Nhân
việc Nguyên Ngọc dùng văn học “chiếm ngôi” tôi lại nhớ đến bài tôi viết về
cuốn ngày Văn học lên ngôi của Đỗ Minh Tuấn. Hồi ấy Trần Mạnh Hảo và Đỗ Minh
Tuấn viết phê bình như đi vào chỗ không người, và hai ông này cũng choảng
nhau. Hai người này đều có khiếu văn chương nên môi mép biến báo ghê gớm.
Nhưng họ đều dở là không có tính khoa học, kể cả tri thức khoa học nhất là
khoa học tự nhiên. Mà rắc rối chính là ở chỗ tri thức khoa học tự nhiên lại
là nền tảng suy ngẫm của triết học, mà triết học lại là nền tảng của phê bình
lý luận văn chương. Chính vậy tôi đã thấy hai ông kễnh này sai tùm lum, rỗng,
nên đã “uýnh” cả hai.
Bài
này khi xuất hiện đã làm rung rinh cả giới văn chương Bắc Hà khụng khiệng. Tôi
đến TC Văn nghệ QĐ, ông Anh Ngọc bảo đang ăn cơm đọc “hay quá rơi cả đũa”,
Nhà văn Nam Hà ôm chầm lấy tôi: “Đông La đây à”. Bài viết đã được tặng thưởng
về phê bình của TC VNQĐ 1997.
Tôi giữ nguyên chỉ cập nhật đôi chút về lý tuyết
dây của vật lý hiện đại và những hiểu biêt mới.
|
VỀ CUỐN
“NGÀY
VĂN HỌC LÊN NGÔI”
(ĐỖ MINH
TUẤN, NXB VĂN HỌC, 1997)
(ĐÔNG LA hồi viết bài này)
Tôi luôn coi những cuộc tranh luận về học thuật
là những cuộc cãi vã sang trọng, hiểu sai hoặc đúng trong khoa học là bình thường, bởi tri thức thì
mênh mông, mà khả năng tiếp nhận của mỗi người rất hạn chế. Ngay những bộ óc
thông minh nhất của cả nhân loại cũng chỉ biết những gì mà họ quan tâm. Lịch sử
phát triển khoa học chính là lịch sử của
những phát minh không hoàn thiện, lịch sử của những kiểm chứng để thấy ra
những cái sai và những giới hạn. Để rồi: Cái không biết sẽ
thúc đẩy sự tìm đến cái biết, cái sai thúc đẩy sự tìm đến cái
hoàn thiện hơn … Đó là một hành trình vô tận.
Ngày
văn học lên ngôi là một tác phẩm dầy, tác giả có nhiều tham vọng đề cập
đến nhiều vấn đề văn học, nghệ thuật, triết học và khoa học, có tính nền tảng.
Vì vậy đọc cuốn sách này không dễ. Những người yếu bóng vía, nếu không được
trang bị một lượng kiến thức nhất định, rất dễ cho là quá cao siêu, không thể
tiếp cận, tất nhiên sẽ dẫn đến chuyện đúng sai thế nào cũng không biết. Quá trình tìm kiếm những phát minh luôn
vô cùng khó khăn, nhưng khi các nhà bác học nói lên những nét chung của những
phát minh của họ, diễn giải chúng, thì không phải quá khó khăn cho người tiếp
nhận. Huống hồ một tác phẩm phê bình văn học. Chỉ e rằng, vì không có một điều
gì mới, nên nói chung, người ta thường tung hỏa mù, tất sẽ làm cho người đọc khó hiểu. Mà không
hiểu thì đúng hơn, vì không có gì
thì sao hiểu ?
Trong
Ngày văn học lên ngôi, tác giả có đúng ở một số điều tất nhiên, những điều
thông thường; nhưng lại sai nhiều khi đề cập tới những tri thức
cơ bản, dẫn đến nhiều kết luận không
đúng.
Có
lẽ bài “Văn học cần bảo hiểm cho sự
thật lịch sử” có giá trị nhất trong cuốn sách. Nó có giá trị ở ý thức công
dân đối với sự nghiệp chung của dân tộc. Nó có ích trong tình trạng có lẻ tẻ
môt vài người có cách nhìn lệch về quá khứ. Một đôi chỗ tác giả cũng có
những ý kiến đúng tuy không mới: “Trong tư cách nhà khoa học và nghiên cứu
lịch sử cần có sáng kiến và thiên kiến cá nhân, nhưng không chấp nhận thành
kiến cá nhân. Khi tranh luận với
Nguyễn Hoàng Đức, tác giả cũng đưa ra được một số nhận xét thú vị: “Nét điển hình cho loại tư duy của
các nhà triết học này là sự tư biện rối rắm hóa những điều giản dị, sự hành văn
ngúc ngắc luẩn quẩn; rồi: “Đây là dấu hiệu lâm sàng của bệnh ngộ chữ, cuồng
chữ, không làm chủ được những tri thức thâu nạp được từ nhiều nguồn và không đủ
bản lĩnh trình bày những ý tưởng triết học đích thực mà chỉ bị cuốn theo cái
lấp lánh của những khái niệm cao siêu”(tr.109,113). Có điều, không biết anh
nhận xét Nguyễn Hoàng Đức có đúng không, vì tôi chưa được đọc,và cũng thường
không tin lắm sự nhận xét của anh.
