Nếu Nguyên
Ngọc hoặc ai đó, hoặc tất cả những người trong Ban vận động thành lập Văn đoàn độc lập xúm lại viết được bài như
dưới đây thì hành động của họ có thể có lý đấy. Nhưng toàn tôi cao, trí thấp,
tâm tối thì sao viết được đây?
|
HÀNH TRÌNH THƠ CA
Điểm qua lịch sử thơ ca từ cổ chí
kim, từ Đông sang Tây, từ hình thức đến nội dung… đến những quan niệm về tính
chất của nó, ta sẽ thấy một bức tranh mầu sắc rất khác nhau, có khi hoàn toàn
tương phản.
Với
một cách nhìn chung nhất về nội dung và hình thức: Từ quan điểm “thi dĩ ngôn
chí” (thơ cổ) đến “thi dĩ ngôn tình” (thơ lãng mạn); từ sự thoát
ly thực tế (thơ lãng mạn) đến gắn liền với hiện thực (thơ
hiện thực, thơ cách mạng); từ niêm luật, vần điệu chặt chẽ
(thơ Đường, thơ lục bát) sang tự do thể hiện (thơ tự
do); từ sự giãi bày, bộc bạch, nỉ non (thơ lãng mạn) đến tượng
trưng, ước lệ, kín đáo, lãnh đạm (thơ tượng trưng); từ sự tái
hiện chuẩn xác, trật tự, hợp lý (thơ hiện thực) đến sự kỳ dị,
xáo trộn, phi lý (thơ đa đa, siêu thực)...
Về
hình thức nội dung đã vậy, quan niệm về những tính chất, về cái hay, cái giá
trị của thơ còn khác biệt nhiều hơn, không chỉ với những người bình thường, mà
ngay cả với những tên tuổi đã được đóng đinh trên bảng vàng danh dự của nền văn
hóa toàn nhân loại.
Quan niệm về lý trí, Boileau cho:
“Hãy chuộng lý trí... chỉ nên nhờ cậy lý
trí thì tác phẩm mới rạng rỡ và có giá trị”; Valery cũng vậy: “Thơ phải là ngày hội tưng bừng của trí tuệ”;
nhưng Breton ngược lại: “Thơ
phải là sự tan rã của trí tuệ”. Về nhạc điệu, Verlene cho: “Thơ phải có nhạc trước hết”; nhưng Eliot thì
không: “Một số bài thơ làm để ngâm nga,
nhưng đại đa số hiện nay buộc phải đọc lên như nói... Sự lạc điệu, cả sự trúc
trắc cũng đem vào thơ... không một nhà thơ nào viết nổi một bài thơ dài mà
không đồng thời là một bậc thầy về văn xuôi,... bậc thầy về văn nôm na”. Về
vần điệu: Baudelaire cho: “Nhà
thơ nào chưa biết đích xác mỗi tiếng có thể hợp bao nhiêu vần thì không diễn tả
nổi ý nào hết”; Apollinaire thì không thế: “Thơ tự do không vần, cho tha hồ buông phóng tâm tình”. Về hình
ảnh: Cocteau cho: “Hình ảnh làm
hư hại cả thơ”; nhưng Reverdy có lý hơn: “Đặc tính của hình ảnh gợi cảm mạnh mẽ là xuất hiện từ chỗ ngẫu nhiên
tương cận của hai sự thực rất xa nhau, mà chỉ tinh thần mới thấy mối liên hệ”;
còn Breton coi hình ảnh trong thơ là hình ảnh kỳ lạ của thế giới siêu
thực: “Giá trị của hình ảnh tùy vẻ đẹp
của tia sáng đã nảy ra được... Song theo ý tôi, sức người không thể sắp đặt cho
gần nhau hai sự thật cách xa nhau như thế... Vậy đành phải chấp nhận rằng hai
vế của một từ ngữ có hình ảnh, không phải do lý trí suy luận để vế nọ sinh ra
vế kia mà làm bật tia sáng, cả hai đều sinh ra cùng một lúc, do một động lực mà
tôi gọi là động lực siêu thực, còn lý trí thì chỉ nhận xét và phê bình hiện
tượng bật sáng kia mà thôi”. Về sự hiểu và không: Bellay nói:
“Tôi không lấy làm lạ nếu có nhiều kẻ
chẳng thấy thơ nào hay, trừ những bài họ hiểu”.Còn Mallarmé cho: “Câu thơ phải bao hàm dụng ý, tất cả lời lẽ
phải khuất sau cảm giác”. Perse thì giải thích: “Sự tối nghĩa của thơ, mà người ta chê trách,
không do bản chất thơ vì thơ vốn soi sáng, nhưng do bóng đen mù mịt như đêm mà
thơ phải thăm dò”. Quan niệm về Thơ hiện đại: D’Aurevilly coi
trọng sự độc đáo đơn biệt: “Ở thời đại
cực văn minh này, thơ nào thật là thơ trước hết phải có tính chất cá nhân và
đơn độc. Những đại bàng và những mãnh sư thường đi riêng một mình”. Jarry coi
trọng sự đa tầng, đa nghĩa: “Thơ hiện đại
bất chấp mọi điều giải nghĩa. Cũng như đối với những vật thể của tự nhiên, giải
phẫu mãi thì bao giờ cũng lại phơi ra chút gì mới lạ... sự liên hệ giữa câu nói
và nghĩa..., trong thơ, biến đổi vô cùng”. Ibert coi
trọng tầm bao quát: “Nhà thơ bây giờ
không phải là một kẻ mơ mộng, cũng chẳng phải là nhà phù thủy... Phạm vi quan
tâm của y gồm một khoảng bao la của thực tại mà mọi thành phần đều được nhấc
lên cùng một hàng, hạt nguyên tử cũng như tảng đá, bông hồng cũng như biển cả”...
(dẫn theo cuốn : “Những bậc thầy văn
chương thế giới tư tưởng và quan niệm, Lê Huy Hòa, Nguyễn Văn Bình soạn,
nxb Văn học, 1995)”. Những quan niệm như trên là đúng hay sai, bởi còn có một
quan niệm khác nữa, theo G.Chirico, thơ bất tử phải là thơ không lệ thuộc
một điều gì cả: “Muốn sáng tạo được một
tác phẩm bất tử thì phải vượt trên mọi giới hạn của người thường, ở đó không có
lương tri, không lý luận” …
Chỉ
điểm sơ qua vài nét vậy thôi, cũng đủ thấy bài toán giá trị thơ ca quả nan
giải. Vậy chúng ta, những người đang sống cảm nhận thế nào trước những quan
niệm muôn hình vạn trạng của tiền nhân? Trước hết, tôi thấy những quan niệm ấy
nhắc ta rằng, bất cứ một sự đánh giá nào không đắn đo thận trọng, không suy xét
cân nhắc, không xuất phát từ tri thức học thuật, chỉ bằng cảm tính cá nhân, sự
yêu thích cá nhân, với một sự hiểu biết hời hợt, cách nhìn thiển cận, một cảm
quan già nua, xơ cứng, chưa kể đến những ý đồ xấu, những thành kiến cổ lỗ và
thói tự phụ kẻ cả,... sẽ trở thành một sự thô bạo ngốc nghếch và khệnh
khạng vô lối.
