Báo
Văn Nghệ TPHCM số 284 lại đăng tiếp bài NGUYÊN NGỌC VÀ CON ĐƯỜNG LỘN NGƯỢC VĂN
CHƯƠNG của tôi. Vì báo viết giấy có hạn và báo cũng ngại đôi chỗ tôi viết thẳng
quá hoặc riêng tư quá, nên chỉ đăng được khoảng 95% ý của tôi mà thôi. Nhưng tôi
vẫn thích bạn đọc đọc nguyên bản, dù hay hay dở, đó mới chính là nguyên chất chữ
nghĩa của tôi. Nếu báo đăng liên tục tiếp, điều này là khó khăn với đa số người
viết, nhưng với tôi sẽ viết liên tục tiếp được, chỉ sợ báo ngại mà thôi:
ĐÔNG LA
NGUYÊN NGỌC VÀ CON ĐƯỜNG
LỘN NGƯỢC VĂN CHƯƠNG
Nguyên Ngọc thành
danh với những tác phẩm “người tốt việc tốt” như Đất nước đứng lên và những tác phẩm “hô khẩu hiệu” như Đường chúng ta đi. Đó là những tác phẩm
phù hợp tuyệt vời trong giai đoạn chúng ta cần cho công tác tuyên truyền, tạo
nên một sức mạnh cho dân tộc giành chiến thắng. Thật kỳ lạ, có lẽ vì các văn
nghệ sĩ sáng tác bằng tình yêu quê hương, đất nước đích thực, vì khát vọng hòa
bình, độc lập đích thực, nên nhiều tác phẩm “phục vụ chính trị” thời ấy có giá trị
nghệ thuật rất cao, sống mãi với thời gian. Còn hôm nay, khi người ta tha hồ
sáng tác vì giá trị nghệ thuật thì kiếm được một tác phẩm có giá trị lại quá khó
khăn. Trong cuộc Hội thảo Văn học, Nghệ thuật vừa rồi tôi có gặp Nhạc sĩ Đỗ
Hồng Quân, tôi bảo tôi là dân Hải Dương nên rất tự hào về Nhạc sĩ đồng hương Đỗ
Nhuận, cha anh, bài Việt Nam quê hương
tôi của cụ được chọn làm nhạc nền Sea
Games 22 Hà Nội thật tuyệt vời, thế giới cũng phải thán phục.
Với xu thế chung đó, Nguyên Ngọc cũng sáng tác được những
tác phẩm có ích, có giá trị. Nhưng với con mắt phê bình hiện đại bảo những tác
phẩm đó là cao siêu, tầng tầng lớp lớp ý nghĩa thì không phải. Có điều làm
nhiều người thật bất ngờ, khi được giao trọng trách lãnh đạo Hội Nhà Văn VN,
Nguyên Ngọc y như bị “thay máu”, đã khuyến khích, nâng đỡ, ca ngợi những tác
phẩm viết ngược với chính mình về mọi mặt, kể cả cái nhìn về lịch sử và quan
điểm chính trị.
Vì thế, với tham vọng đổi mới, Nguyên Ngọc đã biến nó thành
con đường lộn ngược văn chương. Trên con đường ấy, có ba nhân vật như có “duyên
nợ” với số phận của Nguyên Ngọc: Trần Độ, Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh, và tất
nhiên, với Nguyễn Huy Thiệp thì sâu đậm hơn.
***
Viết về Nguyên Ngọc không thể không viết về Trần Độ, người từng đánh giá Nguyên Ngọc rất cao: “trọn
vẹn cả đức cả tài như anh không nhiều. Bởi vậy khi anh chính thức được bổ nhiệm
cương vị Bí thư Đảng Đoàn Hội nhà Văn tôi rất mừng - Đây là một trong những
trường hợp "đặt người đúng chỗ" hiếm hoi trong cơ chế của chúng ta”.
Nhưng có
ai ngờ chính
người “trọn vẹn cả đức cả tài” ấy, năm 1991, lại làm Trần Độ, Trung
tướng, Trưởng Ban Ban Văn hóa, Văn nghệ Trung ương, bị kỷ luật.