VỀ SỰ HIỂU BIẾT SAI LỆCH
Mở đầu cuốn sách ,trong
bài viết “Cái đẹp - môt nghi án”, tác giả viết: “Trong kinh Vệ
Đà có một hình ảnh thật thông thái…:
“Chiều xuống sau cuộc chiến đấu, những đàn bướm muôn màu ngàn sắc đậu lên cả
xác những người tử trận và những người chiến thắng đang ngủ “Đàn bướm ở đây là
huyền thoại, là cái đẹp, là sứ giả của một thế giới khác - thế giới ký hiệu ...”. Theo tôi, anh hiểu chưa
được sát ý đoạn văn này. Hình ảnh đàn bướm ở trên chỉ có thể gợi ra
điều: cuộc sống luôn bình thản trôi, trên cả chính nghĩa phi nghĩa, trên cả
đúng sai, trên cả thắng thua, trên cả sống chết. Nó như một lời nhắc
nhở: mọi cuộc chiến cuối cùng đều kết thúc và đều có phần phi lý, chỉ có cuộc sống thanh bình là quý giá thôi. Tất
nhiên, ta cũng hiểu đây chỉ là tư tưởng có từ 2000 năm trước CN, chỉ
có giá trị như một giáo huấn đạo đức, chứ không thể là một tư tưởng triết học.
Tác giả lại tán ra thành “huyền thoại”, thành “cái đẹp”,
rồi anh lấy đó làm cơ sở bàn luận một chuỗi về những cái đẹp tùy tòng, cái đẹp tư do, mỹ
học Đông Tây … để cuối cùng anh đưa ra
kết luận không phải mới mẻ gì: “Cái đẹp chân chính không bao giờ là
cái Đẹp tự do mà luôn luôn là hình thức biểu hiện của cái Thiện”. M.Gorki từng nói về điều này từ lâu lắm: “Học
thuyết về cái đẹp bao giờ cũng gắn liền với đạo đức học là học thuyết về cái
thiện”.
Có
chỗ anh viết rất ngộ: “Nghệ thuật
luôn luôn là vô tư và siêu thực”. Sử dụng thuật ngữ siêu thực như
thế là tuỳ tiện. Đặc biệt, anh đã đưa ra khái niệm: vô thức vũ trụ. Có
thể anh nói theo một nhà nào đó mà anh cho là triết học hiện đại.
Theo cách nhìn của triết học, vũ trụ là đối tượng của vũ trụ học- “
bộ phận vật chất” là đối tượng nghiên cứu của thiên văn, nghĩa là một hệ
thống vô sinh. Vô thức là một dạng tâm lý, tâm lý lại chỉ là sản phẩm của hệ
thống hữu sinh. Vậy khái niệm vô thức vũ trụ là vô nghĩa. Con người
cần sống hòa nhập với thiên nhiên, nhưng không có nghĩa là có một phần tâm lý
chung với thiên nhiên, nhất là phần vô sinh. Đất đá cũng có tâm lý sao? Có thể
rồi anh sẽ lại biện bác là phải hiểu trên tinh thần văn hóa, hiểu như trên là
dung tục. Theo tôi, sự chính xác không thể là dung tục, và tuỳ tiện nói
năng trên một nền tảng tri thức lơ mơ không thể là văn hóa. Chắc anh
muốn bắt chước Jung đưa ra khái niệm vô thức tập thể sau vô thức của Freud chăng ?
Nói
đến Descartes là người ta nói đến Nhị nguyên luận, chứ không phải
phép Tam đoạn luận như tác giả viết. Tham vọng lớn nhất của tư duy con
người, của khoa học là trả lời những câu hỏi: Cái khởi đầu của tồn tại là
gì? Vũ trụ hình thành như thế nào? Chúng ta từ đâu đến? Chúng ta sẽ đi về đâu?
Chứ không phải như anh nghĩ: Chứng minh sự hiện hữu của Thượng Đế là tham
vọng lớn nhất của suy tư”! Có lẽ anh nên nói là tham vọng của tôn giáo
thì đúng hơn, mà trong tôn giáo, nền tảng của tư duy là siêu hình, không chứng
minh: Có Thượng Đế như vậy là như vậy, thế thôi!
Cấu
trúc tư duy của tác giả“Ngày văn học lên ngôi” gồm có hai mảng
chính, chúng chi phối mọi quan niệm của anh về khoa học, triết học và nghệ
thuật: đó là tri thức về Vô thức và Nguyên lý bất định.
VỀ VÔ THỨC
Trong
bài “Văn học cần bảo hiểm cho sự thật lịch sử”. Ở bài này, ngoài cái ưu điểm mà tôi đã nói về
tinh thần công dân, anh có một ý tưởng sáng tạo chính. Anh cho là có một “vô
thức cộng đồng” “đóng một vai trò quan trọng” làm nên “huyền
thoại thời chiến tranh”, “đưa cả dân tộc thăng hoa trong một cuộc chiến dấn
thân đầy cao cả”.
