Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2014

ĐẠI TÁ NHÀ BÁO ĐÀO VĂN SỬ: NHỚ BIÊN GIỚI PHÍA BẮC - NHỮNG NGÀY NẮNG LỬA

5 giờ sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc tiến vào Việt Nam trên toàn tuyến biên giới, với chiến thuật dùng biển lửa và biển người. Quân Việt Nam dày dạn trận mạc hơn đã đánh trả quyết liệt. Đến ngày 5 tháng 3 năm 1979, Bắc Kinh tuyên bố đã "hoàn thành mục tiêu chiến tranh", "chiến thắng" và bắt đầu rút quân. Phía ta cũng tuyên bố thể hiện "thiện chí hòa bình", “Việt Nam cho phép Trung Quốc rút quân”.
Thực chất TQ đã bị thất bại, mục đích chính của họ muốn buộc quân ta phải rút quân để bảo vệ bọn diệt chủng Pôn Pốt đã không thực hiện được. Chúng ta đã chiến thắng mà theo tôi chiến thắng lớn nhất là chúng ta đã giữ vững được nền độc lập và tự chủ. Mao Trạch Đông từng nói thẳng với TBT Lê Duẩn ý TQ không muốn ta giải phóng Miền Nam, đại ý “cán chổi của các đ/c ngắn lắm, chuyện quét sạch Mỹ-Ngụy để chúng tôi lo cho”. Nhưng chúng ta vẫn quyết giải phóng được MN. Chúng ta cũng đã thẳng thừng từ chối vào liên minh chống Liên Xô của Trung Quốc.
Nhưng mọi chiến thắng đều phải trả giá rất đắt. Chính vậy ta càng thấy giá trị những ngày hòa bình hôm nay. Theo Chiến tranh biên giới Việt-Trung, phía TQ cho bên ta chết và bị thương là 50.000 người; một tài liệu khác cho khoảng 25.000; theo tạp chí Time thì “có khoảng dưới 10.000 lính Việt Nam thiệt mạng”. Cuộc chiến cũng đã gây ra những thiệt hại nặng nề: các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn toàn. Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống. Nó còn mở ra tiếp theo hơn 10 năm căng thẳng trong quan hệ và xung đột vũ trang dọc biên giới giữa hai quốc gia, buộc ta phải thường xuyên duy trì một lực lượng quân sự khổng lồ dọc biên giới, gây hậu quả xấu đến nền kinh tế. Ngoài ra, nhiều cột mốc biên giới cũng bị quân Trung Quốc phá hủy.
       Thật may mắn, sau bao cuộc chiến đẫm máu như vậy, đã dẫn tới xu hướng của thời đại: đối thoại thay cho đối đầu, nước ta cũng đã thực hiện thành công chính sách ngoại giao đa phương. Có một bài học “nhiều khi chiến tranh xảy ra không chỉ do kẻ gây hấn mà còn vì phía bị gây hấn không khéo hóa giải, trái lại còn rơi vào cái bẫy khiêu chiến, tích cực “hợp tác” cho chiến tranh xảy ra!” Chính vậy thật thú vị khi nghe ông Nguyễn Chí Vinh từng trả lời phỏng vấn:
BBC: Thưa ông, gần đây trên các diễn đàn của người Việt có nhiều ý kiến chỉ trích rằng Chính phủ Việt Nam chưa có được phản ứng mạnh mẽ tương thích với các hành động gây hấn tàu bè, ngư dân và hoạt động dầu khí của Việt Nam. Ông nghĩ thế nào về các chỉ trích này?
