Báo
Văn nghệ TPHCM số 286 lại cho đăng một bài của tôi bàn về những tri thức rất
cao sâu về vật lý.
Tiếc
là không chỉ người bình dân mà có không ít người có học đàng hoàng cho tôi là
người hiểu khoa học như vậy sao lại bảo vệ các nhà ngoại cảm. Họ cho tin ngoại
cảm là mê tín, là duy tâm. Có điều nghĩ vậy là người ta không biết duy tâm là
gì. Duy tâm là ý thức quyết định vật chất; còn duy vật là vật chất quyết định
ý thức. Vật chất là toàn bộ thế giới khách quan, kể cả những cái nhìn thấy và
những cái không nhìn thấy. Khoa học từng khám phá ra vô vàn cái không nhìn
thấy như sóng điện từ, nguyên tử, điện tử, hạt nhân, phản vật chất, vật chất
tối, v.v… và các nhà vật lý hàng đầu thế giới vừa mới nhận diện hạt higgs vô
cùng bé nhỏ. Ấy vậy mà thiết bị khoa học dù tối tân đến mấy vẫn không nhìn
thấy thế giới vô hình, một thực tại khách quan mà từ hơn hai thiên kỷ rưỡi trước
đây, Đức Phật đã thấy bằng khả năng lục thông siêu phàm. Kỳ diệu làm sao khi
thực tiễn Việt Nam những ngày hôm nay lại xuất hiện những nhà ngoại cảm, có
phần nào thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông của Đức Phật, họ thấy và giao
tiếp được với các linh hồn, qua ngàn vạn chuyện tìm mộ liệt sĩ ly kỳ, chính
xác. Họ là đại ân nhân của các gia đình liệt sĩ. Có lẽ sự đau khổ của các
linh hồn liệt sĩ vất vưởng, hy sinh trong cuộc chiến khốc liệt để bảo vệ tổ
quốc, đã thấu trời xanh, nên Đức Phật đã khai mở giác quan của một số người
để có thể giúp đưa các liệt sĩ trở về quê hương.
Vậy
mà gần đây VTV1 đã cho chiếu chương trình của cô Thu Uyên “vơ đũa cả nắm”, tố
cáo kẻ lợi dụng ngoại cảm để lừa đảo ăn tiền đồng thời vu cáo luôn những nhà
ngoại cảm chân chính, trong đó có nhà ngoại cảm Vũ Thị Hòa và Phan Thị Bích Hằng. Với Nhà ngoại cảm Vũ Thị Hòa, tôi đã được gặp trực tiếp thì được biết, cô đã hoàn toàn
xuất gia, đã đi tìm hài cốt liệt sĩ như thực hiện một sứ mệnh thiêng liêng. Nhiều
thân nhân của liệt sĩ coi cô là đại ân nhân đã gởi đơn đến VTV và đăng trên
mạng phản đối Thu Uyên. Nhưng VTV bất chấp dư luận, vẫn trao giải đặc biệt
cho Thu Uyên. Dư luận một lần nữa lại dậy sóng. Và VTV vẫn tiếp tục bất chấp,
Thu Uyên vẫn xuất hiện trên sóng truyền hình như là một sự thách thức. Ông
Tổng Giám đốc VTV có cái tên Minh thật đẹp, nghĩa là ánh sáng, mà lại là ánh
bình minh nữa chứ. Theo chữ nho, chữ Minh được ghép bởi hai chữ nhật, nguyệt.
Nhưng thật tiếc, dường như ánh sáng ấy đã bị ám khí của đôi mắt cô Thu Uyên
che khuất đi, e rằng tên ông sẽ lại trở thành Trần Bóng Tối mất. Tôi hơn ông vài
tuổi, lại đồng hương Thanh Miện nữa, tôi chân thành khuyên ông hãy tỉnh ngộ.
Bởi tôi đã tiếp xúc và tìm hiểu kỹ việc tìm hài cốt của cô Vũ Thị Hòa, tôi có
thể thách ông và Thu Uyên có một chứng cớ về chuyện cô Vũ Thị Hòa lừa đảo,
ngoài những lời khai bậy bạ của vài kẻ xấu. Tôi thấy các đệ tử của cô Hòa nên hợp sức kiện VTV và cô Thu Uyên ra tòa về tội vu cáo, xúc phạm người có công.
Nếu quyền con người được bảo vệ đúng như Hiến pháp mới thông qua, tôi tin là
họ sẽ thắng.