Tất nhiên tôi cũng không
phủ nhận có tồn tại một “vô thức tập
thể”. Với K.G.Jung (nhà tâm lý học người Thụy sĩ), không phải
tất cả các tư tưởng của ông hoàn toàn đúng, nhưng những quan niệm về vô thức
tập thể của ông rất cần được quan tâm. Khi chỉ ra những giới hạn của
Freud, ông cho rằng, vô thức không chỉ bao hàm cái chủ quan và
cái cá thể đã bị loại khỏi ý thức, mà trước hết chính là cái tâm lý
tập thể phi nhân cách bắt nguồn từ thời xa xưa, là cái tương quan
giữa bản năng về tâm lý, cái sản phẩm của cấu trúc bền vững của hệ thần kinh
trung ương qua các thời đại, những yếu tố tri giác có khả năng thiết định bản
thân, mà cơ cở sinh học của chúng, Jung đã dựa trên quy luật di truyền
học của E. Hecken về sự lặp lại các đặc điểm chủng loại. Theo ông, biểu
hiện của vô thức tập thể thể hiện rõ rệt nhất ở hai thái cực, một là tệ
sùng bái thần thánh, nơi nhân cách con người hòa tan vào môi trường của vô thức
tập thể, một là sự rối loạn thần kinh do sự thể hiện mạnh của cái Tôi chèn ép
vô thức tập thể. Vì vậy, ta có thể nói vô thức tập thể chủ yếu chi phối
hành động con người trong các tập tính về tâm linh, những hoạt động theo thói
quen tâm lý. Trong khi đó, bước vào cuộc chiến là bước vào máu lửa. Không ai
lại tự nhiên mà thích chết, thích lao vào cuộc chiến mà hồn nhiên xả thân
cả, vì điều ấy trái với bản năng sinh tồn. Người ta chỉ có thể xả thân với ý
thức. Đó là ý thức về trách nhiệm, ý thức về nghĩa vụ... Người ta
quý cuộc sống vô cùng mà vẫn xả thân, ý thức được hiểm nguy mà vẫn xả thân. Chính
vậy mới làm nên cái đẹp, cái vĩ đại của
người anh hùng. Còn hồn nhiên xả thân như mất trí thì ý nghĩa gì? Sự giáo dục,
tuyên truyền cách mạng là tạo nên ý thức cách mạng chứ lại tạo nên vô thức như Đỗ Minh Tuấn nói chính
là nói ngược. Tất nhiên, vô thức cũng được kết đọng từ vô vàn tác động của cuộc
sống, nhưng cường độ của nó không thể so được với ý thức, nhưng nó cũng chỉ
được kết đọng theo tập tính, góp phần tạo nên diện mạo tính cách. Trong bài
viết về thơ Phạm Tiến Duật, cũng vì chưa thực sự hiểu bản chất của vô thức và
những biểu hiện của nó, nên tác giả cũng
đã có những nhận xét sai lạc tương tự mà tôi đã nói ở bài trước: “Nhiều
người… đã xả thân cho vẻ đẹp của lý tưởng với một niềm hoan lạc khó tả”;
rồi: “từng phơi phới hân hoan trong lửa đạn”; rồi “người lính trong
thơ Phạm Tiến Duật... nhìn cả vũ trụ qua ống kính vạn hoa của tình yêu riêng tư”...
Anh đã phản bác, cho tôi là “dung tục hóa”, không hiểu ý của
anh ở cấp độ văn hóa và triết học. Điều này anh nói hoàn toàn sai,
không phải tôi chỉ phê phán anh dựa trên vài câu chữ hoa mỹ rỗng tuyếch, mà dựa
trên chính cái tư duy về vô thức của anh, tức là đánh giá ở tầm nhìn triết
học. Anh đưa ra câu nói của Marx: “Cách mạng là ngày hội của quần chúng”
để làm cơ sở phê phán. Nhưng anh cũng lại sai nốt, khi không hiểu về ngôn ngữ,
về văn hóa. Các câu của anh nói trên đều
là những câu xác định, “niềm hoan lạc”, “phơi phới hân
hoan”… đều có ý nghĩa trạng từ chỉ trạng thái của hành động,
không có tính khái niệm. Còn câu nói của Marx là một câu ví giữa khái
niệm này với khái niệm khác, có một biên độ nghĩa rất lớn.
Cũng vì chưa thực sự hiểu bản chất của vô thức, nên anh đã lầm vô thức với sự tiếp
nhận thông tin bằng thần giao cách cảm, vớí trực giác, với niềm tin tôn giáo… Nói chính xác chúng là ý thức xuất hiện
trong trạng thái vô thức. Trong bài: “Chủ nghĩa Marx và “bóng ma”
Freud” anh đã đưa ra năm điểm sáng tạo thì hoặc là anh lặp lại những hạn
chế của Jung, hoặc là anh hiểu sai khái niệm vô thức.
VỀ NGUYÊN LÝ BẤT ĐỊNH
Có thể nói Nguyên lý
bất định chính là vật chứng của tri thức tác giả Ngày văn học lên
ngôi mà tôi đã một lần phân tích sơ bộ. Qua sự hiểu biết về nguyên
lý bất định, những người am tường sẽ xác định được trình độ của Đỗ Minh
Tuấn như thế nào? Anh tư duy ra sao?