Do
hoàn cảnh lịch sử, thơ ca nước ta đã chịu ảnh hưởng nhiều nguồn. Hàng ngàn
năm, ông cha chúng ta không chỉ ảnh hưởng mà còn rập khuôn hình thức thơ Đường,
nó còn được dùng làm chuẩn mực trong các kỳ thi; sự ảnh hưởng lớn thứ hai là
thời thơ mới chịu ảnh hưởng thơ lãng mạn, thơ tượng
trưng Pháp; giai đoạn những năm kháng chiến chúng ta sáng
tác theo trào lưu Hiện thực xã hội chủ nghĩa, ảnh hưởng văn học Liên xô và
Trung quốc (đặc biệt là Liên xô).
Theo
Trần Đình Sử (Cuốn Lý luận và phê bình văn học, nxb Hội Nhà Văn, 1996),
ở Trung Quốc thời gian gần đây đã có sự đổi mới mạnh mẽ, chính Đặng Tiểu Bình
tuyên bố không tiếp tục sử dụng nguyên lý “Văn nghệ phụ thuộc chính trị nữa”,
bởi “lợi ít hại nhiều”. Mà trở lại theo đúng nguyên lý của Chủ nghĩa
Mác, văn nghệ và chính trị cùng là các hình thái ý thức xã hội, chúng
tác động lẫn nhau chứ không phụ thuộc nhau, mà chỉ phụ thuộc cơ sở hạ
tầng. Văn học cách mạng không còn là cái loa tuyên truyền, là loại văn
chương “tươi sáng đi lên”, “con người mới cuộc sống mới” nữa, mà
là văn học: “thống nhất ba mặt: Tính xã hội, tính chân thật và tính cầu
tiến bộ”, coi “phản tư” là quy luật, văn học luôn phải tự
nhìn mình sao cho luôn có sự phản ánh hiện thực sâu sắc, toàn diện và đúng đắn
hơn.
Cũng
theo Trần Đình Sử (sách đã dẫn), ở Liên-xô (cũ) cũng từng nhìn nhận lại phương
pháp Hiện thực xã hội chủ nghĩa, và nhận thấy, nó chịu chi phối quá
nhiều bởi chủ nghĩa Quan liêu giáo điều, nên đã có những nhược điểm
lớn.
Trong
một bối cảnh như vậy, chúng ta không thể không đổi mới văn chương, đổi mới thơ
ca. Bởi trước hết, bản chất của sự sáng tạo là đổi mới. Chúng ta có thể vẫn
sáng tác theo thi pháp thơ Đường, thơ lãng mạn, thơ lục bát khi một nội dung,
một cấu tứ cần hình thức ấy. Nhưng rõ ràng, sự câu nệ hình thức tất dẫn đến sự
gò bó ý tưởng. Có khi chỉ vì sự bắt vần mà ý tưởng bị lắp ráp một cách khiên
cưỡng, sống sượng. Bản năng thẩm mỹ cơ bản của con người là không đổi. Nhưng
khi cuộc sống thay đổi, nền văn minh phát triển, trí tuệ, trí thông minh của
con người thay đổi, tất dẫn đến chuyện tư tưởng, tình cảm cũng sẽ thay đổi
theo, sẽ phong phú hơn. Niêm luật cứng nhắc gò bó của thơ Đường, của những thể
thơ cố định, dường như không thể chứa đựng nổi sự thay đổi ấy. Mối quan tâm của
thơ lãng mạn rõ ràng chỉ mới ở một khoảng rất hẹp của tình yêu riêng tư, chưa
thể hiện được toàn bộ những tình cảm, những tâm trạng, những suy tư lớn lao và
phong phú của con người. Ngoài chuyện yêu đương, con người cũng còn say mê
nhiều thứ khác nữa; và quan trọng hơn hết, muốn có nhớ nhớ thương thương, muốn
say mê này nọ, người ta phải tồn tại đã, và như thế, con người buộc phải có
những mối quan tâm thiết thực hơn chuyện yêu đương. Có sự tương đồng giữa sáng
tạo khoa học tự nhiên với sáng tạo nghệ thuật. Sáng tạo khoa học nhằm tìm kiếm
những lý thuyết đúng đắn hơn giải thích thế giới, đưa ra những phương thức
sản xuất mới, còn sáng tạo nghệ thuật, ở các cấp độ khác nhau, là nhằm đưa ra thi
pháp mới, phản ánh sâu sắc và toàn diện hơn đời sống tinh thần cũng càng ngày
càng phong phú, phức tạp hơn của con người. Chân lý của khoa học không thay đổi
nhưng ý thích về cái đẹp của tâm hồn con người thì thay đổi. Vì vậy, đổi mới
sáng tạo nghệ thuật là tất nhiên.
***
Thơ ca Cách mạng là một nền thơ đã đạt được nhiều thành tựu, có một bước tiến nhảy
vọt khi tiếp cận được hiện thực đời sống phong phú. Nó có những
phẩm chất, tầm nhìn, mà thơ thời trước không thể có được. Từ không gian nhỏ hẹp
của tâm trạng, tình cảm cá nhân chuyển sang một không gian lớn lao của tình yêu
quê hương, đất nước, tình đồng chí đồng đội; từ sự buồn đau của tình cảm
riêng tư, sự lo lắng mưu sinh cho gia đình đến những sự trăn trở, suy tư lớn
lao về vận mệnh của cả dân tộc. Hai cuộc kháng chiến vĩ đại đã sinh ra nhiều
thế hệ làm thơ. Thơ họ không chỉ là thơ mà còn là một sức mạnh góp phần
làm nên chiến thắng vĩ đại, nên có một diễm phúc mà không một giai đoạn nào có
được. Nó đã được nghiên cứu rất kỹ, được ưu tiên tuyên truyền ca tụng, được
trích giảng nhiều trong các trường học, có khi còn là đề tài cho những luận án
cao học, tiến sĩ. Nó đã đạt được nhiều thành tựu, tạo được nhiều ấn tượng, bởi
đã được phôi thai, sinh nở từ trong máu và mồ hôi của chiến hào. Không biết
trên thế giới đã có một nền thơ nào mà mọi suy nghĩ, mọi công việc, mọi sinh
hoạt, mọi sự vật, mọi không gian, mọi thời gian... của cuộc sống con người đều
được biến thành thơ như vậy không? Phạm Tiến Duật biến ý nghĩa việc sáng
đèn tắt đèn, chuyện xe có kính không có kính; Nguyễn Khoa Điềm với nhịp
chày giã gạo; Hữu Thỉnh một chuyến đò, chuyện
ngồi ăn cơm... và vô vàn vô vàn chuyện to nhỏ khác nữa, tất cả, tất cả đều
trở thành thơ. Hà Minh Đức đã viết về điều này: “Cái kho vàng mười của cuộc
sống ánh lên sắc đẹp rực rỡ trong thơ” (Theo cuốn Thơ và mấy vấn đề
trong thơ Việt Nam hiện đại, nxb Giáo dục, 1997). Hai tình cảm lớn
nhất thời kháng chiến chính là niềm xúc động và tự hào đã được
phản ánh trong thơ. Cả nước chia ly. Sự chia ly làm cho những điều dù vụn vặt nhất: một
lá thư, một tấm ảnh, những kỷ vật còn lại của người lính hy sinh,...
tất cả đều trở thành thiêng liêng. Cuộc chiến quá gian khổ, quá ác liệt, quá
nhiều mất mát hy sinh, đường đến chiến thắng quá khó khăn, trở thành lý tưởng
cao cả, nên mỗi hành động, mỗi suy nghĩ, mỗi tình cảm của người lính chốn hiểm
nguy đều có thể làm rung lên được những nỗi xúc động của mọi người.