 Tướng Nguyễn Chí Vịnh: Tôi cho là các chỉ trích ấy xuất phát từ tấm lòng đối với đất nước, nhưng cũng có một phần vì thiếu thông tin. Vấn đề là có đạt được mục đích của mình hay không chứ không phải cứng rắn như thế nào. Mục đích chính của Việt Nam là hòa bình, ổn định và chủ quyền lãnh thổ. Chỉ cần làm đủ để đạt được những điều đó.Thí dụ vụ tàu Bình Minh 02, sự việc hết sức nghiêm trọng, nhưng Việt Nam xử lý rất ôn hòa, bình tĩnh, phát biểu rất cương quyết nhưng thái độ rất xây dựng. Đây là vụ việc Trung Quốc sử dụng bạo lực đối với tàu của Việt Nam. Việt Nam không sử dụng bạo lực để đáp trả, nhưng kết quả là như thế nào? Tàu Bình Minh 02 vẫn tiếp tục hoạt động như cũ trong vùng biển của Việt Nam… Chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam là để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thì quan trọng nhất là xây dựng được sự đoàn kết với các nước có tranh chấp. Nhưng đoàn kết là phải tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng luật pháp quốc tế. Các mối quan hệ cũng phải công khai minh bạch. Tôi nghĩ đây là chủ trương đúng đắn.
Tiếc là thực tế những kẻ xấu vẫn không ngừng nghỉ xử dụng mối quan hệ Việt-Trung để quấy rối, “lập công” chống phá đất nước, kể cả những người mang danh “cán bộ CM lão thành,  trí thức, văn nghệ sĩ”, mà như ông Vũ Khoan từng nói, chỉ “vì những tính toán riêng”.
Theo “Phóng viên” VÕ KHÁNH LINH hôm nay: “một số biểu tình viên như “bệnh nhân tâm thần” Lê Anh Hùng, nhân sỹ Chu Hảo,…đeo trên đầu băng đỏ kiểu “Nhân dân không quên 17/2/1979-2014” và tay cầm bông hoa với băng tang đen “17/2 Nhân dân không quên” … khi có đông người đến hơn, có ngay đội hình đứng ra phát băng đỏ, hoa, huy hiệu miễn phí cho bất cứ ai đồng ý nhận. Điều này cho thấy, nhóm NO-U đứng sau là đại gia Nguyễn Quang A, Việt tân đã có dự án đầu tư bài bản không kém các cuộc biểu tình trước đây”.
Việc lợi dụng ngày 17-2 để quấy rối “kiếm cơm” tất phải vạch mặt, ngược lại, cấm kỵ không dám nhắc đến ngày 17-2 cũng là điều không nên. Có điều cần có cái nhìn khách quan và cần đặt lợi ích toàn cục của đất nước lên trên những xung khắc nhỏ lẻ, cục bộ. Như Đức, Ý, Nhật từng là kẻ thù trong Chiến tranh Thế giới II với Mỹ, nhưng nay họ là đồng minh. Trên tinh thần đó xin đăng bài viết của Đại tá Đào Văn Sử sau đây:
ĐÀO VĂN SỬ
NHỚ BIÊN GIỚI PHÍA BẮC - NHỮNG NGÀY NẮNG LỬA
Giữa những ngày chiến đấu căng thẳng, ác liệt bảo vệ biên giới phía Bắc (tháng 5-1984) thì Tổng biên tập Trần Công Mân gọi chúng tôi lên giao nhiệm vụ: Hướng Cao Bằng: Các đồng chí Thiều Quang Biên và Đặng Văn Hùng, do đồng chí Biên làm tổ trưởng. Hướng Lạng Sơn: Tôi và anh Hoàng Như Thính, tôi làm tổ trưởng.
Sáng hôm sau, ngay sau khi đồng chí Phó Tổng biên tập, Bí thư Đảng ủy Bùi Biên Thùy động viên, căn dặn, bốn anh em chúng tôi cùng lên xe U-oát xuất hành. Đến thị xã Lạng Sơn, tôi và anh Thính xuống xe, lội bộ về hướng Quân đoàn 14, để xe tiếp tục chạy ngược Quốc lộ 4 chở hai đồng nghiệp lên Cao Bằng.