Có
nhiều người vì có chuyên môn khác nhau, có thể băn khoăn về những ý kiến của
anh, nhưng khi anh đưa ra bao lý thuyết, bao lập luận, trích dẫn đủ các tên
tuổi, người ta sẽ rất e ngại khi đưa ra nhận xét. Phản bác anh nghĩa là kém
hiểu biết chăng? Sẽ là lạc hậu chăng? Bởi anh luôn nhân danh văn hóa, tri
thức, hiện đại …Việc phân tích mổ xẻ
ở đây, tôi biết rồi thế nào anh cũng sẽ lại
đưa ra đủ kiểu lý lẽ, nhân danh này nọ để phản bác, dù có khi anh thực
sự biết là không thể phản được. Bởi những cơ sở mà tôi dựa vào để bàn luận dù
có chính xác đến như từ điển, như những phát minh khoa học đã được kiểm
chứng, chính những cái mà nhân loại dựa vào để phát triển tư tưởng, anh vẫn
có thể nói được là dung tục, là lôi vấn đề từ cấp độ này xuống cấp độ
nọ. Mà thực tế, chính anh mới dung tục thì đúng hơn. Bởi chính anh mới
buộc chặt những tư tưởng văn hóa và triết học vào nghĩa đen thô sơ của ngôn
ngữ. Khoa học tìm ra nguyên lý bất định, thì anh
bảo con người bị đẩy vào cõi chập chờn bất định.
Thế Einstein tìm ra thuyết Tương đối, thấy không gian cong,
thời gian và khối lượng co giãn, rồi những phát minh ra phản vật
chất,… thì anh bảo con người bị đẩy vào đâu? Anh cũng nên hiểu, đó
cũng chính là những tri thức nền tảng của vật lý cơ bản, chúng còn có
“liên hệ gần” với cuộc sống con người hơn so với nguyên lý bất định trong
không gian hạt vi mô. Tất cả chỉ tại anh mới hiểu nghĩa của cái vỏ ngôn ngữ nên mới suy diễn một cách dung
tục vậy thôi; hoặc nói theo một cách hồn nhiên một số nhà “ triết
học hiện đại” vậy thôi.
Khi
Newton đưa ra thuyết hấp dẫn,
chính Laplace đã tư duy theo kiểu như
vậy. Freud cũng thế. Phát minh ra vô thức, ông đã có một đóng góp lớn.
Nhưng việc ông quy tất cả mọi thứ vào vô
thức, mọi thứ đều bị chi phối bởi ẩn ức
tình dục, thì lại có vấn đề. Với Laplace, ông đã cho rằng vũ trụ là
tất định. Từ những quy luật khoa học, từ một tọa độ
xác định, người ta có thể xác định được mọi chuyển động xảy ra trong vũ trụ. Suy
luận như vậy là logic trong phạm vi cơ học Newton. Nhưng từ điều này, ông đã đi
xa hơn nữa khi áp dụng cho cả các quá trình xã hội và hành vi con người
thì lại sai lầm. Quyết định luận máy móc của ông đồng nhất tính nhân
quả với tất yếu, phủ nhận tính ngẫu nhiên. Các nhà triết học duy tâm
hiện đại theo tinh thần thực chứng cũng đã đi theo vết bánh xe đổ, cũng tư
duy một cách máy móc theo những quy luật cơ học như Laplace
vậy. Khi Heisenberg tìm ra Nguyên lý bất định, họ phủ nhận chế
ước nhân quả và tính khách quan của thế giới vi mô. Thực tế không phải vậy.
Dù chuyển động có tính bất định, nhưng các hạt vi mô (như electron) vẫn
chuyển động theo các quỹ đạo mà các phương trình sóng của cơ học lượng tử vẫn
xác định được xác xuất hiện diện của chúng như những đám mây điện tử,
tạo nên những liên kết nguyên tử, phân tử, gây ra những khả năng phản ứng xác
định, phù hợp với thực nghiệm. Hơn nữa, cơ học lượng tử cũng là cơ sở
cho hầu hết những khoa học, nền tảng của sinh học, hóa học hiện đại, công nghệ
thông tin … Nếu nó bất định theo nghĩa loạn xà ngầu thì còn làm cơ sở
cho cái gì? Nói tóm lại, dù có tính bất định, nhưng các hạt vi mô chỉ bất
định trong không gian của thế giới vi mô, ngoài giới hạn ấy, chúng lại xây nên
thế giới mà chúng ta đang sống đây theo những quy luật khoa học hoàn toàn xác
định. Đây chính là bài toán vĩ đại mà trí tuệ loài người còn chưa giải được
để có thể đưa ra những quy luật thống nhất, diễn tả được mọi quá trình vật lý.