Nếu
phải chọn vài câu đột biến, vươn cao hơn cách cảm, cách nghĩ, cách biểu đạt
thông thường, đồng thời lại nói lên được cái tinh thần của thời đại một
cách sống động nhất. Tôi thấy hai câu thơ của Nguyễn Đình Thi:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây
thép gai đâm nát trời chiều
có
thể là tiêu biểu cho thơ ca thời chống Pháp; và những câu của Lê Anh Xuân:
Anh chẳng để lại gì
cho riêng anh trước lên đường
Chỉ để lại cái dáng- đứng- Việt-
Nam
tạc vào thế kỷ
cũng
là những câu tiêu biểu cho thơ ca thời chống Mỹ.
***
Nhưng
thơ kháng chiến đã hoàn mỹ chưa? Nếu coi nó như một đối tượng khảo sát trong
dòng chảy chung của sự phát triển, tôi nghĩ, nó cũng như tất cả mọi sản phẩm
sáng tạo của trí tuệ con người đều không có gì là hoàn mỹ cả. Tác giả Trần Mạnh
Hảo trong “Thơ phản thơ” viết: “Mấy chục năm vừa qua, người ta đã
đồng hóa thơ với các khẩu hiệu tuyên truyền, người ta đã chất lên cái lưng vốn
không lấy gì mạnh mẽ của thi ca đến tám mươi phần trăm nhiệm vụ của một nền văn
nghệ phục vụ chính trị” (tr 8). Ý kiến trên đây là cực đoan, nhưng
không hoàn toàn sai. Do hoàn cảnh chiến tranh, văn nghệ cũng như mọi mặt của
cuộc sống phải phục vụ cách mạng là một yêu cầu tất yếu; câu khẩu hiệu “Tất
cả cho tiền tuyến, tất cả cho chiến thắng” không chỉ là nhiệm vụ mà còn là
lý tưởng, là lẽ sống; chính vì thế văn nghệ mới có quyền tự hào là đã có góp
phần làm nên thắng lợi vĩ đại. Và cũng vì thế, văn chương đã phải hy sinh một
phần vẻ đẹp của mình cho cách mạng, giống như việc những nghệ sĩ tạm gác lại
những bộ xiêm y lộng lẫy, những nước hoa son phấn, những gì đài các để khoác
lên mình bộ quân phục màu xanh cây lá cho phù hợp những chuyến biểu diễn
phục vụ ở chiến trường. Nét chính của yêu cầu văn nghệ phục vụ cách mạng chính
là tinh thần lạc quan được thể hiện trong văn chương. Bao trùm lên tất cả là
cái tứ chung “Dù đêm đen ngọn lửa vẫn sáng”; rồi không chỉ “tiếng hát”
mà cả “tiếng cơm sôi” ở chiến trường cũng “át tiếng bom”... Mặt
khác, cũng do hoàn cảnh chiến tranh, người sáng tác không thể có điều kiện để
trang bị đầy đủ về tri thức nói chung và về lý luận sáng tạo nói riêng, nên
tinh thần và lòng nhiệt tình sáng tác rất cao nhưng ý thức về tính sáng tạo còn
hạn chế. Những tác phẩm được sáng tác chủ yếu theo xúc cảm và năng khiếu thiên
bẩm, theo kiểu “chộp được một cái tứ” rồi triển khai, hoặc diễn đạt một trạng
thái tình cảm nào đó. Nhiều bài thơ được làm theo kiểu diễn tả một chuyện gì
đấy để nói lên một ý nghĩa gì đấy, ý nghĩa đơn tuyến, ít dụng công, ít có sự
thiết kế một cấu trúc mạng liên tưởng để mở rộng biên độ của ý nghĩa; chưa dụng
công trong việc biểu đạt ý tưởng mà thường nói trực tiếp. Bằng tất cả sự thận
trọng, tôi cho rằng, ý kiến đánh giá sau đây là khách quan: Làm nên giá
trị thơ kháng chiến, ngoài tài năng các nhà thơ, một phần còn do
chính cuộc kháng chiến, bởi chính cuộc kháng chiến là
một cái tứ lớn, đã làm “giá đỡ” cho tất cả các khoảnh khắc,
những lát cắt của hiện thực trở thành những cấu tứ
độc đáo. Một chuyến xe không kính ở giữa chiến trường có
thể là một tứ thơ độc đáo cho Phạm Tiến Duật, nhưng nó không có ý nghĩa gì nếu
chỉ là chuyến xe chở cát xây nhà ở thời bình này. Rất nhiều nhà thơ kháng
chiến, trong ác liệt, trong khó khăn, trong thiếu thốn lại làm thơ dễ dàng;
nhưng trong thời bình, viết về thời bình lại quá khó khăn. Gần như không ai có
tác phẩm viết về thời bình có thể so được với thơ viết về cuôc kháng chiến của
chính họ. Như vậy, có phải chính cuộc kháng chiến vĩ đại đã viết hộ cho họ một
phần chăng? Sự sáng tạo về ngôn ngữ, những câu thơ “hay,
lạ, độc đáo” mà tác giả Trần Mạnh Hảo đã chọn ra trong hai bài “Có một thời
đại thơ ca” trong “Thơ phản thơ”, thực tế không nhiều. Có
những nhà thơ cả đời có khi chỉ lọc ra được vài câu thơ độc đáo. Có
một điểm yếu khác của thơ kháng chiến mà người ta thường nói. Cuộc sống
của con người được phản ánh trong thơ chỉ phong phú ở bề rộng, bề nổi;
nhưng chưa khám phá trọn vẹn bề sâu. Cũng Trần Mạnh Hảo trong “Thơ phản thơ”
viết: “Suốt một thời, người ta không cho phép thơ được buồn, được đau, được
cô đơn và được chết” (tr 8); rồi: “Nền-thơ-lộ-thiên-ham-vui của chúng
ta…”(tr 9). Nhận xét trên đây cũng có phần nào cực đoan. Nhưng quả thực thơ
ca kháng chiến của ta còn: Nhiều ta ít tôi; có buồn nhưng ít đau; có
đau nhưng ít khổ; có ước muốn nhưng thiếu thèm khát; có thèm khát nhưng thiếu
si mê; có dũng cảm nhưng không sợ sệt; nói nhiều đến chiến thắng mà ít
nói đến thất bại... Mỗi tâm trạng cá nhân, mỗi nỗi đau chưa được “nguyên
chất” mà thường được phủ lên một một lớp hào quang của tinh thần lạc quan, nên
có phần giảm đi tính chân thực.