Tôi thấy trong đời một con người có điều quan
trọng là cần phải biết chấp nhận thất bại. Đó là điều khó, bởi cần phải có bản lĩnh,
có trình độ và cái tâm phá chấp. Chính Đức Phật đã dạy người con tập thiền là:
hãy coi mình như mặt đất, bởi mặt đất là nơi thấp nhất, người ta luôn dẫm đạp
lên, chất chứa rác rưởi, thậm chí phóng uế lên đó mà vẫn “không sao cả”; được
như thế thì không còn gì có thể làm cho ta đau khổ được nữa. Tiếc là Trần Độ,
người vốn là một công thần của chế độ, khi gặp chuyện không hay ông đã không
vượt qua được cái tôi của mình. Thật tai hại khi những người chống chế độ luôn
lợi dụng việc ông “phản tỉnh”, coi như một chỗ dựa về tính chính nghĩa cho con
đường của họ. Đến Dương Thu Hương, người đàn bà nanh nọc, coi trời bằng vung,
cũng “nể” Trần Độ: “Anh Trần Độ đã đứng hẳn về phe chúng tôi”; “chế
độ Hà Nội căm ghét ông, đương nhiên, cũng là lý do để chúng tôi cảm phục ông”.
Y như ông Phó Thủ tướng Trần Phương cho “Chủ
nghĩa Xã hội là lừa bịp”, Trần Độ cũng cho Định hướng XHCN là “định hướng vào chỗ chết” (theo Nguyễn Thanh
Giang)! So với tấm lòng son sắt với cách mạng, vì dân, vì nước của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, người mà qua cái chết mới đây, chúng ta thấy cụ đã được coi là một
bậc thánh nhân, người anh hùng dân tộc trong lòng dân; thì nhân cách của vị cựu
Phó Chủ tịch Quốc hội (Trần Độ) và vị cựu Phó Thủ tướng (Trần Phương) thật không
có một chút gì để so sánh cả!
***
Quay lại với bản Đề dẫn của Nguyên Ngọc “nổi ranh” ngày nào, nó đã có khuynh hướng “lật đổ thần tượng”. Khi Nguyên Ngọc cho
đăng bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một
giai đoạn văn nghệ minh họa” của Nguyễn Minh Châu thì cái khuynh hướng ấy đã
được huỵch toẹt hết cả ra. Việc cân nhắc để Nguyên Ngọc lãnh đạo văn chương trở
thành “một bài thơ dở” của Tố Hữu nên
Nguyên Ngọc đã bị “rớt” ngay. Thế là con đường “vào Trung Ương” của Nguyên Ngọc bị chấm hết, “tầm nhìn xa” của Nguyễn Khải “nịnh
dần đi là vừa” Nguyên Ngọc trở thành tầm nhìn ngắn!
Nếu nói Trần Độ là lãnh đạo Văn hóa Văn nghệ
thì Nguyên Ngọc chính là vị tướng xuất quân, phất cờ "đổi mới". Nhưng
dường như đổi mới văn chương theo chính đạo là quá khó như trong bất kỳ lĩnh
vực sáng tạo nào. Trong ngành Sinh học, nếu việc lai tạo tốt sẽ tạo ra được
loại giống mới tốt hơn, còn ngược lại, sẽ cho ra quái thai. Không biết có phải vì
theo chính đạo là quá khó nên Nguyên Ngọc đành phải theo tà đạo, đã đổi mới văn
chương bằng một loạt quan điểm lộn ngược: phản đạo lý, phản thẩm mỹ, phản lịch
sử, phản nhân văn.
***
Cụ thể, khi bị “rớt” xuống làm TBT tờ Văn
nghệ, diễn đàn trung tâm của Văn chương VN và là Trưởng ban Sáng tác Hội Nhà
văn VN, Nguyên Ngọc đã làm 2 việc ấn tượng nhất, đó là khai sinh ra tên tuổi
Nguyễn Huy Thiệp và quyết liệt ủng hộ việc trao giải thưởng của Hội Nhà Văn cho
cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh. Về vụ trao giải thưởng cho cuốn Nỗi
buồn chiến tranh, Ban Chấp hành Hội Nhà Văn đã phải tự kiểm, nhưng buồn
cười là khi ta bình thường hóa quan hệ với Mỹ, có người trong Ban Chấp hành lại
xin lỗi Bảo Ninh, cứ như Bảo Ninh là quân Mỹ vậy!