Nếu chủ nghĩa duy vật biện chứng coi những phát minh khoa học chỉ là
chính chúng, là những thành tựu của tiến bộ, và đặt nó trong tổng thể tri thức
của nền văn minh nói chung, thì những người theo chủ nghĩa duy tâm vật
lý đã luận giải một cách duy
tâm những phát minh ở đầu thế kỷ XX
(thuyết Tương đối, Cơ học lượng tử…), đã coi “vật chất
biến mất”, “không
có chủ thể
thì cũng không
có khách thể”; đã đồng nhất quy luật khoa học với quy luật cuộc
sống. Đây chính là những “tư tưởng triết học hiện đại” mà tác giả “Ngày
văn học lên ngôi” đã “dày công” thu lượm được, nên mới đưa ra những kết
luận chắc như đinh đóng cột rằng: “lịch sử tư duy đi từ quyết định luận đến
bất định luận”. Có điều, anh không ngờ rằng, viết vậy mình đã tự mâu thuẫn,
bởi nhiều chỗ anh lại lấy chính tư tưởng của Marx và Engels làm
cơ sở để biện bác. Anh viết: “Chủ nghĩa Marx chủ trương một thái độ duy vật
lịch sử, một phươg pháp khoa học...”(Tr.32). Tại sao lại như vậy? Lẽ ra
anh phải viết như thế này chứ: “Lịch sử tư duy đi từ quyết định luận
máy móc đến quyết định luận biện chứng”;
rồi: “Sự sụp đổ của quyết định luận máy móc, sự ra đời của nguyên lý bất
định đã giúp cho con người hiểu đúng hơn bản chất của tự nhiên, đưa con người
tới một cuộc sống ổn định hơn, khi nó
giúp người ta đưa ra được những phương thức sản xuất mới hơn...”.
Như vậy, tác giả Ngày văn học lên
ngôi đã tiếp cận được những tri thức của khoa học và triết học hiện đại,
tiếc là anh lại không đủ trình độ để hiểu, để phân tích đánh giá, nên đã không
nắm được bản chất của vấn đề, chỉ chạy theo cái danh xưng
triết học hiện đại, và đã lầm lẫn coi chúng là chân lý, một bước
tiến mới của nhận thức. Tôi đã một lần phê phán anh là phê phán sự không
biết đó chứ không phải là dung tục, là kéo tư tưởng của anh từ cấp độ
triết học xuống cấp độ khoa học tự nhiên tầm thường đâu! Anh tự khoe
mình được đào tạo, có bề dầy nghiên cứu, mà ngay cả những điều cơ bản
như thế còn không hiểu, thì không biết khả năng tư duy của anh thế nào? Còn với
tôi, thú thật, để viết những bài tranh luận với anh thế này, tôi không phải mất
công chuẩn bị bao nhiêu. Vậy, việc anh cho người khác là “ngoại đạo”, là
“quần chúng”, là không đủ “tư cách phát ngôn”, có phải là sự cao
ngạo vô lối không? Và khi người ta dùng tri thức cơ bản để phân tích và chứng
minh những sai lạc của anh, anh lại cho là tri thức học trò, trong khi cái tri
thức học trò đó anh cũng không hiểu, chỉ biết láng máng đã mang ra bàn bạc lung
tung, mới dẫn đến chuyện tiền hậu bất nhất như vậy, thế có phải anh chủ trương
viết phê bình lý luận là dựa trên sự vô học không?
Tác
giả Ngày văn học lên ngôi cũng tùy tiện khi nói, với phương Đông,
việc phát hiện ra nguyên lý bất định như một phát hiện hồn nhiên của chú
bé trong “Hoàng đế cởi truồng” của Anđecxen. Thế với sự hiểu biết như
vậy thì “phương Đông thông thái” của anh đã làm gì để đóng góp cho sự phát
triển tư tưởng và văn minh của nhân loại? Chỉ có người không hiểu khoa học mới
nói một cách “hồn nhiên” như vậy thôi. Tất nhiên, mọi quy luật khoa học đều
hiển nhiên, nhưng để tìm ra cái hiển nhiên ấy thì không phải chuyện đùa! Phải
có trí tuệ siêu đẳng của các nhà bác học, dựa trên một nền tảng tri thức và
những kiểm chứng.
Bắt
đầu từ khi Max Planck phát minh ra quy luật: Năng lượng của một vật
chỉ phát xạ gián đoạn, từng phần một, tức lượng tử. Tiếp theo các
nhà bác học phát hiện ra bản chất nhị nguyên sóng-hạt của ánh sáng và các hạt
vi mô. Từ đó, Heisenberg mới phát biểu nguyên lý bất định, cơ sở
của một cơ học mới: Cơ học lượng tử. Có điều, Heisenberg không
phải phát minh nguyên lý bất định một cách hồn nhiên. Mà ông phải thực hiện một thí nghiệm giả
định. Để phát hiện vị trí của một hạt vi mô người ta buộc phải “quan
sát” nó bằng một cái khe hở. Nếu khe càng hẹp, sẽ xác định được vị trí càng
chính xác, nhưng như vậy, lại làm cản trở càng mạnh sự chuyển động của hạt và
gây ra sai số càng lớn về vận tốc; và ngược lại. Nguyên lý bất định được phát
biểu: sự xác định tọa độ và vận tốc của hạt không thể đồng thời chính xác.
Nguyên lý này, ngoài ý nghĩa khoa học, còn dẫn tới một quan điểm triết học, một
cái nhìn ngược với cái nhìn tất định của quyết định luận Laplace. Chính từ đây, hai khuynh hướng triết học duy
tâm và duy vật đã dựa vào để phát triển tư tưởng theo hai khuynh
hướng cũng trái ngược nhau. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khắc phục được sự hạn
chế của cái nhìn máy móc theo quyết định luận Laplace,
còn triết học duy tâm đưa ra vô định luận .
