LẠI CHUYỆN HOÀNG SA,
TRƯỜNG SA
THUỘC VNCH
Trên trang Bauxite,
05/06/2014, có
bài của Tạ Văn Tài và Vũ Quang Việt: Công
ước Kế tục Quốc gia của Liên Hiệp Quốc không đòi hỏi thừa kế các hiệp định liên
quan đến lãnh thổ. Các tác giả cho biết định nghĩa Quốc gia theo Công
ước Montevideo:
a) một khối dân cư thường xuyên,
b) một vùng lãnh thổ được xác định,
c) một chính quyền, và
d) khả năng thiết lập quan hệ với
các Quốc gia khác.
Rồi cho rằng “Theo định nghĩa
trên, Đài Loan hiện nay, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH), Việt Nam Cộng hòa
(VNCH), Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN) cũng là Quốc gia theo định nghĩa của
Luật quốc tế trên”.
Theo Công ước Kế tục của LHQ,
khái niệm Kế tục (succession) là:
“Một pháp nhân quốc gia này khi
kế tục một hay nhiều pháp nhân quốc gia khác trước đó, không nhất thiết phải kế
thừa tất cả những hiệp định của pháp nhân quốc gia mà nó kế tục”.
Từ kết luận này, hai tác giả cho lập
luận của Trung Quốc cho rằng công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, gửi Thủ
tướng Chu Ân Lai ngày 14 tháng 9 năm 1958 chấp nhận chủ quyền của Trung Quốc
đối với Hoàng Sa và Trường Sa, là không có giá trị vì một trong ba lý do:
“Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc
chủ quyền của Quốc gia Việt Nam
Cộng Hòa”.
Trên Thanh Niên OL cũng có
bài của Quốc Pháp “CHXHCN Việt Nam Có Bị Ràng Buộc Bởi Công Thư
1958?”. Tác giả dựa vào 2 Công ước của Liên Hiệp Quốc: Công ước
về thừa kế quốc gia đối với điều ước quốc tế năm 1978; Công ước về
thừa kế quốc gia đối với tài sản, lưu trữ và nợ quốc gia năm 1983. Thừa
kế quốc gia được nói rõ: “Thừa kế khi thuộc địa trở thành
quốc gia mới độc lập; Thừa kế khi có sự sáp nhập hoặc tách rời quốc gia; Thừa
kế khi chuyển giao một bộ phận lãnh thổ từ quốc gia này sang quốc gia khác”. Cả
hai, “quốc gia tiền bối (predecessor state) và quốc gia thừa kế (successor
state)” đều có “đầy đủ các tiêu chuẩn quốc gia theo Công
ước Montevideo”.
Với “Thừa kế quốc gia của Nhà
nước Việt Nam”
tác giả cho:
“Trước khi bị Pháp xâm lược,
nước Việt Nam, mà người đại diện là Triều đình của các Hoàng đế nhà Nguyễn, khi
Pháp đã hoàn tất quá trình biến Việt Nam thành thuộc địa của mình. Theo luật
pháp quốc tế thời bấy giờ thì Pháp là quốc gia thừa kế của Nhà nước phong kiến
Việt Nam”; “Với Cách mạng tháng Tám 1945, Việt Nam trở thành quốc gia độc lập
có chủ quyền, chủ thể của luật pháp quốc tế. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh viết
trong Tuyên ngôn Độc lập: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và thật
sự đã trở thành một nước tự do độc lập”; “ngày 23.9.1945, Pháp quay trở lại xâm
lược Việt Nam… Bảo Đại về nước thành lập Quốc gia Việt Nam (từ 1956 đổi thành Việt Nam Cộng
hòa - dưới dây gọi chung là VNCH)… Từ thời điểm này trên lãnh thổ Việt Nam
song song tồn tại hai chính phủ là VNDCCH và VNCH”; “Hiệp định Genève 1954
là văn kiện pháp lý quốc tế đa phương quan trọng đầu tiên công nhận “chủ quyền,
độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ” của Việt Nam… Theo Hiệp định Genève,
vĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết (chính quyền và quân
đội VNDCCH tập trung về miền Bắc; chính quyền và quân đội khối Liên hiệp Pháp
tập trung về miền Nam).
