ĐÔNG LA
NGUYỄN HUỆ CHI “MẦN” CÁI
CHI CHI?
Báo
Văn Nghệ TPHCM ra tiếp số 282 đúng vào ngày cuộc Hội thảo của Hội đồng
Lý luận Phê bình VHNT TƯ khai mạc. Số báo đăng tiếp bài này của tôi. Có những
vị dự hội thảo vì có diễn giả nói dài quá, lại toàn những điều cũ mòn, chung
chung, nên lại đi “hội thảo” bài viết của tôi. Nhà thơ Vũ Quần Phương và GSTS
Trần Đăng Xuyền chụm đầu đọc chung 1 tờ. Thấy tôi ngồi cách sau mấy bàn, ông Vũ
Quần Phương xuống nói: “Ngồi cạnh Đông La tí học cách viết phê bình mới. Sao
ông giỏi thế viết được nhiều lĩnh vực”. Vũ Quần Phương chính là cha nhà toán
học nổi tiếng thế giới Vũ Hà Văn nên tôi bảo: “Em mê hai thằng con anh lắm,
thằng Văn với thằng làm ở Google. Nhưng anh nên khuyên bảo thằng Văn đừng bắt
chước thằng Ngô Bảo Châu. Không phải cứ giải toán giỏi thì thành nhà tư tưởng
đâu”…
Đông La
|
PHẦN I- NGUYỄN HUỆ CHI VẠCH ÁO THẦY
CHO
THIÊN HẠ XEM LƯNG
Nguyễn Huệ Chi, sau khi
theo đoàn do ông Nguyễn Đình Lộc, Cựu Bộ trưởng Tư pháp dẫn đầu (4-2-2013),
trao tận tay cho đại diện Ủy ban Pháp luật của Quốc hội bản “Kiến nghị” về Dự thảo Sửa đổi Hiến
pháp và đề xuất thay thế bằng bản “hiến pháp mới” do chính nhóm của mình soạn, lập tức đã được đài RFA phỏng vấn. Trong bài DỰ THẢO HIẾN
PHÁP: THỬ THÁCH SỰ SỐNG CÒN CỦA CHẾ ĐỘ, ông ta huyênh hoang trả lời:
“Chúng tôi thấy cần phải đề xuất cho đến cùng. Đến cái
chỗ mà dân tộc Việt Nam hiện nay đang mong muốn, quan tâm nhất. Bản kiến nghị
này hình thành là như vậy”.
Một đặc tính chung của các vị trí thức hãnh tiến là phét
lác, “tôi cao trí thấp tâm tối”,
nhưng lại luôn nhân danh những điều cao cả, luôn thậm xưng, tiếm danh “nhân dân” để thực hiện tham vọng. Huệ
Chi nên nhân danh chính ông và nhóm của ông thôi, không được phép ba hoa nhân
danh “nhân dân” lung tung như vậy!
Vậy Nguyễn Huệ Chi là ai mà thâm thù
muốn thay đổi chế độ đến thế? Phải chăng đã bị cướp công, bị chèn ép, nên muốn
đấu tranh thay đổi thể chế để phát huy được tài năng của mình? Nhưng qua tìm
hiểu thì hóa ra lại ngược lại. Về đường học vấn, Nguyễn Huệ
Chi chỉ “tốt nghiệp khóa đầu tiên của Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội”, rồi “tốt nghiệp lớp Đại học Hán
học do Viện Văn học tổ chức năm 1968 và năm 1972”. Nghĩa là Huệ Chi mới có
bằng cử nhân văn và học thêm “một lớp”
Hán học, chưa có bằng thạc sĩ, tiến sĩ gì. Vậy mà Huệ Chi vẫn được phong phó
giáo sư năm 1984 và giáo sư năm 1991! Cái điều mà thời bây giờ người ta có nằm
mơ cũng không thấy! Điều này
thì không chỉ riêng Huệ Chi mà nó là đặc thù riêng của một thời. Có điều có
những người như Kỹ sư Trần Đại Nghĩa thì ông không chỉ được nhà nước ta phong
GS mà còn được nước ngoài phong đến Viện sĩ Viện Hàn lâm nữa. Nhưng ông hoàn
toàn xứng đáng bởi những công trạng lớn lao của ông đã được ghi vào trang sử
vàng chói lọi của lịch sử dân tộc. Còn Nguyễn Huệ Chi thì có công trạng gì?