Khi Nguyên Ngọc làm TBT báo Văn nghệ, báo “nợ nần tùm lum”, đứng trước nguy cơ “bị đóng cửa”, Nguyên Ngọc đã mau chóng
làm tờ báo trở thành “tờ được độc giả chờ
đón nhất trong nước”, bởi đã cho chào đời một loạt tác phẩm “kinh thiên động địa”: Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc,
Lời khai của một bị can của Trần Huy Quang, v.v…
Trong bài Van-hoc-Viet-Nam-dang-o-dau?
Nguyên Ngọc khi sang Pháp, theo lời mời của giáo sư François Jullien, trong một
cuộc hội thảo của UNESCO về triển vọng văn học Việt Nam, Nguyên Ngọc đã kể về thời điểm
này:
“… năm
1987 … tôi đang làm tổng biên tập tuần báo Văn Nghệ của Hội nhà văn Việt Nam.
Chúng tôi in truyện ngắn đầu tiên của Nguyễn Huy Thiệp: Tướng về hưu. Cứ như là một cú giật nẩy
mình trong đời sống văn học, và cả trong xã hội. Đọc xong truyện ngắn ấy, Nguyễn
Khải bảo tôi: "Sau thằng Thiệp, chẳng ai có thể viết gì được nữa.
Mình bỏ bút thôi. Chỉ bằng mỗi truyện ngắn này, nó đã lật đổ tất cả, xoá sạch
tất cả những gì mình đã viết trước nay".
Tôi nghĩ Nguyễn Khải
đã không diễn đạt thật chính xác điều tất cả chúng tôi cảm thấy lúc bấy giờ.
Điều chúng tôi nhận ra lúc bấy giờ khi Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện, là từ nay không còn
có thể viết như trước nữa. Phải thay
đổi… phải viết khác đi.
… trào lưu có tên là Đổi Mới … được biểu hiện
trước hết bằng cái mà ở Nga người ta gọi là glasnost (transparence).
Tức là nói lên sự thật trần trụi, đưa ra khỏi bóng tối, phơi bày ra dưới mắt
mọi người tất cả các mặt tiêu cực của xã hội, của đời sống đất nước sau chiến
tranh, các mặt trước nay vẫn bị dồn nén lại, che giấu cẩn thận. Có thể nói đó
là một trào lưu văn học phơi bày cái tiêu cực, mô tả và tố cáo nó”.
Riêng tôi thì thấy 3 tác phẩm tiêu biểu mở màn
cho “Thời đại Nguyên Ngọc” đúng là đã
“phơi bày ra” những “sự thật trần trụi” về “tất cả các mặt tiêu cực của xã hội”
nhưng mới ở cấp độ, theo chính ý Nguyên Ngọc: “Ăn dâu nhả ra dâu” chứ chưa phải “đổi mới”, cũng theo ý Nguyên Ngọc, là “Ăn dâu phải nhả ra tơ”.
“Tướng
về hưu” là câu chuyện kể về một ông tướng về hưu. Nguyễn Huy Thiệp đã “phơi bầy ra” trước mắt ông tướng cái
cuộc sống thực dụng, xô bồ của đời thường, và kết luận: cái thời thực dụng nhí
nhố, vô cảm, mất nhân tính của “ông con”
đã chiến thắng cái thời sống vì lý tưởng, đạo lý của “ông bố”. Trong không gian văn chương của Nguyễn Huy Thiệp, những
người lính khi hoàn thành nhiệm vụ đã không có đất sống khi trở về chính ngôi
nhà của mình! Điều này chỉ là cá biệt, không thể là đặc trưng cho xã hội VN sau
cuộc chiến được.
