BÙI TÍN LẠI BẤT TÍN RỒI!
(Trần Đức Thảo 1917-1993)
Bùi Tín trong bài “Một cuốn sách rất cần tìm
đọc” trên VOA ngày 02.07.2014 đã giới thiệu: “cuốn Trần Đức Thảo -
Những lời trăn trối của Tri Vũ Phan Ngọc Khuê, một nhà báo sống ở Pháp được Tổ
hợp Xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ phát hành … Tôi đã đọc cuốn sách này một mạch
trong 2 ngày. Rồi đọc lại 1 lần nữa, để rồi suốt 1 tuần lễ ngẫm nghĩ về nội
dung của nó”.
Cụ thể Bùi Tín viết mà tôi lược bớt
cho gọn như sau:
Trần Đức Thảo (1917 – 1993)
là một trí thức được đào tạo tại Pháp, là một triết gia trẻ uyên bác từng tranh
luận tay đôi với nhà triết học Jean Paul Sartre. Năm 1951, khi 34 tuổi, Trần
Đức Thảo tự nguyện về nước với thiện chí “mang hiểu biết của mình về góp phần
xây dựng đất nước”. Nhưng tai họa đã sớm đến với ông. Lãnh đạo VN, từ Hồ Chí
Minh đến Trường Chinh (Tổng Bí thư Đảng lúc bấy giờ) đều tỏ ý không cần đến
“một anh trí thức mọt sách do đế quốc đào tạo”, còn coi ông là một kẻ reo rắc
tư tưởng phản động nguy hiểm. Khi Hà Nội được giải phóng, ông viết 2 bài viết
trên báo Nhân Văn. Từ đó ông bị giám sát, bỏ rơi trong cuộc sống, mất việc, mất
vợ, sống lay lắt, lập dị, đi đôi guốc mộc, nói, khóc và cười một mình, cưỡi
chiếc xe đạp trẻ con mang nhãn hiệu nước Nga giữa phố phường Hà Nội.
Năm đầu quay lại đất Pháp, ông sống
trong cơ sở của sứ quán đầy công an, an ninh, mật vụ CS, nên vẫn phải mang “mặt
nạ”, cả khi họ cho phép ông nói chuyện về triết học, về phép biện chứng duy
vật, về chủ nghĩa Mác. Để giữ mạng sống, ông vẫn phải đóng kịch, như một anh
trí thức sơ cấp mụ mị, dở hơi, làm cho những anh chị em trí thức chờ đợi ở ông
những phản biện sâu sắc đều ngỡ ngàng thất vọng, trong đó “có chính người viết
bài này” (Bùi Tín) (vào tháng 6/1992).
Một điều may mắn là anh Tri Vũ Phan
Ngọc Khuê đã cùng giáo sư toán học Bùi Doãn Khanh được ông cho biết ý định viết
một cuốn sách nhằm trình bày tất cả những suy nghĩ chân thực của ông suốt 40
năm qua để cống hiến cho nhân dân VN đau khổ, lầm than. Khi ông đột ngột qua đời
ngày 23 tháng 4 năm 1993 trong nhà khách sứ quán CS, những ghi chép, phác thảo,
đã bị an ninh sứ quán thu lượm sạch. Nhưng họ đã bỏ sót một kho tư liệu quan
trọng: những cuốn băng ghi âm của ông Thảo. Suốt trong gần 6 tháng, hai ông Tri
Vũ và Bùi Doãn Khanh lại lặng lẽ đón ông Thảo đến một quán cà phê kín đáo, đặt
ra những câu hỏi và ghi âm những câu trả lời của ông. Ngay sau khi ông Thảo đột
ngột từ trần - một cái chết vẫn còn nhiều nghi vấn – hai ông Tri Vũ và Bùi Doãn
Khanh đã biên soạn lại thành cuốn sách Trần Đức Thảo - Những lời trăng trối.
Trên http://viet-studies.info, có đăng
lại HỒI KÝ TRẦN ĐỨC THẢO từng in trên triethoc.edu.vn,
mà ông viết tại TP. HCM, xong ngày 20 tháng 4 năm 1989. Như vậy
những dòng hồi ký này mới chính là những tâm sự chân thật nhất vào lúc cuối đời
của ông. Đọc Hồi Ký của ông ta thấy tình cảm và nhận thức của ông hoàn toàn
ngược với nội dung cuốn sách mà Bùi Tín giới thiệu ở trên. Tư duy triết học của
ông hoàn toàn đúng với việc “ông nói chuyện về triết học, về phép biện chứng
duy vật, về chủ nghĩa Mác” mà Bùi Tín cho rằng: “Năm đầu quay lại đất
Pháp, ông sống trong cơ sở của sứ quán đầy công an, an ninh, mật vụ CS, nên vẫn
phải mang “mặt nạ””. Ông buộc phải nói vì “Để giữ mạng sống, ông vẫn
phải đóng kịch, như một anh trí thức sơ cấp mụ mị, dở hơi, làm cho những anh
chị em trí thức chờ đợi ở ông những phản biện sâu sắc đều ngỡ ngàng thất vọng,
trong đó có chính người viết bài này (vào tháng 6/1992)”.