Theo GS Mai Quốc Liên
trong bài Vu cáo
chính trị, mập mờ học thuật cho Nguyễn Huệ Chi chuyên đi “lấy bài nhiều người khác in, viết Lời giới
thiệu rồi đề mình chủ biên”; hoặc “lấy của người… Sửa có 1 chữ cũng ký
tên mình vào! Đúng là “lợn lành chữa thành lợn què… Mà không chỉ
có Nam
Trân. Đến cụ Nguyễn Sĩ Lâm, Viện trưởng Viện Đông Y… cũng bị NHC cướp chữ!”.
GS Nguyễn Đình Chú cũng đã cho Huệ Chi với tư cách chủ biên đã lờ đi “công
phu sưu tầm dịch thuật Thơ văn Lý – Trần của nhạc phụ tôi” là cụ Nguyễn Ðức
Vân.
Như vậy, với bằng cấp và công lao, tài đức như thế,
Huệ Chi vừa được phong GS, vừa được làm Trưởng phòng ở Viện Văn học VN, còn
được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Khoa học của Viện nữa, thì quả thực đã được nhà
nước quá ưu ái. Lẽ ra Nguyễn Huệ Chi phải cúc cung tận tụy để đền đáp công ơn trời
bể mới phải chứ. Nhưng không, thực tế vị GS này lại luôn hành động ngược lại.
Vậy cụ thể Nguyễn Huệ Chi đã “mần” cái chi chi?
PHẦN I- NGUYỄN HUỆ CHI VẠCH ÁO THẦY
CHO THIÊN HẠ XEM LƯNG
Những ngày hôm nay, Huệ Chi từ viết bài, bênh vực những cá
nhân phạm pháp, tham gia biểu tình gây rối đến việc lập ra trang Bauxite Việt Nam
lợi dụng mọi chuyện để chống đối, tất cả đều xuất phát từ những sai lầm trong
cốt lõi tư tưởng, thể hiện cụ thể từ những nhận thức về triết học, khoa học đến
chính trị xã hội.
Khởi
nguồn có lẽ từ việc Huệ Chi biên soạn cuốn TƯ TƯỞNG PHƯƠNG
ĐÔNG GỢI NHỮNG ĐIỂM NHÌN THAM CHIẾU của GS Cao Xuân Huy. Những tưởng dùng một
tên tuổi cỡ GS Cao Xuân Huy, Huệ Chi sẽ có được một chỗ dựa vững chắc, “bắn một mũi tên trúng hai đích”, vừa có
công với gia đình cụ Cao vừa khuếch trương được “con đường” của mình. Nhưng rồi vì trí thấp tâm tối, Huệ Chi không thể
ngờ rằng mình đã biến tên tuổi người thầy thành bia đỡ đạn, đã vạch áo thầy cho
thiên hạ xem lưng.
Khoảng
năm 97, 98 của thế kỷ trước, khi Nguyễn Hòa mới về làm ở tờ Phụ san VNQĐ còn
khá thân với tôi, đã gọi điện nói ý cuốn của cụ Cao Xuân Huy sai quá, tôi có
hiểu về khoa học tự nhiên nên có ý kiến, chính vậy tôi mới biết đến cuốn
TƯ TƯỞNG PHƯƠNG ĐÔNG GỢI NHỮNG ĐIỂM NHÌN THAM CHIẾU của GS
Cao Xuân Huy, do Nguyễn Huệ Chi soạn, chú và giới thiệu (Nhà
xuất bản Văn Học, Hà Nội, 1995).
Tôi đã tìm đọc cuốn sách và nhận thấy, nếu trong tác phẩm này chỉ có phần
biên khảo và những giáo trình giảng dạy của cụ Cao thì không có gì phải bàn.