Trong
thực tế, nhìn một cách toàn cục có so sánh, xã hội loài người chưa bao giờ ổn
định như hôm nay. Sự đối kháng Đông-Tây lớn nhất đã được hòa giải. Nước ta cũng
ở trong dòng phát triển ổn định. Mà cái nền tảng của mọi nền tảng xây nên sự ổn
định ấy chính là những thành tựu khoa học. Nó giúp loài người không chỉ hiểu
được bản chất của tồn tại, còn thúc đẩy công nghệ, kinh tế phát triển. Dường
như trí tuệ nhân loại chỉ cần với thêm tí nữa là có thể chạm tới SỰ
THẬT. Người ta đã “nhìn” thấy được cả hình ảnh sơ sinh của vũ
trụ ở dạng “sợi vật chất”, cái lúc mà “Chúa đang nặn nên vũ trụ”;
người ta cũng đã hiểu được mắt xích chuyển tiếp từ vật chất vô sinh sang cơ thể
hữu sinh đầu tiên: đó chính là vi khuẩn Sunfur, dạng sự sống sơ
khai này đã được hình thành ở môi trường của núi lửa giống như môi trường thuở ban sơ của trái đất. Đây
chính là hai điều kỳ diệu nhất của trí tuệ nhân loại trong hành trình khám
phá ra cội nguồn của tồn tại, cội nguồn
của sự sống. Tôi thiết nghĩ, muốn bàn về tư tưởng, người ta phải nắm được một
cách toàn diện những tiến bộ của thời đại, dù ở dạng chung nhất, nếu không, rất
dễ đưa ra những nhận xét thiếu căn cứ, những lời tán huyên thuyên vô tích sự.
Thủa
sơ khai, vì trình độ chưa phát triển con người mới mê tín dựa vào thần linh,
vào tôn giáo; khoa học càng phát triển, sự mê tín tôn giáo càng không còn là
cứu cánh để nhận biết thế giới, mà chỉ còn có ý nghĩa về văn hóa đạo đức mà
thôi.
Có điều thú vị là khoa
học cũng như nền văn minh phát triển lại phát hiện ra có tôn giáo lại có giá
trị không chỉ giáo huấn đạo đức mà còn có ý nghĩa khoa học và y học mang tính
nhận thức luận. Đó chính là Đạo Phật. Khi khoa học giải quyết xong việc nhận
thức thế giới hữu hình thì thế giới vô hình sẽ là đối tượng mới. Về thế giới
hữu hình, lý thuyết dây đang là mũi nhọn để có thể trộn Thuyết Tương Đối và Cơ
học lượng tử như dầu với nước vào nhau. Để toán học hóa, lý thuyết dây coi phần
tử nhỏ nhất của vật chất không phải điểm nhỏ vô cùng mà là một dây. Các dây dao
động với tần số khác nhau sẽ tạo ra tất cả các hạt khác nhau, tạo nên một bức
tranh hoàn mỹ về sự thống nhất. Nhưng có một hệ quả là khi coi gốc tọa độ là
một dây thì không gian lại mở ra hàng chục chiều và một rừng toán học mở ra
trước con đường dẫn đến những phương trình tối hậu. Nhưng riêng tôi nghĩ, cho
cấu tử cùng tận là dây cũng có vẻ áp đặt, mà phải là giọt thì có lẽ sẽ đúng với
sự tồn tại tự nhiên của vật chất hơn. Giọt năng lượng thì cũng có thể dao động
như một dây. Nếu như vậy thì không gian không chỉ hàng chục chiều mà là vô tận
và việc toán học hóa sẽ mãi mãi không tới đích. Và như thế, nhận thức của con
người trước thế giới hữu hình sẽ mãi mãi là tương đối mà thôi.
***
Quay lại với Đỗ Minh
Tuấn, tôi biết, vì thực chất tác giả chưa hiểu
nên mới quá mê bất định như vậy. Anh cho rằng phương Đông tư duy
bằng nguyên lý bất định trước khi ông Heisenberg ra đời như quan
niệm “rủi may”. Điều này cũng sai. Không lẽ ở phương Tây không có quan
niệm rủi may sao? Tại sao khi làm việc gì người ta cũng thường: “Cầu Chúa
phù hộ cho con”. Ở đây anh cũng lại có cách nhìn dung tục, sơ
lược. Quan niệm rủi may chỉ là một tiểu tiết bất định trong việc
kiếm sống, chứ không phải là cái quy luật chi phối sâu sắc toàn
diện tâm thức tồn tại của người phương Đông xưa. Mà cái đó chính là
thuyết Định mệnh, nền tảng của nó là luật nhân-quả. Tức là
người phương Đông xưa tư duy theo nguyên lý tất định chứ
không phải bất định. Kiểu như
người ta thường nói: Người ta ai cũng có số cả! Rồi anh coi, với phương
Tây, vì khoa học quá, lý tính quá, nên đang phấn đấu để đạt được cái mù mờ của
phương Đông. Nhưng cũng lại là nói ngược. Vì thực chất, do thiếu hiểu biết
người ta mới mù mờ, chẳng ai lại đi học tập cái thiếu hiểu biết. Sự thâm nhập
lẫn nhau giữa văn hóa Đông Tây, tiếp nhận những tinh hoa của nhau là tất nhiên.