Còn
sau đây là bài viết bàn về vật lý để chỉ ra thực chất trí tuệ của ông Huệ Chi
như thế nào, nếu thể chế này sụp đổ và quyền lực rơi vào tay những người có
trình độ như ông Huệ Chi, hoặc ác như cô Thu Uyên, thì họ sẽ dẫn đất nước
chúng ta đi đâu?
|
ĐÔNG LA
BÀI II: NHÀ HÁN NÔM HUỆ
CHI
NGHIÊN CỨU VẬT LÝ
Trong cuộc Hội thảo Khoa học “Vật lý học hiện đại - Văn hóa và phát
triển” do Tạp chí Tia
sáng thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Ban sáng lập Trường Đại
học Phan Châu Trinh (Quảng Nam), Nguyễn Huệ Chi từng đọc bài tham luận: Tư duy phương Đông nhìn dưới ánh sáng học thuyết Einstein. Điều bất thường là tại sao một cuộc Hội thảo được tổ
chức bởi một tạp chí của Bộ Khoa học và một trường đại học, với ban cố vấn và
ban lãnh đạo là những nhà khoa học và nhà trí thức hàng đầu VN, lại cho tham
luận một “công trình” phản khoa học, phản triết học, phản thực tiễn đến thế?!
Nhưng
nhìn vào danh sách 72 vị đòi “lật pháp” thay đổi thể chế thời gian gần đây ta
sẽ không còn thấy bất thường nữa; vì nó có Giáo sư Hoàng Tụy, Chủ tịch Hội đồng cố vấn Đại
học Phan Châu Trinh; GS Chu Hảo, Nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ, cố
vấn; Nhà văn
Nguyên Ngọc, Chủ tịch Hội đồng Quản trị trường.
Bản tham
luận của Huệ Chi nói trên là một mớ những mâu thuẫn. Từ việc đề cao Thuyết
Tương đối, Huệ Chi cho mình “thật may mắn”
được “thầy Cao Xuân Huy” cho biết: “có một nhà vật lý người Đức là Einstein từ
lâu đã tìm ra một học thuyết hết sức thâm viễn gọi là thuyết tương đối hẹp và
rộng”, nhưng rồi Huệ Chi lại ca ngợi
Cao Xuân Huy cho Einstein “sai lầm
cơ bản trong tư tưởng logic”; rồi lại dựa vào Einstein đưa ra tuyên
ngôn: “học thuyết tương đối của Einstein
rọi sáng cho cả một thời đại mới: thời đại “giải lý tính””. Đây là một tuyên ngôn đại sai lầm cả về thuật ngữ
triết học lẫn nội dung khoa học. Bởi “lý tính” theo triết học là nhận thức của
loài người nói chung và Einstein thì chẳng có một Học thuyết Tương đối nào lại
“giải lý tính” như thế cả.
Đặc biệt, trong bản tham
luận đó, Huệ Chi công bố một “công trình” nghiên cứu buồn cười như sau:
“Một hôm… đi xe ô tô… tôi… bỗng để ý thấy một
chú ruồi đậu trên ve áo một người ở hàng ghế bên ấy cất cánh bay sang đậu vào
vai áo tôi… Tôi hết sức kinh dị. Bởi
vì tôi biết xe ô tô đang chạy với một tốc độ rất nhanh, năm sáu chục kilômét một
giờ là ít. Vậy thì tại sao khi chú ruồi cất cánh bay khỏi vai người bạn của tôi
nó không bị chiếc xe đẩy tụt lại phía sau ngay lập tức mà thung dung như đang
bay trong một nơi yên tĩnh…? Lực vô hình nào đã giữ nó yên ổn vị trí trong
khoảng không của ô tô? Cứ giả thử như chúng ta có cách gì nhích người lên khỏi
ghế lơ lửng giữa không trung thì thế nào? Tất nhiên ta sẽ bị vận tốc ô tô đẩy
tụt ra phía sau là cái chắc… Tò mò, tôi làm thêm một
thí nghiệm…: tôi xé một mảnh giấy… vo viên lại và cầm nó giơ cao lên rồi thả
xuống. Kỳ dị thay, viên giấy rơi thẳng xuống sàn ô tô mà không rơi xéo ra phía
sau như tôi tưởng, dù rằng khi viên giấy chạm sàn, ô tô đã chạy được ít nhất
cũng một mét. Nói rõ hơn, trong khi ô tô đang chạy, điểm rơi của viên giấy
xuống sàn xe vẫn như trong một căn phòng không có gió…”.