Với mặt bằng tri thức nước ta hồi ấy (cụ Cao ngang tuổi với ông nội tôi), với
công lao là lớp trí thức khai phá mở đường cho nền giáo dục VN sau cách mạng,
cụ hoàn toàn xứng đáng được vinh danh và được xã hội kính trọng. Tiếc là cuốn
sách của cụ lại còn có cả phần cụ đã viết từ rất lâu, mà cũng không định công
bố, về triết học và khoa học, thì cần phải xem xét theo tinh thần khoa học. Về
điều này, GS Trần Thanh Đạm cũng đã có bài cho rằng Huệ Chi đã sai khi cho xuất
bản những trang đó của cụ Cao. Tiếp theo cũng cần phải coi lại sự ca tụng cụ một
cách quá đáng, đầy cảm tính, của những vị học trò giờ cũng đã là những GS tên
tuổi rồi. Như việc cho cụ là “một hiện tượng đột khởi trong lịch sử tư tưởng
triết học Việt Nam”, “Việt
Nam có triết nhân Cao Xuân Huy cũng như Trung Quốc có Lão Tử, Trang Tử”.
Riêng Nguyễn Huệ Chi, người học trò đã nhọc công biên soạn cuốn sách thì đã ví Cao Xuân Huy như “một vầng sáng đã
đi qua lâu rồi nhưng tới nay ánh sáng mới kịp tỏa chiếu”, và cao hơn
hết, Nguyễn Huệ Chi đã xếp thầy mình vào bậc thánh nhân khi gọi Cao Xuân Huy là
một “người hiền”!
Tất cả sự ca tụng trên
đây đã không dựa trên một nền tảng tri thức khoa học, không dựa trên thực tiễn
cuộc sống, mà chỉ nương theo cảm tính, cảm tình, đã cảm nhận những vấn đề triết
học, khoa học như cảm thụ một tác phẩm văn chương, nên đã xúc động thái quá dẫn
đến những liên tưởng quá phong phú. Vì thế sai lầm là tất yếu!
Cụ thể, Nguyễn Huệ Chi, ngoài việc đánh giá cụ là “một
bậc minh triết”, là một nhà “Đạo học”, còn cho rằng cụ đã có một “công
trình triết học”, tránh cách “tập hợp các trào lưu tư tưởng theo hai
dòng phổ biến tâm và vật, mà tập hợp chúng trong hai hệ thống mới, dựa trên hai
phương pháp tư duy khác biệt nhau về loại: Phương thức “chủ biệt” và
phương thức “chủ toàn”. Trong đó, phương thức “chủ toàn” lấy
“tư duy tuệ tính” làm nền tảng, còn phương thức “chủ biệt” lấy “tư
duy lý tính” làm nền tảng rồi kết luận rằng, phương thức nhận thức thế giới
của phương Đông là đúng đắn và phương Tây là sai lầm.
Như vậy Triết học Mác là triết học duy vật biện chứng tất
cũng bị Huệ Chi cho là sai lầm và bị tư tưởng của Cao Xuân Huy vượt qua! Chưa
hết, cụ Cao còn cho nhà bác học vĩ đại nhất trong lịch sử khoa học là Einstein
cũng sai nữa.
Bây giờ chúng ta hãy xem cụ thể tư tưởng của GS Cao Xuân Huy
“cao” ra sao và Einstein bị cho là sai như thế nào?
A-VỀ TRIẾT HỌC:
Về cặp phạm trù Tâm, Vật, cặp phạm trù cơ bản và quan trọng nhất của
triết học Mác nói riêng và triết học nói chung, GS Cao Xuân Huy cho rằng:
“Loài người đã chia thế giới
thành hai hiện thực bao quát nhất, là tâm và vật... do đó sinh ra nhất
nguyên luận duy tâm hoặc duy vật; nhưng cả hai đều vi phạm logic, vì đã biết
tâm và vật chỉ là những bộ phận cấu thành của thế giới... thì tại sao lại nói
tâm là toàn thể, là bản thể của vũ trụ hay là nói vật là toàn thể, là bản thể
của vũ trụ? Nói như thế chẳng phải lấy bộ phận làm toàn thể là gì? Lấy A làm
phi A là gì?”
Nhất nguyên luận duy vật coi “vật chất là bản
nguyên của thế giới”, là “cái sinh ra thế giới”, là cái “có trước”
và “sinh ra ý thức”; còn Nhất nguyên luận duy tâm quan niệm ngược
lại. Như vậy, nhất nguyên luận duy vật hoặc duy tâm cho vật hoặc tâm là “cái quyết định”, “sinh ra cái kia”, chứ đâu có cho “một cái là toàn thể”
để rồi “vi phạm logic” như ý của cụ Cao!