Chúng tôi vào sở chỉ huy Quân đoàn 14, được đồng chí Văn Học (cán bộ tuyên huấn, sau này là Tổng biên tập báo Quân khu 1) và các cán bộ tác chiến dẫn lên điểm tựa biên giới. Đến thị trấn Đồng Đăng, nhìn qua biên giới rất trống trải, anh Văn Học nói: “Đoạn này trống trải, từ dãy núi bên kia, chúng quan sát mình dễ lắm!”. Đúng như vậy, chỉ vài phút sau, từng loạt đoạn pháo từ bên kia biên giới bắn sang, nổ chát chúa, đào xới mặt đường, khói bụi đất đá tung lên ngay đoạn chúng tôi vừa đi qua. Thật hú vía. Nghe tiếng pháo nổ đầu nòng, như một phản xạ tự nhiên, chúng tôi vội nằm sấp xuống mé đường.

HÃY BẢO VỆ CÁC EM  (Ảnh của nhà báo Đào Văn Sử, báo QĐND)
Ảnh chụp tại bản Nà Sa, xã Thạch Lâm, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn (tháng 5-1984).
Trong lúc bố mẹ đi làm nương, đạn pháo bên kia biên giới nổ chát chúa trong vườn nhà, các con anh Lý Văn Liên (dân tộc Nùng) vội núp vào cửa hầm tránh pháo cùng với đàn gà táo tác lạc mẹ. Tấm ảnh được giải nhất ảnh Thời sự nghệ thuật báo Nhân Dân năm 1984 và Bằng Diploma của Tổ chức Quốc tế các nhà báo (OIJ)  tại Mát-xcơ –va năm 1985.
Lên đến điểm tựa, không khí sẵn sàng chiến đấu của bộ đội ta thật sự nóng bỏng và căng thẳng. Tất cả đạn các loại hoả lực đều lên nòng và chất cao ngay bên công sự. Trong con mắt của các đồng đội, cứ như có lửa. Các đồng chí cán bộ chỉ huy các cấp đều phổ biến ngắn gọn, khả năng đối phương đánh chiếm điểm tựa của ta. Tất cả sẵn sàng quyết tử, “Một tấc không đi, một li không rời!”.
Buổi chiều, tiếng loa của đối phương từ bên kia biên giới vọng sang tuyên bố hùng hồn rằng sẽ đánh chiếm điểm tựa của chúng ta. Đêm buông xuống nhưng khắp điểm tựa, cán bộ, chiến sĩ ta không ngủ, súng trong tay, mắt hướng về biên giới. Tôi nói với anh Thính:
- Nếu có đủ tư liệu là tôi chạy xuống thị xã Lạng Sơn gửi bài, phim ảnh về Toà soạn. Gửi xong tôi lại lên ngay. Ta thống nhất với nhau như vậy để khỏi hiểu nhầm là chạy trốn!
Anh Thính cười thật vô tư:
- Tôi cũng tính thế đấy. Cứ chụp hết cuộn phim là tôi chạy về thị xã gửi, rồi lại lên ngay!
Chờ thâu đêm tới sáng, trận địa căng như sợi dây đàn vẫn không có động tĩnh gì. Hôm sau đối phương lại tuyên bố sẽ đánh đêm. Chúng tôi lại thức trực chiến. Đêm ấy là ngày 7 tháng 5 năm 1984, đúng ngày kỷ niệm 30 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Tôi và nhiều bộ đội ta nghĩ chắc chúng sẽ nhằm ngày này đánh lớn. Nghĩ vậy và chờ đợi thâu đêm suốt sáng… vẫn im ắng. Đúng là bọn chúng đánh đòn tâm lý, gây cho bộ đội ta căng thẳng, mất ngủ, mệt mỏi và tức giận... Tôi bàn với anh Thính: “Tình hình này, chưa biết nó đánh lúc nào ? Hướng Cao Lộc, khu vực bình độ 400 đang bị bắn phá dữ dội, anh ở đây, tôi chuyển hướng sang bên ấy”. Anh Thính băn khoăn sợ tôi đi bộ lạc đường. Tôi nói:
- Anh yên tâm, 4 năm trước, tôi là học viên sĩ quan chính trị thực tập làm chính trị viên đại đội, từng tham gia trực tiếp chỉ huy chiến đấu ở điểm tựa Cao Lộc, tôi vẫn thuộc đường.