Mặc dù “Đường ranh giới quân sự tạm thời này không thể diễn giải bằng bất cứ
cách nào rằng đó là một biên giới phân định về chính trị hay lãnh thổ”. (Đ.6
Tuyên bố chung), nhưng Đ.14 (k.a) lại quy định "Trong khi đợi tổng tuyển
cử thống nhất Việt Nam,
bên nào có quân đội của mình tập hợp ở vùng nào theo quy định của Hiệp định này
thì bên ấy sẽ phụ trách quản lý hành chính ở vùng ấy (TG nhấn mạnh)".
Từ những cơ sở lý luận về thừa kế
quốc gia như trên tác giả Quốc Pháp trả lời câu hỏi: “Công thư 1958 có
ràng buộc CHXHCNVN hay không?”. Tác giả cho rằng “Từ những dẫn chứng
trên có thể kết luận: VNCH là một quốc gia chủ thể của luật pháp quốc tế và
những hành động với tư cách quốc gia phù hợp với luật pháp quốc tế của
VNCH cần phải được tôn trọng”; “Với tư cách là quốc gia chủ thể luật pháp
quốc tế, VNCH đã tiếp quản và quản lý Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp với luật
pháp quốc tế”.
***
Như vậy cả ba tác giả Tạ Văn Tài, Vũ
Quang Việt và Quốc Pháp trong hai bài viết trên đã dùng Công ước Montevideo để
xác định Việt Nam Cộng hòa là “Quốc gia”, rồi theo lý lẽ từ “thừa
kế quốc gia” cho Hoàng Sa, Trường Sa thuộc Quốc gia VNCH. Từ đó, lá thư của
cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng là vô giá trị. Nhưng theo chính Công ước Montevideo:
“Điều 8:
Không nhà nước
nào có quyền can thiệp vào công việc đối nội hoặc đối ngoại của một nhà nước
khác.
Điều 11:
… Lãnh thổ của
một quốc gia là bất khả xâm phạm và có thể không phải đối tượng của sự chiếm
đóng quân sự cũng như các biện pháp vũ lực đối với tiểu bang khác trực tiếp
hoặc gián tiếp hoặc bất kỳ động cơ bất cứ điều gì thậm chí tạm thời”.
Theo hai điều trên thì rõ ràng không
phải “Theo luật pháp quốc tế thời bấy giờ thì Pháp là quốc gia thừa kế của Nhà
nước phong kiến Việt Nam”
theo như ý ông Quốc Pháp! Vậy Pháp không có quyền “thừa kế” vì đã “chiếm
đóng quân sự” nên
các “quốc gia” do Pháp nặn ra như Liên Bang Đông Dương, Quốc Gia Việt
Nam rồi Việt Nam Cộng Hòa không thể là “Quốc gia” theo đúng
định nghĩa của Công ước Montevideo.
Ông Quốc Pháp cũng nhấn mạnh sai
chỗ này: “nhưng Đ.14 (k.a) lại quy định "Trong khi đợi tổng tuyển cử
thống nhất Việt Nam, bên nào có quân đội của mình tập hợp ở vùng nào theo quy
định của Hiệp định này thì bên ấy sẽ phụ trách quản lý hành chính ở vùng ấy (TG
nhấn mạnh)”, để cho rằng VNCH có chủ quyền với Hoàng Sa, Trường Sa. Vì “phụ
trách quản lý hành chính” chỉ trong thời hạn đợi tổng tuyển cử, mà chữ
“bên” ở đây chủ yếu là nói về “ông chủ” là Pháp. Cụ thể nội dung trên
thuộc Hiệp định đầy đủ hơn là:
“Sông Bến Hải,
vĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai
vùng tập kết quân sự tạm thời. Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa tập trung về miền Bắc; Chính quyền và quân đội khối Liên hiệp Pháp tập trung
về miền Nam. Khoản a, điều 14 ghi rõ: "Trong khi đợi tổng tuyển
cử thống nhất Việt Nam, bên nào có quân đội của mình tập hợp ở vùng nào theo
quy định của Hiệp định này thì bên ấy sẽ phụ trách quản lý hành chính ở vùng ấy".