Một người trên 70, sống tại thế giới
tự do, tại một đất nước mà ông từng học tập, đỗ đạt, thành danh, như cá về với
nước, mà phải “đóng kịch” như trên thì quá phi lý. Có chăng chính là sự
xuyên tạc vốn đã thành thương hiệu của ông Bùi (bất) Tín thì có lý hơn mà thôi.
Trên mạng có thời từng tràn ngập tin
bịa đặt, cho lâu đài của bà Bhutto là nhà TT Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch Trương
Tấn Sang đi thi quay cop bị cô giáo bắt thì cho người ám sát, Bác Hồ là người
Tầu, v.v… thì hôm nay có thêm một cuốn sách “Nhà Triết học Trần Đức Thảo
trăng trối” xạo cũng là chuyện hoàn toàn có thể xảy ra.
Bùi tín viết:
“Trong đọan kết, triết gia Trần
Đức Thảo bộc bạch rằng vào lúc cuối đời ông đã nhận rõ chủ nghĩa Mác là một học
thuyết sai lầm từ gốc, chứ không phải là nó đúng nhưng đã bị vận dụng sai, và
nó sai cả về vũ trụ quan lẫn nhân sinh quan do cổ vũ đấu tranh giai cấp, bạo
lực, chiến tranh, sai cả về phương pháp luận lô gích biện chứng duy vật - hiện
tượng học. Theo ông, Liên Xô, Đông Âu, Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Bắc Triều
Tiên đều là nạn nhân bi thảm của chủ nghĩa Mác. Rất tiếc là ông đang say mê lý
giải thì tai họa ập đến. Người ta thoáng biết ý định thâm sâu của ông cùng bè
bạn thân thiết, và ông đã bị họ bịt mồm khi đang thổ lộ tâm tình thầm kín nhất”.
Nếu đọc kỹ Hồi ký của Trần Đức
Thảo và hiểu triết học ta sẽ thấy Trần Đức Thảo từ một người được đào tạo
về Hiện tượng học Husserl, một triết thuyết duy tâm mang màu sắc riêng của
Husserl, song hành với con đường trở về đất nước và cách mạng, ông đã đi theo
triết học Marx. Những dòng tâm sự triết học cụ thể của Trần Đức Thảo dưới đây
đã chứng tỏ Bùi Tín viết như trên hoàn toàn là bịa đặt và xuyên tạc:
“Trong giai đoạn cuối cùng
của tôi ngày xưa ở bên Pháp, tôi đã xác nhận chủ nghĩa Marx trong bài từ giã
chủ nghĩa hiện sinh: “Hiện tượng học của tinh thần và nội dung thực tế của nó”.
(Les Temps Modernes tháng 9-1948). Trong ấy tôi biện minh cho sự
lựa chọn của tôi bằng cách nêu lên những chân trời rộng rãi mà quan điểm duy vật
biện chứng và lịch sử xã hội mở ra cho công việc phân tích ý thức sinh thức”;
“Đấy là cái mà tôi đã tìm cách
giải thích cho Jean-Paul Sartre trong năm buổi trao đổi tiến hành vào mùa đông
1949-1950, theo lời mời của ông ấy. Tuy nhiên buổi nào cũng đi đến kết quả tiêu
cực, do sự bất đồng cơ bản ngay từ xuất phát điểm trong thế giới quan của hai
bên. Cuối cùng thì chỉ còn có thể ghi nhận rằng không thể nào dung hòa giữa chủ
nghĩa hiện sinh với chủ nghĩa Marx”;
“Những bài của tôi đăng trong tạp
chí La Pensée bắt đầu từ 1965 đã đi tới cuốn Nghiên cứu nguồn gốc
của tiếng nói và ý thức (Editions Sociales, 1973-Paris). Trong ấy tôi
nghĩ rằng có thể thực hiện cuốn Phénoménologie et Matérialisme Dialectique
ngày xưa, bằng cách tiến hành một công trình hoàn toàn duy vật về nguồn gốc của
ý thức xuất phát từ lao động và tiếng nói gạt bỏ tất cả mọi di tích của chủ nghĩa
chủ quan hiện tượng học”.