Triết học Mác cũng là triết học duy
vật, nhưng là duy vật biện chứng, vì thế là triết học tiến bộ nhất. Bởi nó đã
lấy chính nhận thức của khoa học làm “chứng”
để biện giải. Riêng nguyên lý vật chất quyết định và sinh ra ý thức thì “vật chất” ở đây chính là bộ não người, ý
thức là ý thức người. Điều này đã được khoa học hiện đại chứng minh. Ví như
người ta chỉ cần dùng thuốc gây mê trong phẫu thuật, hoặc uống vài viên thuốc
ngủ là não ngưng “tiết ra” ý thức ngay. Ngược lại chủ nghĩa duy tâm cho ý thức
sinh ra vật chất thì cho đến nay vẫn chỉ có trong một số tôn giáo và trong
truyện thần thoại mà thôi.
Giáo sư Cao Xuân Huy khi bàn về “Bản
thể”, cho “Bản thể” là cái “thực
thể tuyệt đối”, “hằng thường, vĩnh cửu, bất di bất dịch”. Theo cụ,
nhiệm vụ cơ bản của triết học là phải chỉ ra “Bản thể là gì”, “Thế
mà, đã từ lâu, các nhà triết học trốn tránh cái nhiệm vụ đó, chỉ cãi nhau lung
tung về cái tâm và cái vật”. Cụ cho, do tư duy “chủ biệt” người ta
đã “hư cấu” ra “không gian”, “thời gian”, để rồi cho đó là
“những cái trường sở quyết định sự tồn tại của vạn vật, thậm chí cả Bản thể
nữa”. Và theo cụ, nếu “thủ tiêu hai cái trường sở hư cấu ấy đi thì chúng
ta sẽ nhận thấy một cách cụ thể rằng cái toàn thể, cái bản thể là cái trường sở trong đó mọi vật tồn tại
cùng nhau và kế tiếp nhau”.
Như vậy, theo cụ Cao, phải thủ tiêu toàn bộ
khoa học, triết học duy vật mới tiếp cận được chân lý. Nhưng theo cách lập luận
trên, người ta cũng chỉ tiếp cận được một cái chân lý mù mờ, và không ai có thể
cụ thể hóa được là cái gì. Nhưng có điều lạ, không hiểu sao những cái nhìn
thấy, sờ thấy, đo đạc được về không gian, thời gian, có thể công thức hóa để
tính toán, ứng dụng hàng ngày trong đời sống, thì cụ bảo là hư cấu, còn những
cái chung chung không biết đâu mà lần, cụ lại cho là cái đích thực? Có điều,
nếu thủ tiêu không gian, thời gian đi thì bây giờ linh hồn cụ cùng các con
cháu, học trò, fan của cụ biết sống ở đâu? Thực tế, các nhà khoa học không chỉ
dừng lại ở việc coi không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất mà
còn đi xa hơn nhiều trong việc khám phá tận cùng bản chất đích thực của vật
chất, thấy tất cả vạn vật đều được cấu
tạo từ những hạt vi mô giống nhau, liên kết với nhau thông qua những lực hấp
dẫn, điện từ, hạt nhân yếu và mạnh. Và theo công thức E=mc2 thì chính năng lượng là
“cấu tử” tột cùng “cấu tạo” nên vật chất, nó có thể là cái
“Không” (theo Phật giáo); cái “Đạo” (theo Đạo giáo) và là cái “Bản thể” mà cụ Cao nói ở trên chăng?
Về cặp phạm trù “nhân” và “quả”, cũng là một cặp phạm
trù cơ bản của Triết học Mác, GS Cao Xuân Huy cho: “đầy rẫy những mâu thuẫn.
Chẳng hạn, nếu nói nhân và quả là hai vật khác nhau, tức là trong nhân không có
quả thì làm sao cái không sinh ra cái có được... tức là nói A là phi A rồi”.