Chỉ có thể phát triển kể cả kinh tế, văn hóa và xã hội trên một nền tảng khoa
học chính xác và mạch lạc của những quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy, kể cả
sự chính xác mạch lạc trong những cái mù mờ. Chính dân tộc ta cũng đang phấn
đấu trên hành trình đó, đang nâng cao tính khoa học trong tất cả các lĩnh vực,
để thúc đẩy sự phát triển. Tác giả tự dưng lại đi cổ vũ cho cái mù mờ thì có
phải đi ngược không?
Còn
vô vàn điều tôi muốn tranh luận với anh, kiểu: “Tư duy khoa học sản phẩm của
nhị nguyên luận chia cắt giữa con người và thế giới”. Đã gọi là khoa học
thì phải đúng đắn sao lại có kiểu chia cắt lạnh lùng thế?
Về
việc anh nhận xét thơ “một số cây bút trẻ” và thơ Nguyễn Quang Thiều có ảnh
hưởng thơ Beat của Mỹ theo tôi không được đúng. Có lẽ do Nguyễn Quang
Thiều đi Mỹ nhiều chăng? Thơ Beat của Mỹ có tính phản kháng thời đại và
tính đối nghịch với thi pháp cũ. Thơ của một số cây bút trẻ có tham vọng đổi
mới ở ta không có nội dung phản kháng và tính đối nghịch, mà chỉ muốn có cách
biểu đạt mới: Ngôn ngữ giàu tính tượng trưng hơn, sự liên tưởng phức tạp hơn.
Đặc
biệt trong bài phê bình thơ Phạm Tiến Duật, tác giả cũng đã khá tuỳ tiện khi
đưa ra những nhận xét cả về thi pháp lẫn tư tưởng. Tôi đã một lần nhắc
đến, xin nói thêm đôi diều ở đây.
Nói
chung thơ của Phạm Tiến Duật là thơ hiện thực 100%, không có Mộng du mộng diếc
gì cả. Câu thơ:
Đường ra trận mùa này
đẹp lắm
tác giả cho là làm bằng ảo giác, bằng
thi pháp mộng du là sai hoàn toàn. Câu thơ này hoàn toàn tả thực,
dù có cách nói hoa mỹ, thi vị. Bởi thực tế, đúng là có lúc có nơi “đường ra
trận đẹp lắm” thực. Nó có chim kêu, vượn hót, hoa phong lan nở...Ảo giác gì
ở đây?
Cũng hai câu thơ tả thực
:
Có lẽ nào anh lại mê
em
Một
cô gái chưa nhìn rõ mặt
Chữ mê ở đây rõ
ràng là mang tính đùa tếu, bài thơ là một câu chuyện thực, anh tán là chân
thật, thương đau, là này là nọ thì đúng là hãi thật! Với lối phê bình kiểu
này, người ta hoàn toàn có thể tán những câu tầm thường nhất thành tài hoa nhất
và ngược lại. Đây chính là kiểu phê bình tạo ra những tên tuổi không tài năng
và những tác phẩm nổi tiếng không chút giá trị.
Quan điểm về thơ hiện
đại của tác giả: Thơ hiện đại là thơ viết bằng siêu ngữ pháp; là siêu ngôn
ngữ, những câu thơ còn nhớ được là chưa hay, là “chưa tới đích”, phải hóa thân
thành phi ngôn ngữ …
Thứ
nhất, tôi chưa được biết có một siêu ngữ pháp. Tôi đã một vài lần viết,
khi ngữ pháp bị phá vỡ thì ngôn ngữ cũng không còn mang nổi chính ngôn ngữ chứ
còn mang được thơ với thẩn cái gì? Con người không tạo ra ngữ pháp mà chỉ tìm
thấy ngữ pháp trong ngôn ngữ. Theo tôi, ngữ pháp có trong ngôn ngữ cũng có tính
vũ đoán như tính vũ đoán của ký hiệu ngôn ngữ. Người ta nói cái nhà
thì hiểu là cái nhà vậy thôi. Khi xuất hiện thì vũ đoán, tùy tiện, nhưng
“không ai có thể tùy tiện sửa đổi” (Hoàng Trinh). Không ai có thể sửa
cách hiểu chữ nhà thành con cá được. Trong thơ của một số nhà
cách mạng thơ, kể cả trong thơ nước ta, cũng đã có những chỗ sai ngữ pháp,
nhưng chúng chỉ như là những thao tác tu từ, sự gây ấn tượng, như bao thủ thuật
khác. Nếu coi là cái cơ sở, cái nền tảng, cái cốt yếu để làm nên thơ hiện đại
thì thật cực đoan, vô lý. Liệu có thể biến câu: “Anh yêu em vô cùng” thành
: “Anh em yêu cùng vô”sẽ thành thơ hiện đại được chăng?
Tác
giả cho thơ hiện đại là siêu ngôn ngữ cũng cần được thảo luận.
Anh viết : “Đó là siêu ngôn ngữ, đó là thơ”; “Nội lực văn hóa … biến
câu thơ bài thơ thành một tập hợp siêu ngôn ngữ”, “Tính chất siêu ngôn ngữ của thơ, của thơ
hay, thơ hiện đại chính là tính chất đối thoại ngỏ”...