Về
thi pháp thơ kháng chiến, ngoài những tác phẩm của những tài năng độc đáo, bút
pháp tả thực có phần bị lạm dụng. Bản chất của thơ ca không chỉ phản ánh hiện
thực, mà quan trọng hơn, là cách thức phản ánh như thế nào: hình thức hay nội
dung, hiện tượng hay bản chất, cái logic thô sơ hay logic biện chứng…? Bởi chỉ
để “sao chép” lại hình ảnh cuộc sống thôi, thơ không thể bằng sử; kể một câu
chuyện, thơ cũng không thể bằng văn xuôi. Vì dùng nhiều cách nói trực quan, ít
tính tượng trưng nên thơ kháng chiến ít khơi gợi; ví von còn gần mà ít lạ, rất
nhiều câu không phải là thơ “điệu nói” mà là thơ “lời nói”...
Nhiều bài thơ lạm dụng sự kể và mô tả, phải dùng quá nhiều chữ nhiều câu chỉ để
diễn giải một ý... Thơ dễ hiểu quá, phải dùng nhiều công sức để nói những điều
hiển nhiên, có ý gì nhà thơ bộc bạch hết ngọn ngành, không cất giấu điều gì nên
người đọc không cần phải khám phá gì. Đọc một lần là biết hết không có nhu cầu đọc
lại. Nhiều câu thơ có thể có nghĩa bóng nhưng chưa phải là cài đặt những ý nghĩa
tiềm ẩn. Có những câu thơ đẹp đẽ chứ chưa phải là vẻ đẹp của sự sáng tạo. Có
những ý thơ khiến người ta tâm đắc chứ chưa buộc người ta phải suy tư.
***
Thơ
ca sau giải phóng 1975 đã trải qua một giai đoạn hơn hai mươi năm, một
thời gian đủ dài cho các nhà “thơ mới” và các nhà “thơ kháng
chiến” làm hai, ba cuộc cách mạng thơ và tạo ra trùng điệp
các thế hệ nhà thơ. Chính các nhà thơ chống Mỹ cũng vẫn là một bộ phận quan trọng
của đội ngũ sáng tác của giai đoạn này, bởi năm 75 người lớn nhất cũng mới
ngoài ba mươi tuổi. Nhưng các nhà thơ đã làm nên được gì ở giai đoạn dài dằng
dặc này? Khi các nhà thơ chống Mỹ đang ở độ tuổi chín nhất, sung sức nhất, còn
các thế hệ sau đa phần được học hành cẩn thận, điều kiện sáng tác cả khách quan
lẫn chủ quan đều thuận lợi hơn, được trang bị đầy đủ hơn về tri thức cũng như
lý luận sáng tạo?
Ta
hãy xem thử sự đánh giá thơ ca giai đoạn này qua những ý kiến của một số nhà thơ,
nhà phê bình thuộc những thế hệ sáng tác khác nhau trong một cuộc thảo luận
trên báo Văn nghệ khoảng đầu những năm 1990: “Thơ... gần đây chỉ nặng về thơ
tình và loại thơ vô thưởng vô phạt. Thảng hoặc có đôi bài viết về thời cuộc thì
cũng quá mờ nhạt” (Trinh Đường); “Người ta cứ tưởng thơ đích
thực là phải xoáy vào nỗi đau, những nỗi buồn” (Nguyễn Bùi Vợi); “Thơ
trên báo Văn nghệ có một điều mừng là đã mở ra, xòe ra (như những cái nan quạt)
một cách rất rộng” (Ngô Quân Miện); “Trữ tình tủn mủn”
(Bằng Việt); “Chưa có một bài thơ nào về các diễn biến thời sự đang xảy ra
trên thế giới. Thơ hầu hết bàn về cá nhân, chúng ta đang rất cũ, cần nghiêm
khắc hơn” (Phạm Tiến Duật); “Thế nào là thơ hay hình như bây
giờ cũng trở nên ù xịa, lẫn lộn lung tung” (Hoàng Cát); riêng anh Trần Mạnh
Hảo có chú ý đến thi pháp, đổi mới thì viết: “Các nhà thơ gân cổ, xoạc cẳng
thi nhau ném lên nền thơ tất cả chai lọ của lý trí, tất cả cát đá của ngôn từ.
Nhưng họ chỉ đạt được những lời nói chứ không phải những câu thơ” (Trần Mạnh
Hảo) v.v... (Dẫn theo Tư duy thơ & tư duy thơ hiện đại
Việt Nam, Nguyễn Bá Thành, nxb Văn học, 1996). Trong những năm gần đây, khi
điểm tình hình một năm văn chương, người ta cũng thường đánh giá tương tự vậy;
đặc biệt có Trần Đăng Khoa, một mặt khen thơ của lớp mới bây giờ nhan nhản trên
báo tường, báo hàng ngày những bài ngang bằng hoặc còn hay hơn những bài thơ
từng là “sự kiện văn học”, “cột mốc ghi dấu thời đại”
của thời gian trước như: Thăm lúa, Lên miền Tây, Bài ca vỡ đất;
nhưng lúc khác Khoa lại cho thơ bây giờ là “không có gì”, là
“khủng khoảng”...
Một
điều tôi cảm thấy hơi ngồ ngộ là những nhận xét của những nhà thơ trên đây như
những nhận xét của người ngoài cuộc, cứ như họ đã hoàn thành xong sự nghiệp
rồi, quên rằng chính mình cũng là một đối tượng. Còn các ý kiến trên có vẻ ai
cũng đúng cả, nhưng chúng chỉ như việc ông xẩm nhận dạng voi mà thôi, bởi
thơ bây giờ quá nhiều, có ai mà đọc hết được, ngay đến cả nền phê bình cũng còn
chưa vẽ ra nổi chân dung cụ thể của nó nữa là.
Cũng
trong cuộc hội thảo trên, tôi thấy nhà thơ Hữu Thỉnh là người đánh giá đúng
nhất: “Thơ đang mở ra nhiều hướng nhiều cách. Nắm bắt thơ hiện nay như nắm
bắt một mục tiêu đang di động, đang bay lên trời: Thơ chưa định hình, đang phát
triển”; rồi: “Được giải phóng bởi những quan niệm hẹp hòi và khô cứng,
họ không còn quá băn khoăn tôi hay là ta, hiện thực hay không hiện thực, họ chỉ
mải mê ghi lại những chấn động đột ngột của tâm hồn, đắm mình trong
dòng chảy của cảm xúc, cứ như thế càng trọn vẹn và hoàn hảo bao nhiêu càng thơ
bấy nhiêu… Xu hướng chung của sự chuyển mới này là đi tìm cách biểu cảm hiện
đại của thơ, dồn nén thông tin, ham bày tỏ, ít so sánh trực tiếp, nhiều liên
tưởng ngầm, dồn sức cho cốt trục, tăng trực giác lẫn ngẫu nhiên, câu thơ co
duỗi tự do, đóng mở linh hoạt, hình ảnh táo bạo, có khi chói gắt, ít vần...
tránh dềnh dàng, lao ngay đến cái ý tưởng và khỏe, ngay ở thơ các bạn gái nhiều
bài cũng rất khoẻ” (Sđd).