Mối liên hệ nhân quả cũng là một quy
luật khách quan trong tự nhiên và xã hội, không ai hiểu như trên cả. Ví như cái
việc đun nước dẫn đến nước sôi là chuyện hiển nhiên, nên người ta mới
rút ra cái mối liên hệ “nhân quả”. Người ta gọi cái “sự đun” là
nguyên nhân, cái “sự nước sôi” là kết quả, và nói, do đun nước
nên đã dẫn đến nước sôi, chứ không ai hiểu theo cụ Cao là: cho “sự
đun” là A, còn “sự nước sôi” là phi A, rồi quá trình trên dẫn đến sự
mâu thuẫn: “sự đun nước” là “sự nước sôi”!
Về vấn đề mà GS Cao Xuân Huy gọi là Tri giác và thế giới, phải nói cụ
có những suy nghĩ thật ngộ nghĩnh. Theo cụ, chúng ta chỉ có thể “trực giác
được sự tồn tại của một vật nào đó là vì cái bản thể, cái tồn tại phổ biến ở
trong vật đó cũng chính là cái bản thể, cái tồn tại phổ biến ở trong ta”.
Cụ minh họa: một tờ giấy màu xám phơi ngoài nắng sẽ phóng xạ vào mắt ta ánh
sáng của nắng. Lẽ ra ta phải “nhìn thấy” tờ giấy mang màu của ánh nắng, nhưng
thực tế ta lại thấy tờ giấy vẫn là màu xám. Cụ cho rằng, do trong ta đã có sẵn
một hình ảnh tâm lý tờ giấy có màu xám nên ta đã nhìn thấy tờ giấy mang màu xám, và đó là một sự tri
giác sai!
Đây là sự giải thích không đúng với
thực tế. Tờ giấy màu xám phơi nắng sẽ phản xạ vào mắt ta cả màu xám của tờ giấy
và màu của ánh nắng, và mắt ta nhận được cả hai, nhưng vì ánh nắng là trong
suốt, nên mắt ta vẫn nhận được tờ giấy là màu xám, tất nhiên có “sáng hơn” do
sự cộng hưởng với màu của ánh nắng. Còn nếu ta nhìn tờ giấy trong môi trường
ánh sáng màu đục, có thể át được màu xám tờ giấy, lúc đó mắt ta sẽ nhận
thấy tờ giấy mang màu của ánh sáng chiếu ấy, chứ ta không thể nhận được “màu xám tâm lý” như cụ Cao đã nói.
Về điều này, Nguyễn Huệ Chi cũng rất
thuộc lời thầy mình: “Một khi bản thể vũ trụ là cái chung nhất, tồn tại sâu
kín trong… cả chủ thể lẫn khách thể, thì… việc chủ thể nhận thức được khách thể
không còn có gì là lạ”.
Trong thực tế, muốn nhìn thấy bất cứ
vật gì phải có khoảng cách nhất định, tùy thuộc thủy tinh thể điều tiết tiêu cự
của mắt sao cho ảnh của vật hiện đúng võng mạc, tế bào thần kinh thị giác mới
nhận được và chuyển thành ý thức, tức là “tâm”. Còn cái lập luận cho ta
nhìn thấy vật là do ta có cùng bản thể với vật, thì tại sao trong đêm tối cái
bản thể còn nguyên đó, sao ta vẫn không thấy gì? Và chắc những người bị khiếm
thị sẽ là chứng nhân sống động nhất phản bác cái “ngụy vấn đề” mà các vị đã
tưởng tượng ra đó!
B - VỀ KHOA HỌC:
GS Cao Xuân Huy cho rằng, vì có cách nhìn tách biệt “không
gian”, “thời gian”, nên “đã có những nhà khoa học như Einstein và
những nhà triết học mưu đồ thống nhất
hai phạm trù này, nhưng họ không thành
công, vì hai phạm trù này là kết quả của một sự sai lầm cơ bản trong tư tưởng logic”.