Logic
học hiện đại cho siêu ngôn ngữ là ngôn ngữ được dùng để nghiên cứu
ngôn ngữ khác (ngôn ngữ khách thể). Octavio Paz cũng nói: “Thơ không
chỉ là ngôn ngữ mà còn là cái gì vượt ngôn ngữ”. Có một tế nhị khi hiểu
nghĩa ở đây, thơ còn là “Cái gì”vượt ngôn ngữ, chứ không phải là cái
“vượt ngôn ngữ”. Ông muốn nói đến cái hàm chứa, cái nghĩa ẩn, cái mênh mang
… chứ không phải là siêu ngôn ngữ, một khái niệm đã được xác định.
Trong phê bình văn học, theo R.Barthers, siêu ngôn ngữ là ngôn
ngữ cấp độ hai, là ngôn từ về ngôn từ (discours), chính là ngôn ngữ phê bình.
Còn ngôn ngữ văn chương là ngôn ngữ cấp độ một, ngôn ngữ đối tượng (langage
object). Vậy, theo những ý nghĩa đã được xác định và đã thống nhất về khái
niệm siêu ngôn ngữ, tác giả cho thơ hiện đại là siêu ngôn ngữ thì
có phải anh đã cho thơ chính là những bài phê bình bằng thơ hay không? Anh
nói tính chất siêu ngôn ngữ của thơ
hiện đại là tính chất đối thoại ngỏ cũng lại mâu thuẫn. Bởi đối
thoại ngỏ là nói lưng chừng, mà tính siêu ngôn ngữ là tính phê bình, tính diễn
giải. Đã diễn giải sao còn ngỏ ?
Có
lẽ, tác giả Ngày văn học lên ngôi có một sai lệch về cách viết
giữa sáng tác và phê bình. Văn phong phê bình là văn phong có tính khoa học, nó
cần chính xác rõ ràng để những ý tưởng được đề xuất hiện ra rõ ràng. Còn ngôn
ngữ sáng tác mới chính là ngôn ngữ nhòe để mở rộng biên độ của ý tưởng.
Những tư tưởng lớn thường rất giản dị, minh triết, vì nó lớn nên không cần đến
trang sức, đến phấn son loè loẹt. Anh nói đến rất nhiều chữ siêu: Siêu ký
ức, siêu nhớ, siêu thiện, siêu ngữ pháp, siêu ngôn ngữ. Dường như do anh
thích cái lấp lánh của chữ siêu chứ không phải do những ý nghĩa xác định
của chúng. Ngoại trừ những ngôn ngữ thông thường, có nghĩa cụ thể, khi đưa ra
những thuật ngữ, những khái niệm mới, có tính khái quát trừu tượng, đều phải
dựa trên những ngoại diên, nội hàm xác định. Nên khi thuật ngữ siêu thực được đưa ra đã có cả
một lý thuyết được tạo ra kèm theo với
những nội hàm xác định. Cũng như trong khoa học tự nhiên có những thuật ngữ: Entanpi,
entropi, spin, quack … vậy.
Tóm
lại, tác giả Ngày văn học lên ngôi là người có ưu điểm chịu khó
đọc, anh có thuận lợi là có nhiều tài liệu. Có điều, khi tiếp cận với tri thức,
người ta phải hiểu đúng vấn đề. Nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu, phê bình.
Không hiểu đúng sao phân tích, bình phẩm, định giá đúng? Từ sự hiểu đúng, để
đưa ra được những tư tưởng mới lại phải có tư duy ở cấp độ cao hơn.
Tác
giả thích bàn luận triết học, tôi tặng anh
ý tưởng của nhà bác học tật nguyền thiên tài S.Hawking, người
đang ở trên tuyến đầu của vật lý lý thuyết, người được đánh giá là bộ óc thứ
hai sau Einstein trong vũ trụ học, một người không chịu nghe theo THƯỢNG
ĐẾ mà lại muốn giải thích Ý NGHĨA của
chính THƯỢNG ĐẾ, để kết thúc bài viết còn nhiều điều dở dang này: “Đến thời điểm này, đa số các
nhà khoa học quá bận rộn vào việc phát triển những lý thuyết để trả lời câu hỏi
như thế nào và chưa bận tâm đến việc trả lời câu hỏi vì sao? Mặt
khác, những triết gia là những người mà công việc là đặt ra câu hỏi vì sao,
lại không đủ điều kiện để thông tuệ được các lý thuyết hiện đại. Ở thế kỷ 18, các nhà triết học xem toàn bộ kiến
thức của loài người trong đó có khoa học tự nhiên là thuộc lĩnh vực của họ...?
Song đến thế kỷ 19, 20, khoa học trở nên quá toán học đối với những nhà triết
học... Các triết gia giới hạn các câu hỏi lại đến mức mà Wittgenstein, nhà
triết học danh tiếng nhất của thế kỷ này đã thốt lên: “Nhiệm vụ duy nhất
còn lại của triết học là phân tích ngôn ngữ”.
Phú Nhuận
Sáng 11-7-1997
(Tạp chí Văn Nghệ Quân đội
9-1997)
Cập nhật thêm đôi chút: 31-3-2014