Một mình, ba lô trên vai, trước ngực toòng teng chiếc máy ảnh Pratica đời cũ. Sau những đêm mất ngủ, mới đi bộ đường rừng khoảng 10 km mà tôi đã thấm mệt. Hai bên đường những bụi tre, bụi luồng bị pháo bắn xác xơ, lửa còn cháy lem lém, thỉnh thoảng vẫn có tiếng nổ lốp bốp. Không thể bỏ qua những hình ảnh này. Suốt dọc đường, tôi vừa đi, vừa chạy lên triền dốc quan sát chọn góc độ chụp ảnh. Tôi không biết rằng, mình đang đi giữa các trận địa pháo và kho đạn của ta. Nơi này, các trận địa nguỵ trang rất kỹ, bí mật tuyệt đối. Sau này tôi mới biết, từ những vọng gác đặc biệt, mọi động tác nhô lên, thụp xuống, ngó nghiêng quan sát rồi hí hoáy chụp ảnh của tôi đều bị theo dõi bởi những cặp mắt tinh tường của các chiến sĩ cảnh giới. Tới khi tôi lội xuống khe suối, đặt ba lô, vốc nước vào mặt cho tỉnh táo thì giật bắn người bởi tiếng hô:
- Đứng nguyên vị trí. Giơ tay lên!
Tôi ngoái đầu lại, thấy một chiến sĩ cao to, đầu đội mũ sắt, tay lăm lăm khẩu súng AK báng gập, mắt nẩy lửa. Còn một chiến sĩ người thấp đậm nhanh tay thu giữ luôn ba lô và máy ảnh của tôi.
Tôi vội tự giới thiệu, nhanh tay mở túi áo lấy thẻ nhà báo ra, nhưng anh chiến sĩ như không hề nghe tôi nói, mặt đanh lại quát:
- Bỏ tay xuống, đi theo tôi!
Tôi bước theo người chiến sĩ khoác ba lô, còn anh chiến sĩ đi sau tôi vẫn đặt tay vào cò súng. Tôi lựa lời hỏi chuyện:
- Các đồng chí đưa tôi đi đâu đây?
- Về chỉ huy trung đoàn.
- Tôi đi bộ mệt rồi, cho tôi về đơn vị nào gần đây nhất cũng được, để tôi báo cáo… Tôi chính là phóng viên báo Quân đội nhân dân…
- Không được, anh chụp ảnh trận địa pháo để làm gì? Cứ phải về trung đoàn!
Nghe giọng nói, tôi biết đây là các chiến sĩ người dân tộc Tày hoặc Nùng, lầm lì, nguyên tắc lắm. Họ cảnh giác theo dõi tôi suốt một đoạn đường dài, thấy tôi đi đơn lẻ, hành tung lại đáng ngờ nên dám chắc tôi chụp ảnh trận địa bí mật để cung cấp thông tin cho đối phương. Bởi vậy tôi nói gì họ cũng không muốn nghe và không tin nữa.
Vừa mệt vừa tức, vừa mỏi nhừ chân sau 2 đêm mất ngủ nhưng tôi cố bước đi. Tôi nghĩ mình mà không chấp hành, anh lính này nổi nóng, đòm một phát thì thiệt. Tôi kiên nhẫn bước đi và nung nấu ý nghĩ: Nếu gặp chỉ huy trung đoàn, sẽ đề nghị phê bình hoặc kỷ luật hai anh chiến sĩ này - làm việc cứng nhắc, máy móc, cảnh giác một cách mù quáng, không thèm xem giấy tờ người lạ…
Bực mình thì nghĩ vậy nhưng khi tới nơi tôi vui quá quên luôn. Thật tình cờ, đồng chí phó chỉ huy trung đoàn là người quen cũ, anh học sĩ quan trước tôi 2 khoá. Bạn bè lâu ngày gặp nhau, tay bắt mặt mừng. Hôm ấy tôi được đơn vị chiêu đãi bữa cơm điểm tựa thật ấn tượng, có thịt gà rừng hấp lá chanh thơm phức. Sau bữa ăn và một giấc ngủ ngon lành, tôi hoàn toàn lại sức. Trung đoàn cho người dẫn tôi lên các chốt ở bình độ 400.