Viết như vậy chứng tỏ GS Cao Xuân Huy chưa hiểu Thuyết tương
đối của Einstein và sai hoàn toàn về khoa học. Trước đây với cơ học Newton, không gian
và thời gian được coi là tách rời, tuyệt đối và bất biến. Nhưng các nhà khoa
học lại phát hiện vận tốc ánh sáng của một nguồn sáng đứng yên cũng bằng với
vận tốc ánh sáng của một nguồn sáng chuyển động. Mọi người đều cho là do phép
đo sai. Riêng Einstein không nghĩ vậy. Thuyết Tương đối hẹp đã ra đời từ
đó. Ông cho rằng chính vận tốc ánh sáng là một hằng số và như thế không gian và
thời gian phải là tương đối, cả hai cùng bị co giãn theo chuyển động. Einstein đã tìm ra được một quy luật vốn
có của tự nhiên, chứ không hề có một “mưu đồ” áp đặt nào, và phát minh
của Einstein cũng rất thành công bởi nó đã được kiểm chứng bằng thực nghiệm,
chứ không phải “không thành công”; và bản chất phát minh này, cũng không
có nghĩa là Einstein đã “vo viên” cả không gian và thời gian lại
làm một như cụ Cao Xuân Huy nghĩ. Khi sang Mỹ, chính Einstein cũng đã
được hỏi: “Không gian và thời gian có phải là một không, như giáo sư đã từng
chứng minh vật chất và năng lượng chỉ là một trong công thức E=mc2”.
Einstein đã trả lời rằng: “Không phải, thời gian chỉ là một chiều của
không gian. Riêng một chiều như bề dài, hai chiều như diện tích, ba chiều như
thể tích chưa đủ để định nghĩa một không gian vật lý”.
C - VỀ TƯ TƯỞNG “CHỦ TOÀN”:
Đây là tư tưởng chủ yếu của GS Cao Xuân Huy. Cụ đã lấy
Chu dịch làm chứng, chứng minh tính đúng đắn của tư duy tổng hợp phương
Đông, phương thức “chủ toàn” của tư tưởng: “Thái cực sinh lưỡng nghi,
lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái”; rồi: “Thái cực”
là cái Đại toàn thể, cái Đại hữu, cái “Có” làm điều kiện, làm cơ sở chung
cho…tất cả các hiện tượng ở trong vũ trụ”. Trong đó, Lưỡng nghi là Âm
Dương, là hai phạm trù cơ bản của Chu
dịch. Âm là bóng mặt trời, Dương là ánh sáng mặt trời; Bóng mặt trời
thì: râm, tối, mát, ẩm, lạnh v.v... Ánh sáng mặt trời thì: sáng, nóng, ấm, ráo...chi
phối toàn bộ những hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Điều này thực chất chỉ là sự liệt kê những hiện tượng
đối lập trong cuộc sống, còn chúng tác động với nhau thế nào, biến đổi ra sao,
thành những cái gì,... thì không ai có thể chứng minh và cụ thể hóa được. Lâu
nay, dường như đã có không ít người có quan niệm lạ lùng là: khi nhận thức thế
giới, phương Tây thường trọng tư duy “phân tích” còn phương Đông trọng
tư duy “tổng hợp”; cũng như cụ Cao nói, phương Tây quen thói “chia
thế giới thành sự vật cá biệt”, còn phương Đông “nhìn thế giới như một
thể thống nhất”. Điều này rõ ràng là không đúng với thực tế. Thế giới khách
quan chỉ có một, nên sự nhận thức thế giới chỉ có một, hoặc đúng sai, hoặc
cao thấp khác nhau mà thôi. Nếu cho phương Tây (thực chất là cả loài
người) nhìn thế giới thành các vật cá biệt, thì không phải do thói quen, mà do
bản thân thế giới gồm các vật cá biệt như thế. Ví như mặt trăng, mặt trời là
hai vật thể khác nhau, thì dù Tây hay Đông, cũng phải thấy là hai vật thể khác
nhau, còn nó khác như thế nào, giống nhau ra sao, khởi thủy được cấu tạo từ cái
gì, hình thành ra sao, thì phải khám phá; và trong quá trình khám phá ấy, người
ta buộc phải tiến hành vô vàn các phương
pháp phân tích. Chỉ có như thế mới tiếp cận được chân lý. Cái quan điểm cho
phương Tây, vì nhận thức theo kiểu phân tích như thế, nên đã dẫn đến những mâu
thuẫn, “bí đường”; còn phương Đông nhìn thế giới ở một thể thống nhất, nên tuyệt đối đúng; thì thật vô lý. Vì như vậy có
khác gì bảo, một người làm ra được bao nhiêu việc, gặp phải chuyện này chuyện
nọ, là sai lầm; còn một người không làm gì cả, không gặp khó khăn gì, là đúng
đắn!