Theo
tôi, thơ giai đoạn sau 1975 đến nay có mấy khuynh hướng
:
Thứ
nhất là khuynh hướng chiếm đa số, có đến khoảng 90% các nhà thơ vẫn sáng
tác theo thi pháp thơ chống Mỹ. Những nhà thơ đã thành danh trong kháng chiến
viết tiếp những điều đã trải nghiệm trong chiến tranh và cũng mở tầm nhìn sang
những hướng khác trong cuộc sống hiện tại, nhưng thành công của họ vẫn chủ yếu
là thơ viết trong giai đoạn kháng chiến và thơ viết về kháng chiến, còn những
mảng khác cũng có thành công nhưng không thể so sánh được. Nhiều thế hệ kế tiếp
nhau sau 1975 cũng sáng tác theo cha anh mình, chỉ mở rộng một chút tâm tư tình
cảm riêng tư và đối tượng phản ánh, nhưng do vốn sống hạn chế,
nên tác phẩm của họ không thể so sánh với thơ của lớp cha anh được. Nếu coi
sự phản ánh hiện thực theo cách nhìn của chủ nghĩa duy vật cũ làm nguyên lý
chính cho sự sáng tạo, các nhà thơ thời bình sẽ bị mất đi nhiều lợi
thế. Thời bình không có sự hy sinh như trong chiến tranh; đói khổ cũng không
đói khổ bằng; có thể có xa nhau nhưng không biền biệt, ngăn cách; nỗi nhớ thời
bình chỉ là nỗi nhớ mà không có trong đó sự khắc khoải, sự âu lo còn mất. Thời
bình cuộc sống ít kịch tính, ít khả năng tạo cấu tứ cho thơ. Như trên đã nói,
trong chiến tranh một sự việc, một hành động, một vật dụng cũng có thể là chất
liệu sáng tạo, có thể gợi nên bao cảm xúc, nhưng trong thời bình các nhà thơ không
tài nào làm được vậy, nếu cố làm, cũng không thể làm ai xúc động
được.
Có
một nhóm nhỏ có ý thức đổi mới thơ quyết liệt, thuộc lớp “lão làng”, họ muốn
làm ngược lại hoàn toàn thơ kháng chiến. Có thể họ làm từ trước, gần đây mới có
điều kiện công bố. Phần nhiều họ biết tiếng Pháp, nên ảnh hưởng rất rõ thơ tượng
trưng cực đoan và trường phái Đađa, coi ngôn
ngữ không phải là công cụ biểu đạt mà là mục đích biểu đạt,
có khi biến thi pháp thành trò chơi sắp chữ, trộn chữ, ngôn ngữ bị bóp vụn, thơ
ca chỉ là những mảnh ý nghĩ, những mảng vỡ của ngôn ngữ, hoặc thậm
chí chỉ là những mảnh âm tiết ghép vào nhau khấp khểnh, kiểu như :
a
e ou o youyouyou I e ou o
you
you you
drrrdrrdrrrgrrrgrrr
(Thơ dẫn theo Hà Minh Đức, Thơ và mấy vấn đề trong
thơ Việt Nam
hiện đại).
Ngoại
trừ những chỗ phóng túng quá đáng và việc phong thánh cho nhau tương đối
thoải mái, tôi thấy cũng không sao. Nhưng nếu ngộ nhận, coi chỉ thơ như mình
mới là sáng tạo, mới là cao siêu nhất sẽ không có lý. Thứ nhất, nếu coi sự kín
mít là một đặc tính cao siêu, là mục tiêu để phấn đấu thì không thể còn có loại
thơ nào kín mít bằng thơ tượng trưng kín mít (Hermétique), khi
đi đến chỗ không tượng trưng cho cái gì nữa thì thơ tượng trưng phải
dừng lại. Thứ hai, nếu coi sự tự do, sự phá vỡ mọi quy tắc và mọi thuộc tính
ngôn ngữ của thơ ca, thì cũng không có loại thơ nào phá phách bằng thơ đa
đa, không có loại thơ nào kỳ dị bằng thơ siêu thực...
Vì vậy, ai đó muốn làm cách mạng thơ, muốn tạo ra được một giá trị mới, mà chỉ đi
sao chép theo con đường duy hình thức sẽ không có lối. Ngay trường
phái Đađa khi xuất hiện cũng chỉ để “phá phách” thôi
chứ không cần đến giá trị nghệ thuật; vì thế chủ nghĩa Siêu
thực mới ra đời, nó chính là “chủ nghĩa Đađa có lý luận”. Đó
chính là cái lý luận muốn tìm ra tính có lý của những cái phi logic, cơ sở
khoa học của những cái ngẫu nhiên, những bất định kỳ dị. Có thể với một phạm vi
nào đó, những bài thơ với những câu thơ lạ lùng kiểu như: “Trên cầu, giọt
sương có đầu mèo đưa đẩy như ru”(A.Breton); “Trong rừng cháy. Các
con sư tử thì mát tươi” (R.Vitrac);… sẽ gây ra được những ấn tượng
mạnh, những cú “sốc” nghệ thuật. Nhưng nếu cho nó là con đường duy nhất, chân
lý cuối cùng của nghệ thuật thì sẽ không đúng, bởi bản chất của sáng tạo là sự
thay đổi, giá trị của nghệ thuật cũng không chỉ là cái kỳ lạ. Vì thế, chủ nghĩa Siêu
thực đã không thể mãi tồn tại. Dù vậy, nó vẫn tác động mạnh đến thế hệ
sau bởi nó khuyến khích người nghệ sĩ mở rộng biên độ của trí tưởng
tượng, giúp người thi sĩ có cách nhìn phong phú hơn về hiện thực, là một trong
những phương thức biểu đạt làm cho thơ phong phú hơn.