Hiện tượng “ruồi bay”, “giấy rơi” được như trên là do xe chạy gần như thẳng với vận tốc
đều, không gian trong xe coi như một hệ
quy chiếu quán tính. Mà theo Nguyên
lý Quán tính: “Nếu một vật không chịu một lực nào thì nó sẽ
đứng yên hoặc tiếp tục chuyển động không đổi”. Tương tự như ta trong xe lửa hoặc trên máy bay (lúc không rung, không
xóc, không tăng tốc) thì việc đi lại, rót nước vào cốc và mọi chuyển động sẽ
xảy ra y như lúc xe lửa, máy bay đứng yên. Vì thế, ông Nguyễn Huệ Chi nghĩ “Cứ
giả thử như chúng ta có cách gì nhích người lên khỏi ghế lơ lửng giữa không
trung thì thế nào? Tất nhiên ta sẽ bị vận tốc ô tô đẩy tụt ra phía sau là cái
chắc” là sai hoàn toàn. Bởi nguyên lý quán tính là như nhau với mọi vật trong
hệ quy chiếu, nó không phân biệt ông với con ruồi; không chỉ ông mà nếu có cả
con bò trong xe “nhích lên lơ lửng” được thì nó cũng không bao giờ bị “vận
tốc ô tô đẩy tụt ra phía sau” như ông nghĩ đâu. Các vật trong xe chỉ bị tác
động khi nguyên lý quán tính bị vi phạm, như khi xe quẹo hoặc có gia tốc tăng
hoặc giảm.
Huệ
Chi kể tiếp, đến khi: “đọc đến cuốn Thuyết tương
đối là gì… mới lờ mờ cảm nhận rằng
những việc “lạ” mình không lý giải được chắc có liên quan xa gần đến phát kiến
“động trời” của nhà vật lý người Đức hơn 50 năm trước. Có thể không phải lúc
nào lực hấp dẫn cũng có một tác động như nhau lên mọi vật đang chuyển động… Đối với con người ngồi trên ô tô thì vận tốc năm sáu mươi
kilômét chẳng ảnh hưởng gì, nhưng với một vật nhỏ như con ruồi thì vận tốc ấy
ít nhiều đã tạo nên một trường hấp dẫn mới mà con ruồi sẽ tùy thuộc vào đó…”
Như đã viết, chuyện “ruồi bay” và “giấy rơi” như ông Huệ Chi thấy là do chịu tác động của lực quán tính chứ không có chuyện tương đối tương điếc gì ở đây cả. Nói như vậy Huệ Chi hoàn toàn không hiểu Thuyết Tương đối nói riêng và về khoa học nói chung. Thuyết Tương đối của Einstein có hai, thường được dịch ở ta là Thuyết Tương đối hẹp (Special theory of Relativity) và Thuyết Tương đối rộng (General theory of relativity). Thuyết Tương đối hẹp, từ việc công nhận vận tốc ánh sáng là hằng số, Einstein đã phát minh ra không gian, thời gian không phải tuyệt đối, bất biến mà là tương đối, phụ thuộc lẫn nhau và phụ thuộc theo chuyển động. Còn Thuyết Tương đối rộng, Einstein đã phát minh ra những tính chất mới của không- thời-gian phụ thuộc vào lực hấp dẫn. Nó chỉ ra chính vật chất đã làm “cong” không-thời gian. Vì thế một tia sáng đi qua vùng không gian “cong” đó nó cũng sẽ bị “bẻ cong”. Cái điều tưởng chừng quá kỳ lạ này đã được kiểm chứng đúng. Như vậy lực “hấp dẫn” ở Thuyết Tương đối rộng cũng chẳng dính dáng gì đến chuyện “không bị đẩy lại sau” của con ruồi và viên giấy trong câu chuyện của Huệ Chi. Lực hấp dẫn cũng tác động như nhau với mọi vật. Vì vậy trong thực tế, dù nhỏ như con ruồi, hay to như ông Huệ Chi, hoặc to như con bò thì gia tốc trọng trường là luôn như nhau.