Chính vậy, từ việc hiểu sai lá thư
của cố Thủ Tướng Phạm Văn Đồng, viện dẫn đủ các Công ước, Hiệp định quốc tế,
nhưng lại sai với chính các văn bản ấy, cho Hoàng Sa, Trường Sa thuộc VNCH để
bác bỏ lá thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, sẽ là đuối lý trong tranh luận.
Xin nhắc lại ý tôi đã viết:
“Với cái lý “Hoàng Sa và
Trường Sa thuộc Việt Nam
Cộng Hòa. Anh không thể cho cái mà anh không có” thì ý một tay Ngô
Viễn Phú (Học giả TQ) thế này thôi ta cũng khó cãi:
“Trước năm 1975, tức là trước khi
chính quyền miền Bắc giành chiến thắng để thống nhất hai miền Nam Bắc, miền Bắc
một mực tuyên bố mình là chính thống, là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt
Nam, và gọi chính quyền miền Nam là “bù nhìn”, là “chính quyền ngụy” phi pháp,
cần phải tiêu diệt. Nếu theo quan điểm đã nhắc đến ở trên của các học giả Việt
Nam thì, miền Bắc là “bên thứ ba ở ngoài không liên quan”, như vậy, sẽ có nghĩa
là thừa nhận địa vị hợp pháp của chính quyền miền Nam, và thế thì, những cái
gọi là “bù nhìn” hay “chính quyền ngụy” chỉ là cách gọi càn, và việc “giải
phóng miền Nam” của chính quyền miền Bắc chính là hành động xâm lược. Theo
nguyên tắc của luật quốc tế, bên xâm lược không có quyền “kế thừa” lãnh thổ và
tất cả các quyền lợi của bên bị xâm lược, thế thì, chính quyền Việt Nam hiện
nay, vốn là kế tục của chính quyền miền Bắc trước đây, sẽ không có quyền lấy tư
cách người kế thừa của chính quyền miền Nam để mà đưa yêu cầu về lãnh thổ đối
với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa”!
Vì vậy, không được lảng tránh mà
quan trọng nhất là phải hiểu cho thật chính xác ý của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
trong lá thư:
“Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa … sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn
trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc”.
Xin nhắc lại: Nếu cố Thủ tướng viết Chính
phủ Việt Nam
“tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Hoa quyết định về hải phận”
thì chúng ta hết cãi, vì “bản tuyên bố” nói chung là có bao hàm ý Tây
Sa, Nam Sa thuộc Trung Quốc. Tán thành “bản tuyên bố” nghĩa là tán thành
ý “Tây Sa, Nam Sa thuộc Trung Quốc”.
Nhưng cố Thủ tướng không viết chung
chung như vậy mà viết cụ thể, chỉ: “triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý
của Trung Quốc” thôi. Vậy cụ chỉ tôn trọng những gì của Trung Quốc, còn
Hoàng Sa và Trường Sa vốn của Việt Nam, viết như thế có nghĩa là cụ
không công nhận.
Còn chứng cớ Hoàng Sa và Trường Sa
của Việt Nam, từ tài liệu cho đến thực tế, chắc chắn sẽ áp đảo chứng cớ của
phía TQ cho hai quần đảo là của họ. Chỉ nêu vài ý. Năm 1951, tại Hội nghị San
Francisco với sự tham gia của 51 nước, đề nghị trao hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa cho Trung Quốc đã bị Hội nghị bác bỏ với 46 phiếu chống. Hồi Nhà
Thanh, Đại Thanh đế quốc toàn đồ xuất bản năm 1905 tái bản lần
thứ tư năm 1910 chỉ vẽ đế quốc Đại Thanh đến Hải Nam. Trung Quốc địa lý
học Giáo khoa thư xuất bản năm 1906 viết: "Điểm mút của Trung
Hoa ở Đông Nam
là bờ biển Nhai Châu, đảo Quỳnh Châu, vĩ tuyến 18013′ Bắc". Còn đây là
nguồn cội sinh ra các bản đồ đó:
25-6-2014
ĐÔNG LA