Một
nhóm nhỏ các nhà thơ khác cũng có tinh thần đổi mới thơ như nhóm trên, nhưng
sung sức hơn, trẻ hơn, có học và tri thức rộng hơn, bởi đã tiếp cận cái mới,
cái hiện tại, cái đang chuyển động. Thơ họ kế thừa được những mặt tốt của thơ
giai đoạn trước, vươn tới một tầm cao, một trật tự mới chứ không đi tới sự hỗn
độn. Ngôn ngữ thơ của họ rất phong phú, đã phát huy triệt để một trong những
tính chất chủ yếu của thơ ca là tư duy hình tượng, rất nhiều hình ảnh hiện thực,
siêu thực, tượng trưng đan xen, chồng chất trong thơ họ, câu thơ có hình khối,
có bài thơ như những tác phẩm điêu khắc, đã mở ra những không gian nghệ thuật
nhiều chiều, gợi mở nhiều vẻ đẹp, nhiều ý tưởng, nhiều ý nghĩa. Hiện thực trong
thơ họ không phải là chuyện gì đấy, cảnh gì đấy mà là vấn đề nào đấy. Con mắt
họ đã nhìn xa hơn, rộng hơn, sâu hơn, nhìn thấy cái nhìn thấy và cả những cái
không nhìn thấy, nhìn sâu trong bản ngã và nhìn rộng ra tính nhân văn phổ quát.
Nhìn từ gia đình ra đến xã hội, từ lo âu của việc kiếm kế sinh nhai cho đến
những nỗi ưu tư trước những vấn đề lớn của thời đại, nhìn những sự việc độc
lập, riêng rẽ, cũng nhìn thấy cả cái chung. Hình thức thơ phóng khoáng, không
câu nệ, cởi bỏ niêm luật cho dễ thể hiện ý tưởng, tước bỏ rườm rà, không dẫn
chuyện, không nói điều thông thường ai cũng thấy. Thơ ca không chỉ tạo nên sự
xúc động, sự khoái cảm, sự tâm đắc mà gợi nên những suy tư, những trăn trở, ý
thức trách nhiệm lớn lao đối với đồng loại. Có những bài thơ đã đạt được tầm
cao ở chỗ không chỉ có những câu thơ, ý thơ triết lý mà tạo nên cả một một kết
cấu triết lý, thể hiện được những điểm mấu chốt, những quy luật cơ bản, những
mạch ngầm, những dòng chảy chính của tâm trạng, của sự vận động, phát triển …
Tiếc là chúng còn chưa được khuyến khích công bố, có được công bố
cũng chưa được thẩm định đúng mức và đúng đắn, chúng còn thường bị xếp sau
những dạng thơ đèm đẹp, véo von tầm thường. Cũng như mọi thời kỳ, những gì có
giá trị cao, những tài năng đọc đáo, những tác phẩm có giá trị lớn thường rất
ít, rất cần được thẩm định và công nhận một cách xứng đáng.
Có
điều cũng cần phải nói, trong các nhà thơ trẻ có những người rất có tài, ngôn
ngữ thơ kỳ ảo, cấu trúc hiện đại, nhưng do vốn sống còn hạn chế, khiến họ
có rất ít “vật liệu” tạo tác nên tác phẩm gắn bó với đời sống cụ
thể. Nhiều người không “quy hoạch” được ý tưởng, không đủ sức tạo những cấu tứ
riêng, nên thơ loà nhoà, nhiều bài thơ không cần phải có đầu đề, có thể nối
hoặc trộn lẫn vào nhau được, thơ rỗng.
Cũng
còn có một khuynh hướng cực đoan khác, đề cao cái vô nghĩa. Có người cho sự khó
hiểu là cao siêu nên cố gắng làm ra những bài thơ không phải khó hiểu mà không
có gì để hiểu. Họ dị ứng với việc phản ánh hiện thực, nên con mắt không
nhìn xa khỏi bản thân mình, trong thơ toát lên sự bế tắc, không phải của
xã hội mà của chính bản thân mình.
***
Về phê
bình, định dạng và tiếp nhận. Đã hơn hai chục năm trôi qua, dù được in
ra nhiều, nhưng thơ sau 1975, không chỉ của những người mới xuất
hiện mà của cả những người từng có danh tiếng cũng không nổi đình
đám gì, dù có được trao giải này nọ. Bởi xã hội phát triển, người ta có nhiều
phương tiện giải trí quyến rũ hơn. Mặt khác, độc giả cũng thông minh hơn, mật
độ trí thức đông hơn, xã hội cũng có nhiều loại giá trị khác được đề cao; người
ta ai cũng có nhiều ước vọng, họ cũng bận làm sang, làm giầu, bận đi chinh phục
người khác chứ đâu có thời gian để cho các nhà thơ chinh phục mình. Một giá trị
mới của thơ ca hôm nay đến được với mọi người là rất khó khăn. Xưa, trong đêm
tối, một con đom đóm cũng tỏa ra được cả một quầng sáng, còn nay, trong thời
đại rực rỡ ánh điện này, có là vầng trăng tết trung thu cũng khó mà huyền ảo,
lung linh được … Trái lại, người ta lại rất khó thay đổi sự khâm phục đã thành
thói quen. Những gì là kỷ niệm, được khắc sâu trong ký ức thường khó phai mờ.
Chúng ta cần phải luôn tôn vinh những thành tựu của cha anh, nhưng nếu đề cao
những cái giản đơn, lạc hậu sẽ là điều không nên, bởi sẽ làm chậm sự phát
triển; cũng như cứ mãi bị lóa mắt người ta sẽ chẳng còn nhìn thấy được gì
khác nữa. Cách nhìn của khoa học không phải như vậy.
Sự
thẩm định thơ ca hôm nay còn rất nhiều điều phải bàn. Còn rất nhiều mâu thuẫn ở
nhiều phương diện khác nhau, nổi cộm nhất là những sự phân định giữa: cũ
và mới, thấp và cao, hay và dở, … Đã xuất hiện những cặp đối cực
về thái độ: giữa trì trệ và hãnh tiến, giữa xổ toẹt và tán dương.
Có như vậy, phần nhiều do cái nhìn cảm tính, không xuất phát từ cái nhìn của
khoa học, của lý luận, mà lý luận văn chương hiện đại lại càng ngày càng phong
phú phức tạp hơn. Đã có nhiều sự thẩm định không từ văn bản mà từ vô vàn điều
phi học thuật nên dẫn đến sự đánh giá không công bằng. Có thể do thái
độ và cũng có thể do trình độ. Sự phê bình cũng chưa toàn diện, nhà phê bình
không phải cứ thấy hay là khen và dở là chê. Dường như giá trị văn chương thời
nay không chỉ là giá trị văn chương mà còn liên quan đến nhiều thứ. Có người
nói phê bình không có hiệu lực thì chẳng ai muốn phê bình nữa. Có một thực tế,
có những trình độ yếu kém lại có điều kiện được yếu kém, những cái dở thì dễ
dàng nằm thẳng đuột trên báo, trái lại, những cái hay, cái sắc sảo, cái giàu
tri thức lại không được quyền tỏa hương. Có không ít người viết phê
bình không cần đến học thuật, lý luận; trình độ thấp và tầm nhìn hạn hẹp,
có nhiều đánh giá sai, lại rất dễ được công bố, rồi còn được tán dương nữa. Vì
vậy, điều cần làm là phải tạo ra cho được một sự công bằng trong việc công bố
và đánh giá tác phẩm, muốn vậy phải dân chủ hơn nữa trong việc đăng tải. Trong
sự đổi mới chung đầy sôi động này, dường như sự dân chủ của diễn đàn
văn nghệ thường bị tụt hậu so với nhiều lĩnh vực khác trong xã hội. Nhà nước
chủ trương mở cửa nhưng cách nhìn của nhiều người làm văn nghệ còn hạn hẹp.