***
Cũng
vì không hiểu khoa học, trong bài tham luận trên ta còn thấy Nguyễn Huệ Chi có
những gán ghép khiên cưỡng tư tưởng Lão Tử với phát minh của Einstein, khi cho khái niệm Đạo của Lão Tử là trạng thái Big Bang của
vũ trụ. Điều này hoàn toàn sai lầm
bởi một phía
Lão Tử cho Đạo “Chu lưu cùng khắp”,
còn Big Bang lại là một điểm vô cùng nhỏ; trong khi Lão Tử hình dung Đạo “lớn, đi mãi, xa tắp, quay trở lại”, còn
Big Bang từ một điểm, sau khi nổ, giãn nở, dần sinh ra các hạt cơ bản, các chất, các thiên thể,…, rồi đến cả loài người chúng ta… với khoảng thời gian là 13,7 tỷ năm, và đến hôm nay nó vẫn đang giãn nở chứ chưa “quay trở lại”
theo ý Lão Tử!
Nguyễn Huệ Chi cũng mâu thuẫn, khi
khúc trên viết “vũ trụ vốn …khối lượng
bằng vô cùng”; đoạn sau lại viết: “vũ
trụ ban đầu có thể trống rỗng không chứa một vật chất hấp dẫn nào cả”. Rồi người ta chỉ phát hiện vũ
trụ đang “giãn nở gia tốc” chứ vũ trụ
không phải “giãn nở rồi ổn định rồi lại giãn nở gia tốc” như Huệ Chi nói.
Nguyễn Huệ Chi cũng
sai khi nói về sai lầm của Einstein. Lúc đầu, Einstein quan niệm vũ trụ là tĩnh, nhưng
nghiệm mô tả vũ trụ rút ra từ phương trình hấp dẫn của ông lại giãn nở, ông đã “chống đỡ” bằng
cách đưa vào phương trình một hằng số vũ
trụ (cosmic constant) để “kéo lại”
cho cân bằng. Rồi sau đó, khi người ta xác định được vũ trụ không tĩnh như ông
nghĩ, ông đã quẳng cái hằng số mà ông cho là “cái ngu ngốc lớn nhất của đời tôi” (biggest blunder) ấy đi.
Chứ không phải nghĩ ngược như Nguyễn Huệ Chi:
thấy người
ta phát hiện vũ trụ giãn nở “buộc ông
phải đưa thêm vào hằng số vũ trụ”, nghĩa là Einstein thấy sai rồi mới làm sai, như một hành động ngớ ngẩn! Có điều Einstein là bác học thiên tài chứ không phải
ngớ ngẩn, chỉ có người nghĩ về ông như vậy mới ngớ ngẩn mà thôi!
***
Khi
bàn về nhận thức chân lý, Huệ Chi viết:
“Chân lý mà nhất là chân lý tối thượng … Nó không phơi
ra những đường, nếp, hình, khối... để cho giác quan chúng ta dễ dàng bám lấy.
Thế nên thay vì giác quan, con người phải dùng đến một thứ siêu giác quan là
lương năng để mặc khải chân lý. Mà lương năng chỉ thật sự sáng lên khi giác
quan cùn lụt đi. Cho nên, phải làm ngược lại với quy trình thông tục của sự suy
nghiệm, phải bắt cái tâm của mình (là cơ quan chỉ huy, điều khiển mọi giác
quan) trở nên tối tăm, ngu độn (Ngã ngu nhân chi tâm dã tai, độn độn hề! Tục
nhân chiêu chiêu, ngã độc hôn hôn. Tục nhân sát sát, ngã độc muộn muộn - Lão
Tử, chương XX).
“…triết học
phương Đông lại đạt đến cái mà triết học Hy Lạp cơ hồ không thể đạt đến, đó là
sự tưởng tượng siêu thăng về vũ trụ ẩn chứa trong nó rất nhiều hạt nhân hợp lý,
ngày càng được vật lý học chứng minh. Từ trong điều kiện của một tâm thế vô vi,
tịch lặng và trống rỗng, không bị vướng vào trạng thái đã “thành” của tâm, nhà
hiền triết lại có nhiều cơ hội tiếp thu được một nguồn sáng kỳ diệu, giúp cho
sức mạnh của trực giác trong mình bừng dậy, và bỗng “ngộ” ra cái không thể nhìn
thấy bằng tri giác thông thường”.