Tương tự, “Cái
đêm hôm ấy đêm gì” cũng không có “tơ”
tư tưởng nghệ thuật gì, nhà văn cũng chỉ đơn giản “phơi bầy sự thật trần trụi” để tố cáo bọn cường hào mới “thu sản” (lượng nông sản được khoán) người
nông dân y như trong văn chương hiện thực phê phán. Nghĩa là đã lôi văn chương
quay ngược lại thời của Nguyễn Công Hoan và Ngô Tất Tố.
Còn “Lời
khai của một bị can” của Trần Huy Quang có lẽ khá hơn. Trần Huy Quang không
chỉ “phơi bầy” chuyện nhân viên công
quyền xồng xộc bắt người đi tù, mà tác giả đã cho độc giả thấy rõ việc làm của
ông Nguyễn Văn Chẩn đúng là chân chính, đầy tâm huyết và đầy sáng tạo. Từ đó ta
thấy rằng lao động là động lực, là cái cần thiết nhất, cao quý nhất của đời
sống. Nếu lao động mà bị ngăn cấm thì có khác gì muốn xã hội tự sát. Vậy mà để
nhận ra được cái chân lý hiển nhiên đó lại không dễ. Ông Nguyễn Văn Chẩn có thể
ví như một chiến sĩ bị thương trên mặt trận nhận diện con đường phát triển kinh
tế. Để có được mỗi bước tiến của nhận thức, xã hội loài người đều đã phải trả giá.
Sự đổi mới của VN cũng vậy. Và trong chặng đường sắp tới, để đạt được những nấc
cao hơn, chính những ngày hôm nay xã hội ta cũng sẽ còn phải trả giá.
Như vậy, về mặt cảm tính, đọc Lời khai của một bị can rõ ràng không
thích bằng Tướng về hưu, nhưng xem
xét một cách toàn diện, Lời khai của một bị can chuẩn hơn Tướng về hưu. Và đến tận hôm nay tôi mới
hiểu tại sao khi cái truyện Bài toán
của tôi được đăng trên Văn nghệ, anh Trần Huy Quang là biên tập đã gọi điện mời
tôi cộng tác vì trên VN còn thiếu loại truyện như thế.
Cũng trong bài Van-hoc-Viet-Nam-dang-o-dau?,
Nguyên Ngọc viết rõ hơn những suy nghĩ của mình về Nguyễn Huy Thiệp:
“Nhưng
tôi nghĩ điều quan trọng nhất ở Nguyễn Huy Thiệp… anh cố tìm ra "nguyên
nhân sơ khởi” của tình trạng xã hội và con người Việt Nam … cố lần ngược lên đến ngọn
nguồn của nó.
Và như vậy, anh đã
khởi xướng ra trong văn học Việt Nam hiện đại cái mà tôi muốn gọi là
xu hướng tự
vấn của xã hội… sự tự soi mình của dân tộc, và của con người…”
Tôi
đã phải bỏ thời gian đọc lại một cách khách quan một số tác phẩm tiêu biểu của
Nguyễn Huy Thiệp để tìm kiếm những điều mà Nguyên Ngọc nói ở trên, nhưng quả
thật tôi không thấy! Ông đã sai khi viết về Nguyễn Huy Thiệp vì văn Nguyễn Huy
Thiệp chỉ đơn giản là văn chương phơi bày trần trụi.