Người ta luôn kêu là văn chương hôm nay “không có gì”, nhưng những tác
phẩm “có cái gì” lại rất khó đăng, dù hoàn toàn không phải là tác phẩm
thuộc dạng nguy hiểm hay độc hại gì. Những sáng tác của tôi phần nhiều bị như
vậy.
Bản
thân cũng là một người làm thơ, ban đầu tôi viết phê bình chủ yếu để bày
tỏ những quan niệm. Vốn là người làm công việc nghiên cứu khoa học tự nhiên,
tôi rất hiểu làm thơ nghĩa là phải sáng tạo, mà đã là sáng tạo, tất phải làm ra
được những cái mới lạ, nếu không, anh chưa làm được gì cả. Có điều trong thực
tế, lại thường có cái mới lạ có giá trị và cái mới lạ vô giá trị. Đã vậy, người
ta lại hay nhận xét bằng cảm tính, nên thường có những đánh giá trái ngược
nhau. Chính vì thế, tôi đã đi sâu tìm hiểu tri thức lý luận nhiều lĩnh vực, để
mong sao có được một cái nhìn đúng đắn hơn. Tôi nhận thấy, trong lịch sử phát
triển có hai khuynh hướng chủ yếu đã chi phối sự sáng tạo thơ ca, đó là: sự
phản ánh chủ quan và sự phản ánh khách quan, xuất phát từ hai nền tảng
triết học: vô định luận và quyết định luận. Và,
tất cả những sự cực đoan, đối lập với bản năng thẩm mỹ của con người, đều không
tồn tại dài lâu; tất cả những sự sáng tạo, dù thế nào, cũng không thể
không gắn bó với tư tưởng và tình cảm của con người.
Tôi
cũng là một người làm thơ. Những bài thơ đầu tay của tôi đã được chính Nhà thơ
lớn Chế Lan Viên đề nghị trao giải trong cuộc thi thơ của Hội Nhà Văn TPHCM năm
1986. Để không nói suông và những những lý lẽ của tôi ở trên dễ hiểu hơn, tôi
xin nói đôi nét về chính cách làm thơ của mình. Tôi không biết mình đã đạt được
hiệu quả thế nào, nhưng khi viết, tôi luôn cố gắng tìm kiếm những cái riêng.
Tôi luôn tăng cường tính ấn tượng của ngôn ngữ thơ ca bằng cách trộn lẫn hình
ảnh của tự nhiên với sự lạ hóa, biểu tượng hóa, để biểu đạt những ý tưởng, và
luôn cố gắng tìm kiếm những cấu tứ độc đáo, có khả năng triết lý về một vấn đề,
một quá trình nào đó của cuộc sống. Nhìn những ngọn núi, tôi muốn biểu đạt về
sự bất động, sự dừng lại: “Những ngọn núi ngồi xếp chân bằng tròn che đậy sự
bất an”; nhìn những ngôi nhà san sát trong thành phố, tôi muốn biểu đạt về
sự tham vọng không cùng của con người: “Những ngôi nhà chen chúc xô đẩy dưới
bầu trời thành phố/ Ai cũng muốn thiết lập một thế giới lớn hơn thế giới mình
có/ Ai cũng muốn với tới một tầm cao cao hơn tầm với mình có/ Những ngôi nhà
kiễng chân đứng bên nhau”; về hành trình của mỗi cuộc đời tôi viết: “Những
ngọn núi tự leo dốc của mình”… Tôi cũng muốn viết được những
câu thơ có khả năng khái quát, muốn chỉ với lượng câu chữ nhỏ nhất, lại có thể
biểu đạt được rõ nét nhất, đầy đủ nhất những điều chủ yếu nhất của cuộc sống:
về lịch sử bi hùng đầy nghèo khó và thương đau của đất nước, bởi thiên tai, bởi
chiến tranh, tôi viết: “Tổ quốc, có phải bão giông của thời gian hay của đất
trời đã thổi cong cả dáng hình của mẹ ?”; “Dòng sông lịch sử quanh co
mang trên mình đầy thương tích/ Băng qua những mảng thời gian bị băm nát/ Những
thiên kỷ bị cháy sém/ Những thế kỷ bị chặt khúc/ Chẳng ngừng trôi”. Và
để đạt được sự sáng tạo, tôi không thể không dùng sự lạ hóa. Hồi sang Liên xô
(cũ), trong cái lạnh âm 250, tôi nhớ nhà tôi, nhớ đứa con gái hai
tuổi đến đau tim, và nghĩ, nỗi nhớ của mình muốn về được đến Sài Gòn nó phải bị
“cong” đi, nên viết : “Anh xa em gần nửa vòng trái đất/ Nỗi
nhớ cũng cong theo dáng Địa cầu”. Cũng với cách cảm như thế, nó
cho phép tôi có thể “chạm” được cả vào nỗi cô đơn của mình: “Anh như
con thuyền lênh đênh sóng nước/ Nghiêng bên nào cũng chạm phải cô đơn”… Và,
khi đi lang thang trên quê, tôi thấy mình như cũng có thể va được cả vào
đêm: “Ta lại một lần lang thang trên quê/ Va cả vào đêm đặc quánh”, v.v…
Vậy,
tóm lại, nói một cách chung nhất, đường đi của thơ sẽ như
thế nào?
Điều
này người ta cũng đã bàn nhiều, kể cả sáng tác để thể hiện, nhưng thống nhất
với nhau ở cấp độ chung nhất cũng chưa được, còn nhiều mâu thuẫn. Ai cũng nói
cần phải đổi mới, nhưng đổi mới như thế nào thì không biết. Có người còn thần
bí hóa con đường này, cho là quá khó khăn nên thơ tắc tị, không thể đi đâu được
nữa, có người thì cho là sáng tạo không có khuôn mẫu nên không thể biết được nó
như thế nào, nên cứ việc mà đi tìm thôi. Chính vì vậy đã dẫn đến tình trạng thơ
hiện đại không có chuẩn mực để đánh giá, còn lẫn lộn, rối như mớ bòng bong. Ai
cũng tự tin đưa ra quan điểm của mình, chọn ra theo ý mình những tác giả tài
năng nhất. Yêu thích là quyền mỗi người, nhưng trình độ khác nhau, người ta sẽ
yêu thích khác nhau. Nên người nào hiểu biết hơn sẽ có cái nhìn đúng đắn
hơn.
Theo
tôi, thơ ca là sản phẩm của con người, dù thời nào con người vẫn là con người,
với tất cả những thuộc tính về thể chất và tâm trí. Chỉ khác, thế hệ sau được
hưởng mọi thành quả của thế hệ trước cộng thêm những gì tự làm ra nên phải văn
minh hơn. Ta có thể khó so sánh các cá nhân tác giả, giá trị tác phẩm, “độ lớn”
ở các thời với nhau, nhưng vẫn có thể nói, thơ của thời đại văn minh thì nó sẽ
mang trong nó những tính chất của nền văn minh. Đó là biện chứng.