Thực chất, quá trình nhận thức thế
giới cả Tây hoặc Đông đều đi từ trực quan sơ khai đến phân tích chi tiết. Cũng
như từ đại khái đến cụ thể vậy. Trước đây, không chỉ Phương Đông nhìn thế giới
một cách “tổng hợp” mà phương Tây cũng vậy. Nếu phương Đông khởi thủy cho vạn
vật trong thế giới do “ngũ hành”
tương sinh, tương khắc tạo nên, hoặc theo “Dịch học”, do hai mặt đối lập
Âm Dương giao cảm và biến hóa mà thành;
thì Phương Tây khởi thủy (theo Platon) cũng chia thế giới thành hai phần
:“Tồn tại” (dạng phi vật chất, chỉ nhận thức được bằng trí tuệ) và “Không
tồn tại” (thế giới vật chất), đến Đê-mô-crit thì cho thế giới được tạo thành bởi “nguyên tử”; còn Arixtốt
thì cho thế giới do: Đất, nước, lửa, không khí tạo nên. Có điều, tư
tưởng phương Đông cổ đại không lấy giới tự nhiên làm đối tượng mà chỉ đưa ra
những khái niệm trừu tượng, chung chung, nên không phát triển. Trái lại, tư duy phân tích của phương Tây cổ đại nói riêng và của
loài người ngày nay nói chung, đã lấy chính giới tự nhiên làm đối tượng nghiên
cứu. Đã khám phá ra cấu tạo vật chất, từ “nguyên tử”, rồi điện tử,
hạt nhân, proton, nơtron, hạt quack, hạt ảo, phản hạt…; rồi phát hiện ra
bản chất “nhị nguyên sóng hạt” của các hạt vi mô (cũng đã có những nhà
bác học gốc phương Đông: Pakistan, Ấn Độ, Trung Quốc đã được giải Noben trong
quá trình này), loài người đã xây nên toàn bộ nền văn minh cả vật chất, trí tuệ
lẫn tinh thần hôm nay. Như vậy không thể nói đã có hai phương thức nhận thức
thế giới, làm nên hai nền văn minh hiện đại, và một bên là đúng đắn còn một bên
đang “bí” được!
***
Trong một bài viết, Nguyễn Huệ Chi đã kể lại cái duyên cớ
đưa ông ta tới việc biên soạn và công bố công trình của thầy mình, năm 1983, “có
dịp tiếp xúc với cảo bản có lẽ là độc nhất… Tập cảo bản mỏng manh nát nhàu…
chính là một vấn đề triết học trọng đại: bản thể luận và nhận thức luận về vũ
trụ… Nếu từ trước tới nay chúng ta phân triết học thành duy vật và duy tâm… thì
dưới con mắt Cao Xuân Huy, cách phân chia như vậy… chưa đạt tới tầm cao trong
nhận thức bản chất vũ trụ, và xét cho cùng không tránh khỏi vi phạm lô-gic”.
Phải
chăng, qua nhận thức như vậy, Huệ Chi đã bác bỏ Chủ nghĩa Mác vốn lấy cơ sở lý
luận từ Duy vật Biện chứng? Và đó chính là nền tảng tư tưởng để ông ta “dấn thân” trong những ngày hôm nay? Chưa
hết, Huệ Chi còn tìm thấy trong khoa học cơ sở để mình hành động, khi tuyên bố:
“học thuyết tương đối của Einstein rọi sáng cho cả một thời đại mới: thời
đại “giải lý tính”và đã rút
ra “Ý
nghĩa của cuộc đấu tranh phát huy tương đối luận” để phủ
nhận thành quả của cách mạng:
“Chúng ta đã từng rút được không ít bài học thấm thía
về sự cả tin vào ý chí của một thời vốn được mệnh danh là “thời đại cách mạng
lay trời chuyển đất” … khi ta mơ ước chân thành mà cũng có phần nông nổi về lý
tưởng tối hậu của cuộc đấu tranh giai cấp”.
Vậy nhận thức về khoa học của Huệ
Chi như thế nào xin xem:
Phần II - NGUYỄN HUỆ CHI, MỘT GS HÁN NÔM NGHIÊN CỨU VẬT
LÝ?
18-11-2013
ĐÔNG LA