Thứ nhất về cái “nguyên nhân sơ khởi” mà Nguyên Ngọc viết Nguyễn Huy Thiệp “cố tìm ra”? Chúng ta đều biết tình trạng
xã hội VN theo lời các vị lãnh đạo nói đang “đứng trước nguy cơ tồn vong” do “quốc nạn tham nhũng và lãng phí”, mà nguyên nhân sơ khởi chính là “lỗi hệ thống”. “Lỗi hệ thống” theo tôi đầu tiên chính là công tác cán bộ, bởi tất
cả tốt hay xấu thì cũng đều do con người làm ra; tiếp theo là sự thiếu minh bạch trong các lĩnh vực cùng
với sự thiếu nghiêm minh trong việc thực thi pháp luật. Tất cả là do cơ chế giám sát không hiệu quả. Trong
truyện Bài toán nói trên của tôi, tôi
đã viết: “Đã tồn tại quá lâu rồi cái chủ
nghĩa tập thể, cái gì cũng chung chung, người này dựa dẫm vào người kia, nó chỉ
phù hợp khi người ta đi trên đường mòn, nhưng khi phải đối mặt với đèo cao, vực
thẳm, phải vượt qua những con dốc để vươn lên một tầm cao mới thì không làm gì
được”. Điều đó chính là một trong những “nguyên nhân sơ khởi” của “tình trạng xã hội và con người Việt Nam”
hôm nay mà trong văn Nguyễn Huy Thiệp có “cố
tìm ra” cũng không thấy!
Trong văn Nguyễn Huy Thiệp có rất nhiều tình tiết có thể khiến người ta suy
nghĩ, tự vấn thì chính Nguyễn Huy Thiệp lại tự xóa sạch những điều ấy. Như trong Tướng
về hưu, chuyện dùng “thai nhi
nấu lên cho chó, cho lợn” là chi tiết có lẽ ấn tượng nhất trong văn chương
Nguyễn Huy Thiệp. Với những cây bút bậc thầy, chỉ xoay quanh chi tiết này,
người ta có thể viết hoàn chỉnh một truyện ngắn, khiến cho người đọc kinh hoàng
về sự thoái hóa nhân tính, sự vô cảm của con người trong thời thực dụng. Còn
với Nguyễn Huy Thiệp, nó chỉ là một chi tiết trong một loạt chi tiết khác mà
Thiệp kể ra như ghi chép nhật ký. Ông bố có chửi: “Khốn nạn! Tao không cần sự giàu có này” nhưng ông con, nhân vật
chính, “người phát ngôn” của Nguyễn Huy Thiệp thì lại xổ toẹt: “Thực ra điều này tôi biết nhưng cũng bỏ qua,
chẳng quan trọng gì”. Thành ra hòa cả làng, còn tự vấn tự viếc cái gì nữa!
Cái việc cố đắp điếm tư tưởng cho văn Nguyễn
Huy Thiệp thì đến Nguyễn Đăng Mạnh, một người rất ủng hộ Nguyễn Huy Thiệp, cũng
đã viết: “Đọc Nguyễn Huy Thiệp, lắm lúc
cảm thấy thật sự hoang mang. Vì chẳng hiểu anh định nói gì - đúng là chủ đề
không rõ ràng”. Còn Bảo Ninh cũng từng nói: “Tôi thích văn Thiệp nhưng thích cái gì thì tôi cũng chịu”.
Có thể nói xu hướng “tự vấn”của văn Nguyễn Huy Thiệp được thể hiện rõ nhất trong cái
truyện “Những bài học nông thôn”. Với
những nhà văn lớn, tầm tư tưởng cao, tác phẩm của họ như những cây thế, cây
kiểng mà mỗi cọng lá, nhành cây đều mọc theo chủ đích của tác giả. Còn Nguyễn
Huy Thiệp viết tự nhiên, văn như ghi chép, chuyện nọ xọ chuyện kia, trong Những
bài học nông thôn, cuối truyện nhà “hiền
triết” đột nhiên xuất hiện, rồi phát ngôn y như được tác giả mở công tắc
vậy. Mà chỉ có một thằng tâm thần mới
bộc bạch triết lý một cách khiên cưỡng với một thằng trẻ con 17 tuổi như thế
này:
“Chú
không chống nổi sự ngu dốt của bọn có học đâu. Tôi đây này, tôi hiểu sâu sắc sự
ngu dốt của bọn có học tai hại thế nào, vừa phản động, nó vừa nguy hiểm, lại
vừa mất dạy. Sự ngu dốt của bọn có học tởm gấp vạn lần so với ở người bình
dân”. Tôi hỏi: “Vì sao?” Anh Triệu bảo: “Vì chúng giả hình. Chúng nhân danh
lương tâm, đạo đức, mỹ học, trật tự xã hội, thậm chí nhân danh cả dân tộc nữa”.