“Mãi đến năm 1985-1986 tôi mới vượt
qua được những giới hạn hẹp hòi như thế, nhờ phong trào cải tổ, đổi mới trong
các nước xã hội chủ nghĩa sinh ra một thời đại Phục hưng mới, khôi phục và phát
triển tư tưởng nhân bản chân chính của các nhà kinh điển Marx-Lenin, sáng lập
chủ nghĩa xã hội khoa học”;
“Đến năm 1983, khi có bài của
Andropov kỷ niệm 100 năm ngày mất của Marx, thì tôi tự cảm thấy được giải phóng
khỏi những điều kiêng cấm của triết học của thời sùng bái cá nhân và thời đình
đốn. Do đấy mà tôi đã vận dụng được một cách nhất quán những lời tuyên bố của
các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học về vấn đề xoay lại phép biện chứng
của Hegel, đặt cho nó đầu lên trên, chân xuống dưới, nhờ thế mà chủ nghĩa Marx
đã lấy lại “cái hạt nhân hợp lý’ của Hegel, và tạo nên phép biện chứng duy vật
hiện đại. Tôi đã trình bày một cố gắng đầu tiên theo hướng ấy trong bài “Phép
biện chứng lôgich trong sự phát sinh ‘Tư bản’” (La Pensée, số
240, tháng 7/1984)”;
“Lúc bấy giờ tôi lại cảm thấy cái
nhiệt tình của những năm cuối cùng của tôi ngày xưa ở bên Pháp. Sự tấn công bất
ngờ của kế hoạch Marshall làm cho các bộ trưởng cộng sản bị gạt ra khỏi các
chính phủ Tây Âu, đã đặt giới trí thức bấy giờ trước một sự lựa chọn giữa chủ
nghĩa Marx với sự phục hồi hoàn toàn của giai cấp tư sản quốc tế. Trước sự tiến
lên của chủ nghĩa đế quốc thực dân, tôi chỉ có thể chọn chủ nghĩa Marx, và tôi
đã thực hiện điều ấy trong bài “Hiện tượng học của tinh thần và nội dung thực
tế của nó”. Jean-Paul Sartre đã coi như một vấn đề thể diện là cho in bài trong
tạp chí Les Temps Modernes (tháng 9/1948).
Đấy là bài bình luận cuốn sách mới
xuất bản của Kojève về Hegel, mà Maurice Merleau-Ponty đã đề nghị tôi viết, để
giảm bớt quan điểm hiện sinh quá trắng trợn của Kojève bằng cách hướng sự giải
thích của Hegel về phía Marx.
Xu hướng về phía Marx là tất yếu,
vài [nước] châu Âu đương bị phát xít chiếm đóng, và hy vọng được giải phóng từ
một chiến thắng trong ấy quân đội Liên Xô sẽ có vai trò chủ yếu”;
“Trong năm 1945, là năm đầu thời
kỳ giải phóng châu Âu, tôi đã làm phát ngôn viên cho những đòi hỏi dân chủ dân
tộc của 25.000 Việt kiều, hầu hết là chiến binh và công binh do chính phủ Pháp
gọi sang vào đầu chiến tranh. Khi tôi bị giam ở nhà tù La Santé, vì đã kiên
quyết ủng hộ Việt Minh và Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôi đã dùng thời
gian rỗi trong xà lim để trầm tư mặc tưởng theo lối hiện tượng học. Tôi đã viết
bài “Sur l’Indochine” [Bàn về Đông Dương], còn đứng trong giới hạn chủ nghĩa
hiện sinh, nhưng đã biểu hiện một xu hướng mác-xít rõ ràng hơn nhiều so với
những bài khác của tạp chí Les Temps Modernes (xem số 5 tháng 2/1946)”;
“Khi xuất hiện kế hoạch Marshall,
tôi cảm thấy sâu sắc cái bản chất đế quốc thực dân của nó, và tôi thấy khó
thông cảm với nhóm người xung quanh tạp chí của Sartre, vì họ đã thích nghi với
thời cuộc mới. Và như thế là tôi đã dứt khoát từ giã chủ nghĩa hiện sinh bằng
cách viết một bài duy vật kiên quyết phê phán quan điểm hiện sinh của Kojève
giải thích Hegel”.
“Do tôi đã trải qua tiếp thu
phương pháp hiện tượng học, nên sự lựa chọn chủ nghĩa Marx tạo nên cho tôi cái
đòi hỏi phải cải tạo cả hai hiện tượng luận Hegel và Husserl, xóa bỏ hình thái
và những yếu tố duy tâm của họ để lấy lại cái “hạt nhân hợp lý” tức là những
yếu tố duy vật, nhằm vận dụng những yếu tố ấy trên cơ sở duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử để xây dựng một giải pháp khoa học cho vấn đề về tính chủ quan
của cái sinh thức”.
5-8-2014
ĐÔNG LA