai vừa truyền bá những quan điểm trái ngược nhau.
Cuốn
Le Degré zéro de l'écriture suivi de
Nouveaux essais critiques của Barthes Nguyên Ngọc đã dịch là Độ không của lối viết. Barthes quan niệm
văn chương có 3 chiều. Ngôn ngữ và lối viết
tạo nên một mặt phẳng, còn chiều thứ ba l'écriture chính là sự cao sâu của tác phẩm, thể
hiện trách nhiệm cũng như sự dấn thân của nhà văn với xã hội. Như vậy Nguyên
Ngọc dịch l'écriture là lối
viết vừa lẫn lộn, vừa sai ý
của Barthes.
Không
chỉ dịch sai, Nguyên Ngọc lại truyền bá tiếp quan điểm sáng tác của Kundera ngược với Barthes khi dịch cuốn Nghệ thuật tiểu thuyết. Bởi triết lý
sáng tác của Kundera là Hiện tượng học, mà triết thuyết này lại
đề cao nhận thức chủ quan của cá nhân, đặt “thế
giới trong ngoặc”. Nghĩa là không có chuyện “dấn thân” cái gì hết.
Chính
vì không hiểu bản chất vấn đề, Nguyên Ngọc đã chạy theo cái vỏ của những khái
niệm lấp lánh, nên mới làm một việc mâu thuẫn như vậy.
Còn
chữ l’ambigui của Kundera Nguyên Ngọc cũng lại dịch sai là
tính nước đôi. L’ambigui theo từ điển là sự mơ hồ. Mà sự mơ hồ thì hoàn toàn không phải là nước đôi. Mơ hồ là chưa rõ ràng, nước
đôi là sự lưỡng lự giữa 2 cái. Vì vậy câu la sagesse de l’ambigui nên dịch là sự hiểu biết về những điều mơ hồ là
phù hợp nhất. Còn hiểu sai như Nguyên Ngọc, rồi tưởng tượng ra đủ thứ như
thế này: “Hiền minh của tính nước đôi
chính là hiền minh của sự đi tìm, của dở dang chưa đến, không bao giờ đến, hiền
minh của tính tương đối của chân lý…” thì thật nguy to, rồi sẽ dẫn
người đọc đi đâu?
Nước
ta vốn không phải là nôi của những phát minh khoa học và các hệ thống lý luận.
Việc học tập, nghiên cứu, rồi dịch các tác phẩm ở nước ngoài để truyền bá ở
trong nước là cần thiết. Nhưng cái chuyện cần phải “gạn đục khơi trong” để “tiếp
thu tinh hoa” của thế giới đã trở thành hiển nhiên, nghe quen thuộc đến
nhàm tai, nhưng thực tế vẫn luôn là một vấn nạn. Trong biết bao điều tốt đẹp
được du nhập vào đất nước luôn có lẫn cỏ dại và nấm độc, những cái mà không
ngăn chặn có thể sẽ dần làm mục ruỗng cả nền tảng xã hội. Người ta hay ham của
lạ nên hay chạy theo những khái niệm lấp lánh, kêu beng beng, nhưng thực chất
chẳng hiểu gì về chúng. Phải chăng chính Nguyên Ngọc cũng như vậy? Xem chừng
ông chỉ là người có năng khiếu, đã sáng tác được một số tác phẩm có giá trị
nhất định. Có điều năng khiếu và trình độ là hai chuyện khác nhau. Mà để lãnh
đạo công cuộc đổi mới đưa văn chương lên một tầm cao mới là cả một sự nghiệp
lớn lao và gian nan, cần phải có một người lãnh đạo có trình độ lý luận văn học
cao. Mà lý luận văn học hiện đại lại dựa trên nền tảng triết học và những ngành
khoa học liên quan, kể cả khoa học tự nhiên. Nếu hiểu thi pháp học ta thấy có
những trường phái văn chương nghệ thuật có phần dựa trên những nguyên lý của
khoa học tự nhiên, như chủ nghĩa siêu thực chẳng hạn. Điều này quá tầm với rất
nhiều so với tầm tri thức của Nguyên Ngọc. Còn nếu không phải là người có trình
độ thì cũng phải là người biết nghe người khác, như Lưu Bị biết nghe Khổng Minh
vậy. Tiếc là Nguyên Ngọc không như vậy. Phải chăng không thể đổi mới theo chính
đạo ông đã phải theo tà đạo, hậu quả là ông đã bị mất chức.
Và
còn tiếc hơn nữa, những ngày hôm nay, ông luôn có mặt trên tuyến đầu của những
người quấy rối, làm loạn.
Vậy
thế nào là văn chương đổi mới?
Theo tôi cũng như khoa học công
nghệ luôn dựa trên khoa học cơ bản để sáng chế ra hàng loạt các máy móc, đồ
dùng càng ngày càng đẹp, càng tiện dụng hơn. Một trong những điều chủ yếu của đổi
mới văn chương là phải làm tăng khả năng biểu đạt và biểu cảm của ngôn ngữ. Như
linh kiện điện tử càng ngày càng nhỏ hơn nhưng lại tích hợp được nhiều công
dụng hơn, tác phẩm dù ít chữ vẫn bao hàm được tầng tầng lớp lớp ý nghĩa. Có thể
lấy bài thơ của tôi để giải thích cái ý này cho rõ ràng:
NHỮNG CÁI XÁC
Những cánh hoa sặc sỡ
Nằm sõng soài trên thảm cỏ biếc
Con ba tuổi ngây thơ
Say sưa cóp nhặt
Bài thơ chỉ có mấy câu như vậy. Nếu
đọc lướt, nó gần như vô nghĩa. Nhưng nếu hiểu ngôn ngữ thơ hiện đại là ngôn ngữ
ký hiệu, sẽ thấy nó nói về các giá trị đã chết trong tất cả mọi lĩnh vực của
đời sống, từ khoa học, tôn giáo, chính trị xã hội cho đến văn chương nghệ
thuật. Nhưng những xác chết đó lại lấp lánh, mà loài người phần đông vẫn ngây
thơ như đứa trẻ lên ba nên vẫn nâng niu cóp nhặt chúng.
Với Nguyên Ngọc cũng có thể là một
ví dụ.
Cái tên Nguyên Ngọc ngoài là tác
giả những tác phẩm văn chương kháng chiến có giá trị, còn lại với tôi chỉ là
một cái xác chết. Nhưng những “đứa trẻ” từ Trung Trung Đỉnh, Bảo Ninh, Xuân
Nguyên, Từ Huy, v.v… vẫn coi Nguyên Ngọc hôm nay là đấng sư phụ anh minh! Còn
ông thì vẫn ngây ngô tư duy theo lối già làng trưởng bản nên vẫn mạnh miệng
phán bừa, tưởng mỗi phát ngôn của mình đều là vàng ngọc cả. Nhưng thực tế nó
không phải vàng ròng mà lại là một thứ “vàng” khác!
16-8-2013
ĐÔNG LA