Sự
sáng tạo thơ ca thời hiện đại không còn là hình thức tự phát, chỉ từ một chút
năng khiếu thiên phú, từ chút khả năng bắt vần tả cảnh mà tạo ra được tác phẩm có
giá trị lớn, mà phải dựa trên không chỉ năng khiếu, mà còn trên cả một cơ sở lý
luận văn học, mỹ học, và hơn thế, còn trên cả một nền tảng tri thức của thời
đại, trong đó triết học là khoa học khái quát, là tri thức nền tảng. Thơ ca là
sản phẩm của trí tuệ con người nên nó cũng mang trong mình những thành tố của
một cơ thể sống, chịu sự tác động của những quy luật sống, nó được hình thành
và mang trong mình một sự cân bằng giữa tất định và bất định, giữa trật tự và
xáo trộn. Thơ ca nói riêng và nghệ thuật nói chung đã từng cực đoan, bị đẩy
hoặc về phía này hoặc về phía kia khỏi cái vị trí cân bằng ấy.
Con
đường đi lên của thơ ca, theo tôi đó là con đường: Vượt qua giới hạn
của những giới hạn; hoàn thiện những điều còn chưa hoàn thiện; bỏ đi những điểm
yếu của những cái cũ để xây nên cái mới chứ không phải đập nát cái
cũ; hướng tới cái mới là hướng tới cái năng động, cái phong phú, vươn tới một
tầm khác, trí tuệ hơn và có học hơn, hướng đến một trật tự mới chứ không phải
hướng tới sự hỗn lọan; đó là một trật tự không phải siêu hình cứng nhắc, duy lý
thô sơ, mà là trật tự biện chứng, mọt trật tự chất chứa trong nó những sự vận
động biến đổi. Công việc chính của sựđổi mới là sự loại bỏ những
nhàm chán, những thô sơ, những phiến diện, để tăng hiệu suất những ấn
tượng, để có thể chinh phục được tính thờ ơ ngày càng cao đối với thơ của con
người, làm nên những giá trị cao hơn. Trong công việc này, có khi cái
năng khiếu thiên phú lại là gông cùm của thói quen, còn chính trí
tuệ lại là bạn đường của sự thay đổi. Hiểu được này người ta sẽ đi
được xa hơn.
Về
nội dung, sự đổi mới thơ không đơn giản chỉ ở chỗ thay đổi góc nhìn: Từ
hướng ngoại chuyển sang hướng nội, từ chung sang riêng, từ vui sang buồn, từ
tốt sang xấu... mà đổi mới nghĩa là hướng tầm nhìn của thơ về tất cả. Về
hình thức, sự đổi mới cũng không chỉ đơn giản ở chỗ: Có vần hoặc không
vần; tối hay sáng; dễ hiểu hay khó hiểu… Cái nhà thơ cần làm là phải thiết
lập được một hình thức sao cho thi sĩ thể hiện tốt nhất cái riêng của mình,
tước bỏ những ràng buộc sao cho thơ vừa đạt được sự sáng tạo lại vừa có khả
năng biểu đạt có ấn tượng nhất, sâu sắc và toàn diện nhất cái thế giới sống
ngổn ngang này. Tất nhiên khi bỏ bớt đi những thuộc tính cũ, người ta phải tạo
ra được những thuộc tính mới phù hợp hơn, nếu không, thơ không còn là thơ nữa.
Từ
khi loài người sáng tạo ra chữ viết, một hình thức mã hóa đầu tiên, sự phát
triển của nền văn minh luôn đồng hành với sự phát triển của mã hóa. Các
tri thức trừu tượng hơn, phức tạp hơn, các thông tin cần được dồn nén hơn; để
thể hiện, lưu trữ hoặc sử dụng chúng, con người buộc phải thông qua các phương
thức đều có tính mã hóa. Chính bản thân loài người tồn tại và phát triển cũng
phải thông qua phương thức này, sự mã hóa gen. Nghệ thuật là một sự
biểu đạt, đã biểu đạt phải thông qua ký hiệu, đã là ký hiệu phải có tính mã
hóa. Vì vậy, sự mã hóa hoặc dạng này dạng kia, hoặc cấp độ này cấp độ kia, là
chuyện tất yếu của sự biểu đạt nghệ thuật. Riêng với thơ ca, sự mã hóa đó chính
là sự mã hóa ngôn ngữ, sự mã hóa những hình ảnh, những biểu tượng, những ẩn dụ…
Diễn tả trực quan một điều gì thì chỉ nói được riêng một điều ấy, nhưng thông
qua những biểu tượng, những ẩn dụ, ý nghĩa được mở ra nhiều chiều và cũng gây
được ấn tượng mạnh hơn. Chính trong quá trình này mỗi nghệ sĩ ít nhiều
thường có sự áp đặt võ đoán những ý nghĩa theo ý mình, và cũng chính vậy đã gây
ra sự khó hiểu cho người khác, sự khó hiểu của những bài toán. Trong thơ vịnh
của thơ cổ điển, trong thơ tượng trưng cũng có rất nhiều hình ảnh, nhưng mối
liên hệ với nghĩa của chúng thường đơn tuyến, hoặc theo quy ước thông lệ, hoặc
là liên hệ gần. Thơ hiện thực trong kháng chiến cũng có vô vàn hình ảnh được
các thi sĩ thổi hồn vào sống động, nhưng sự mã hóa dường như mới dừng lại ở cấp
độ như một thao tác tu từ chứ chưa thành phong cách biểu hiện.
Như
mọi lĩnh vực tri thức khác, thơ ca cũng đổi mới bằng cách kế thừa toàn bộ những
cái hay của người đi trước. Đó là tính hàm súc của thơ cổ, thơ tượng trưng;
tính bất ngờ kỳ lạ của thơ siêu thực; sự tinh tế của thơ lãng mạng;
tính phong phú, hoành tránh, chắc khoẻ, năng lực phản ánh của thơ kháng chiến…
Sự
sáng tạo là khó khăn, tài năng thực sự luôn hiếm hoi. Có lẽ rồi một bài thơ
hiện đại có giá trị do con người làm ra nhưng nó lại tồn tại khách
quan trước con người như bất kỳ một sinh vật sống nào; và một nhà phê bình
cũng phải như một nhà khoa học, không chỉ tiếp cận bài thơ bằng những tình cảm,
những cảm nhận bản năng, mà cũng phải tìm hiểu những bí mật cất giấu trong cái
cơ thể sống ấy, cũng phải khám phá những quy luật, những mối liên kết… làm nên
sức sống của nó. Nếu không thế, người ta không thể biết thơ hay là thế nào và
hành trình thơ ca về đâu.
Bình Thạnh 1-3-2000
Đã trích đăng Phụ san Văn Nghệ Quân đội số 51,
1999