Ý này quả là hay. Có điều Nguyễn Huy Thiệp coi
chừng, bản thân ông cũng là người “có học” đấy. Dù cái môn sử thì với tôi ai
thoát khỏi mù chữ cũng có thể học được, cái chính là phải hiểu sử cho đúng thì
ông lại hiểu sai! Và theo tôi, cái giới “chí thức, rận sĩ” của nước Việt hiện
tại như Hiếu Đằng, Tương Lai, Huệ Chi, Xuân Nguyên, v.v…cũng rất xứng đáng được
đứng trong đội ngũ “có học” của Nguyễn Huy Thiệp.
Riêng cái ý này: “Thời loạn dứt khoát phải có một nền thống trị bá đạo. Còn thời bình,
đường lối chính trị bá đạo sẽ đưa dân tộc đến thảm họa. Chỉ có một nền chính
trị vương đạo, dân chủ, tín nghĩa và văn hóa đạo đức cao mới làm cho đất nước
phồn vinh”.
Nếu nó được nói ra sau một cốt chuyện phù hợp
sẽ là rất hay, còn tự dưng “bật công tắc
phát loa”, tư tưởng được nhét vào mồm nhân vật một cách khiên cưỡng thì chỉ
là việc nhai lại những điều cũ rích mà thôi.
Còn
chuyện nhà “hiền triết” sau khi nói
ra sự thật thì bị con trâu điên đâm “lòi
ruột” chết, có ý ám chỉ “chế độ độc
tài giết chết tự do dân chủ” thì lộ và sượng quá!
Tóm lại là có nhiều chỗ hình như văn Nguyễn
Huy Thiệp còn “chưa sạch nước cản”,
và Nguyên Ngọc, “người từng bị đề cử”
giải HCM văn chương, hình như cũng “đếch” biết văn chương là gì! Còn chuyện tự vấn trong văn chương, Nguyên
Ngọc đi tìm đâu cho mất công, nếu ông có cái nhìn khoa học, khách quan, ông sẽ
thấy nó có trong tác phẩm của rất nhiều người, và nó cũng có ngay trong văn
chương của tôi. Bởi tôi từng viết:
Ơi đất nước có thời sao ai ai cũng sợ sự
giàu có?
Nên cái nghèo từng là vết son trang điểm
trang lý lịch của con!
Rồi:
Khi đất nước đã ngàn ngàn năm nghèo đói
Khi đất nước đang quặn mình thành dấu hỏi
Cái trí tuệ nông dân lại không thể trả lời!
Dù vậy cần phải công nhận là thực tế có nhiều
người thích văn Nguyễn Huy Thiệp. Bởi văn Nguyễn Huy Thiệp có tiết tấu nhanh,
gọn, sắc, chỉ cần một lời đối thoại là đã có thể khắc họa được rất sinh động đủ
loại nhân vật; có nhiều chi tiết nghịch dị nên tạo được ấn tượng mạnh; nhiều
chất tếu táo nên đọc thấy vui; và cái cuốn hút được nhiều người có lẽ là cái
gia vị mà Nguyễn Huy Thiệp thường “nêm” vào văn mình, y như người ta cho riềng,
mẻ vào thịt chó; và ăn cà pháo chấm mắm tôm vậy. Nhưng cho Nguyễn Huy Thiệp là
“nhất” là “thành tựu của đổi mới” thì không phải. Nếu xét văn Thiệp với những
chuẩn mực cao hơn thì Thiệp còn nhiều chỗ “chưa
sạch nước cản”. Còn về “thi pháp”
thì Thiệp có nhiều chỗ đã bắt chước giọng truyện Tầu và giọng của Vũ Trọng
Phụng.
***
Sau việc là bà đỡ cho văn chương Nguyễn Huy
Thiệp, với tư cách là Trưởng ban Sáng tác HNV, Nguyên Ngọc đấu tranh quyết liệt để cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh được giải thưởng, với lời ca ngợi: "Đây là cuốn tiểu thuyết về một cuộc
chiến đấu của một con người tìm lẽ sống hôm nay. Bằng cách chiến đấu lại cuộc
chiến đấu của đời mình”.