Triết
học phương Đông, ngoài tư tưởng mơ hồ, có đôi nét tương đồng về “vỏ ngôn ngữ” với khoa học hiện đại,
nó không còn gì nữa. Từ những tư tưởng
này, loài người không làm ra được bất kỳ một phát minh nào góp phần xây nên nền
khoa học công nghệ và nền văn minh nói chung hôm nay. Còn trong thực tế, chính
tư duy lý tính của phương Tây cổ đại nói riêng và của loài người ngày nay nói
chung, từ việc coi thế giới xây nên bằng những “nguyên tử” theo Đê-mô-crit người
ta đã thám hiểm sâu vào cõi cùng tận của cấu tạo vật chất, xây nên toàn bộ nền
văn minh cả vật chất, trí tuệ lẫn tinh thần và cuộc sống tiện nghi hôm nay. Huệ
Chi cũng cần phải hiểu phát minh của Einstein không phải từ ngồi thiền, mà dựa
trên nền tảng tri thức được xây nên từ vô vàn thí nghiệm “khổ công thực chứng”, đặc biệt là việc xác định được vận tốc ánh
sáng là hằng số tuyệt đối (absolute constant), ông mới đưa ra được Thuyết Tương
đối hẹp. Và để làm được vậy, ông hoàn toàn không cần phải làm “tâm tối tăm ngu độn” đi theo “phương
pháp Nguyễn Huệ Chi” mà buộc phải nhìn bằng tư duy tỉnh táo, minh mẫn, sắc bén
nhất.
Còn
tư tưởng phương Đông cổ đại không lấy giới tự nhiên làm đối tượng mà chỉ đưa ra
những khái niệm trừu tượng, chung chung, nên không phát triển. Nguyễn Huệ Chi viết như trên là
lộn ngược thực tế.
***
Kể
cả việc nếu Nguyễn Huệ Chi viết về Đạo Phật như trên thì cũng không đúng. Đức
Thích Ca đúng là qua tu luyện bằng thiền định, đã chứng được tứ thiền, đạt lục
thông. Từ đó các giác quan của ngài mới có được những năng lực siêu phàm, thấy
được các cõi, các kiếp, nguyên nhân của khổ và con đường diệt khổ, v.v… chứ
không phải là chuyện “lương năng chỉ thật
sự sáng lên khi giác quan cùn lụt đi”, hoặc là những “tưởng tượng siêu thăng” như Huệ Chi viết.
Chính
cũng bằng năng lực siêu phàm ấy, cách nay hơn hai thiên kỷ rưỡi, Đức Phật đã
thấy những điều mà nhiều nhà khoa học, với trí tuệ xuất chúng và những phương
tiện nghiên cứu tối tân nhất, mới thấy lại. Đức Phật thường khuyên các đệ tử
trước khi uống nước hãy niệm chú để phổ độ cho các vi chúng sinh có trong bát
nước, nghĩa là ngài đã nhìn thấy vi trùng. Kinh Phật cũng cho thấy thế giới
chúng ta đang sống không phải là duy nhất. Kinh Hoa Nghiêm viết: "Thế giới hải có nhiều hình tướng sai khác,
hoặc tròn... hoặc hình như nước xoáy... hoặc hình như hoa ... có vi trần số
hình sai khác như vậy”. Những điều này đã được chứng thực bởi những kính
thiên văn hiện đại nhất. Vì vậy, Albert Einstein, nhà khoa học vĩ đại nhất của
thế kỷ 20, đã nói: “Nếu có bất cứ một tôn
giáo nào đó có thể đương đầu được với những nhu cầu của khoa học hiện đại thì
nó sẽ là Phật Giáo”. (If there is any religion that could cope with modern
scientific needs it would be Buddhism).
***
Tư tưởng cổ đại là báu vật trong kho tàng văn hóa
chung của nhân loại, chủ yếu có ý nghĩa về mặt văn hóa, giúp cho con người
những bài học rèn luyện nhân cách, tu thân tích đức, còn vì hiểu sai, rồi gán
ghép cho chúng những ý nghĩa khoa học cụ thể mà chúng không có thì không nên.
Vì vậy đề nghị của ông Nguyễn Huệ Chi: “thiết
tưởng một câu hỏi đã đến lúc phải đặt ra mạnh bạo và dứt khoát hơn: tại sao
không thể xem Đạo của Lão Tử là dự báo sáng suốt về cõi thiên hà muôn hình vạn
trạng đang vận động với quy luật giãn nở gia tốc mà vũ trụ học hiện đại đã và
đang tìm ra cách nhận dạng?” thì e rằng không phải ông lấy ánh sáng
Einstein chiếu sáng tư tưởng Lão Tử mà chính là đã lấy bóng tối lầm lẫn của
mình phủ lên tri thức khoa học, vốn đã quá rắc rối với nhiều người, trở nên mù
mịt thêm!