 
Xẻ núi đưa pháo lên điểm tựa (Ảnh của nhà báo Đào Văn Sử.
Bộ đội địa phương huyện Mường Khương (tỉnh Hoàng Liên Sơn cũ) khẩn trương xẻ núi mở đường để đưa pháo lên điểm tựa, bảo vệ biên giới phía Bắc. Tấm ảnh được Triển lãm tại 29 Hàng Bài, Hà Nội  trong  cuộc triển lãm ảnh thời sự- nghệ thuật của Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam, năm 1986. 
    Trên đường đi, gần đến một bản nhỏ của xã Thạch Đạn, huyện Cao Lộc thì bất ngờ một loạt đạn pháo từ bên kia biên giới bắn sang nổ ầm ầm, khói bốc cao, mùi khét lẹt, trùm lên những khóm tre, mái lá. Tôi cùng đồng chí cán bộ tác chiến trung đoàn pháo chạy vào bản. Thật may, đạn pháo chỉ làm xác xơ những khóm tre và khoét sâu mấy hố lớn bên sườn đồi. Dân bản, nhà nào cũng có hầm tránh pháo. Thú vị nhất là chúng tôi gặp các em nhỏ đang ngơ ngác đứng trước cửa hầm nửa nổi, nửa chìm. Bên cạnh các em là đàn gà con chạy táo tác lạc mẹ. Tôi nhận ra ngay sự tương đồng giữa đàn gà con hốt hoảng khiếp sợ tiếng pháo nổ với các cháu nhỏ đang chứa đầy nỗi buồn, lo, khi bố mẹ vắng nhà. Mở máy, tôi bấm luôn vài kiểu ảnh. Về Tòa soạn, sau khi tráng phim tôi thấy đó là những tấm ảnh có giá trị, nên xin phép đồng chí Nguyễn Viết Sơn, phó phòng biên tập Quân sự để sang số 7, Phan Đình Phùng trực tiếp báo cáo Tổng biên tập. Tổng biên tập nhất trí cho tôi gửi một tấm sang báo Nhân Dân (đang có cuộc thi ảnh thời sự - nghệ thuật toàn quốc) còn một tấm (hai cháu nhỏ lo lắng, mếu máo ôm cây cột nhà) đồng chí ký duyệt cho đăng trên báo ta, ngày . Tấm ảnh gửi báo Nhân Dân tôi chú thích: “Hãy bảo vệ các em!”.
Đồng chí Hà Đăng, Tổng biên tập báo Nhân Dân đưa ngay chú thích của tôi lên thành tít lớn rồi tự viết một đoạn chú thích khá dài cho tấm ảnh – như giọng văn chính luận. Cả ảnh và chú thích chiếm gần 1/4  trang nhất báo Nhân Dân ngày 30 tháng 5 năm 1984. Ngay chiều hôm đó, theo yêu cầu của Bộ Ngoại giao, tấm ảnh được in thành 170 bản để gửi cho các nước và các tổ chức quốc tế có quan hệ với Việt Nam. Sau đó, tấm ảnh được giải nhất báo Nhân Dân, giải nhì ảnh báo chí toàn quốc Hội Nhà báo Việt Nam và nhận bằng Diploma của Tổ chức Quốc tế các nhà báo (OIJ) tại Mátxcơva năm 1985.
Thế mới biết cuộc đời làm báo, gặp chuyện nguy hiểm, rủi ro, chưa hẳn đã rủi; trong cái rủi đôi khi lại tìm thấy cái may!