Nhưng Nguyên Ngọc viết vậy là hoàn toàn theo
cảm tính tùy tiện, chẳng ăn nhập gì đến tác phẩm cả. Bởi cái sự “chiến đấu lại” của “một con người” mà Nguyên Ngọc nói ở trên lại chỉ là “dầm mình trong rượu” và “làm cách mạng văn chương” bằng cái nhìn
tâm thần về cuộc chiến: “Tôi như sẵn sàng
nhập thân trở lại với cảnh lửa, cảnh máu, những cảnh chém giết cuồng dại, méo
xệch tâm hồn và nhân dạng. Thói hiếu sát. Máu hung tàn. Tâm lý thú rừng. Ý chí
tối tăm và lòng dạ gỗ đá”.
Ngoài Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh, Nguyên
Ngọc còn ca ngợi Dương Thu Hương lớp trước, Đỗ Hoàng Diệu lớp sau, và những
ngày hôm nay ca ngợi Huy Đức viết “Bên thắng cuộc” lộn ngược lịch sử và bảo vệ
Nhã Thuyên làm luận án thạc sĩ về thơ của nhóm Mở Miệng.
Đó chính là những tác giả mà tác phẩm của họ
là thành tựu văn chương tiêu biểu theo quan điểm của Nguyên Ngọc, một con người
từng là nhà văn chiến sĩ, từng là Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà văn VN, từng dốc
lòng soạn cương lĩnh văn chương, bản “Đề
dẫn”, dâng lên “Đảng kính yêu”
của mình như sau:
“Nói về phương hướng nội dung của văn học
trong thời kỳ mới hiện nay, chúng ta muốn trước hết tập trung … vào con người…
Con người mới ấy, như Đảng đã chỉ rõ, sẽ là kết quả tổng hợp cả 3 cuộc cách
mạng: cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư
tưởng và văn hoá. Đảng cũng đã sớm chỉ ra cho chúng ta… đó là con người lao
động Việt Nam
làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa… chủ nghĩa xã hội”.
Một người bất nhất, trước sau đối nghịch như
thế phải chăng cũng chỉ là một kẻ cơ hội? Khi tham vọng không đạt thì trở thành
kẻ bất đắc chí, quậy phá, chứ có đâu sự dấn thân, sự đấu tranh cho sự tiến bộ,
vì dân, vì nước!
***
Nhưng vẫn còn một điều tôi không sao hiểu nổi,
lẽ ra Nguyên Ngọc phải rõ hơn ai hết những chuyện đến với mình là tất nhiên,
nhưng theo Tô Nhuận Vỹ trong To
Nhuan Vy Nha van Viet nam: Doi moi va hoi nhap:
“Nguyên Ngọc cũng chua xót: “Đọc Pasternak, tôi thấy bi kịch Zhivago vẫn
là của một người đứng ngoài, đứng trên cả nước Nga mà đau. Còn bi kịch của tôi:
một người trong cuộc, đảng viên, cầm súng, nhiệt tình xây dựng chủ nghĩa xã hội
mấy mươi năm. Thế mà tại sao tình yêu của chính mình lại bị dày đạp đến như
vậy”.
Như vậy là ông vẫn
luôn nghĩ mình bị oan. Và chắc ông cũng sẽ cho Văn Chinh chơi xấu mình khi
viết:
“Nhưng,
Nguyên Ngọc - người tạo gió trong văn học, góp gió nhiệt tâm của mình vào gió
lớn thời đại để ngọn cờ văn học được phất lên mạnh mẽ; cũng chính là người làm
hỏng, làm chậm đà đổi mới của văn học”.
Với tôi thì ông đúng là người “có học” theo cách nhìn của Nguyễn Huy
Thiệp. Riêng cái vụ nhìn ra cái lớp người “có học” ở nước ta này thì thằng cha
Nguyễn Huy Thiệp đúng là thông minh thật!
13-12-2013