Thật tiếc, không chỉ dừng lại ở sự lầm
lẫn trong việc tìm hiểu khoa học, còn coi chúng là kim chỉ nam cho mọi nhận
thức và hành động của mình. Qua đoạn văn đã dẫn ở trên ông đã “ngộ” ra: “hòn
đá tảng quan trọng của một phương pháp tư duy hiện đại: sự chối bỏ logique
thông thường để tiếp cận với những chân lý tưởng chừng siêu nghiệm đang tồn tại
hiển nhiên trên thế giới này”.
Rồi theo sự dẫn lối đưa đường của cái “tà đạo” đó, trong cuối bài tham luận, Nguyễn Huệ Chi còn rút
ra “Ý nghĩa của cuộc đấu tranh phát huy tương đối
luận”, phóng chiếu tư tưởng mình vào các hiện tượng xã hội cụ thể:
“Chúng ta đã
từng rút được không ít bài học thấm thía về sự cả tin vào ý chí của một thời
vốn được mệnh danh là “thời đại cách mạng lay trời chuyển đất”, cả tin vào lẽ
phải của lý trí, khi ta mơ ước chân thành mà cũng có phần nông nổi về lý tưởng
tối hậu của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giàu và nghèo là cốt triệt đi một vế -
vế xấu xa, vế của sự giàu sang - để vế nghèo cũng được xóa bỏ, cuộc đời xung
quanh ta sẽ tốt đẹp hơn. Nhưng kết cuộc lại không hẳn đã như ta nghĩ. Cái giàu
bị tiêu diệt nào ngờ cái nghèo càng nghèo thêm”; “giàu không phải có mặt bất
thiện của giàu mà có cả mặt thiện của giàu, nó có thể cứu rỗi cái nghèo”…
Những ý của ông rõ ràng không khách quan, phi lịch
sử. Thử hỏi ông, nếu không có các cuộc chiến tự vệ chống xâm lược và chống bất
công, xã hội loài người có được như hôm nay không? Xã hội ta đúng là còn nhiều
yếu kém và tệ nạn, nhưng ông nói “cái
nghèo càng nghèo thêm” thì có đúng không? Là
một ông Giáo sư, Nguyễn Huệ Chi lại có kiểu
bôi đen xã hội y như những kẻ chống đối đầy thù hận và ít học đến như thế sao?
Ông còn mạnh tay “kê toa, bốc thuốc” cho chế độ. Theo ông, cần phải thay cơ chế
hiện thời bằng “bằng cơ chế xã hội dân
chủ” http://nguyenhuechi.free.fr/thumucindex.html).
Chữa bệnh cho bệnh nhân còn khó huống hồ bệnh xã
hội, người “bác sĩ” ở đây buộc phải có đầu óc hơn người, và trước hết phải có
tinh thần khoa học biện chứng, bởi lý thuyết dù hay đến mấy mà không phù hợp
cũng sẽ thành dở, nên chỉ có cái nhìn khoa học biện chứng mới đi đúng hướng,
nếu không rất dễ trở thành tên “đồ tể của xã hội”.
Không ngờ một ông Giáo sư từng hưởng bổng lộc và
danh vị của chế độ, tưởng thâm trầm mô phạm, lại có những phát ngôn cực đoan
bất chấp thực tế, đầy thiên kiến méo mó như thế. Thật
tiếc xã hội mình tôi thấy không ít những bậc mũ cao áo dài có những công trình
mang vẻ cao thâm, nhưng thực chất chỉ là mớ hỏa mù làm tối mắt những người yếu
bóng vía. Không chỉ sính chữ, làm dáng tri thức, họ
còn tự cho mình là tầng lớp tinh hoa, có sứ mệnh khai hóa dân trí, chỉ lối đưa
đường cho xã hội. Nhưng giải một bài toán con con của phổ thông không xong, sao
họ có thể hiểu được chính xác Thuyết Tương đối của Einstein? Và cái tham vọng chỉ lối đưa đường cho xã hội lại dựa trên sự lầm lẫn khoa học như thế thì sẽ dẫn xã hội đi
đâu?!
TP Hồ Chí Minh,
25-12-2013