Trong bốn cách mà Nguyễn Quang A học
theo Kerkvliet để thay đổi chế độ, cách quan trọng được xếp thứ nhất là:
a) Cách
tiếp cận do tầng lớp elite (tinh hoa) trong đội ngũ đang cai trị khởi xướng
và dẫn dắt quá trình dân chủ hóa: ĐL (Đương chức Lãnh đạo-incumbents-led).
Coi lại
thấy cách này hoàn toàn khớp với sự tan rã của LX.
Trong “tầng
lớp elit” của LX, mối quan hệ của Gooc-ba-chov và Enxin là mắt xích cuối cùng
của công tác tổ chức cán bộ sai lầm đã trực tiếp làm tan rã đất nước này. Enxin
đối với Goóc-ba-chov thì đúng là một người khi hạ thì đội khi thượng thì
đạp.
Theo Tướng
Korzhakov:
“… Yeltsin bao giờ cũng chạy như bay
tới khi nghe thấy chuông kêu từ máy nối thẳng với Tổng Bí thư, dù đang làm
việc gì cũng bỏ ngay... Và chúng tôi chỉ nghe thấy liên hồi: “Dạ vâng ạ, thưa
Mikhail Sergeyevich, dạ vâng ạ…”. Ông ấy thậm chí không dùng từ “đồng chí”
với Gorbachev mà lúc nào cũng gọi một cách trịnh trọng “Mikhail Sergeyevich”.
Và cẩn thận lựa chọn từng từ để nói…”
Gooc-ba-chov,
từ khi thực hiện perestroika và glasnost, đã tạo điều kiện cho sự ly khai
của chủ nghĩa quốc gia. Chính vì thế đã có một cuộc đảo chính và Enxin, được
đám đông ủng hộ, đã làm cuộc đảo chính thất bại. Enxin giải cứu được Gooc-ba-chov
đồng thời biến luôn Gooc-ba-chov thành “tù binh” và giải tán cả Liên Xô. Người
dân Nga phải chịu đựng một sự hỗn loạn, đói khổ. Thực tế dân Nga đã bị cướp
bóc bởi tài sản quốc dân đã bị những kẻ có công đập vỡ Liên Xô chia nhau. Tài
sản tham nhũng cũng được hợp pháp hóa bởi một chế độ mới thích hợp là CNTB.
Chính vì thế Nhà kinh tế học người Mỹ David Code đã có một câu nói nổi tiếng: Đảng CS Liên Xô là chính đảng duy nhất làm
giàu trong tang lễ của chính mình!
Còn ở Việt
Tôi đã từng làm một bài “thơ Bút Tre” về Nguyễn
Khoa Điềm:
CÓ HAI ĐẤT NƯỚC
Việt
Hồi còn đương chức kết liền (liên kết) Mạnh Hao
(Hảo)
Cùng yêu đất nước biết bao
Người vào chính trị (Bộ Chính trị) người vào ban
thơ (Hội Nhà Văn)
Bất Hảo bất chợt trở cờ
Điềm ta bực tức phớt lờ đi luôn
Bỗng dưng chớp giật, sóng dồn
Khoa Điềm sét đánh về vườn thinh linh (thình lình)
Đất nước đương chức đẹp xinh
Hưu rồi bỗng thấy nó thành ruồi bu
Hảo ta sướng quá hoan hô
Lại yêu Điềm tựa như chưa giận hờn
Lại chung nhau một nỗi niềm
Người tung kẻ hứng sát liền bên nhau
Xưa cùng yêu nước biết bao
Nay cùng chê nước khác nào quân Nguy (Ngụy).
***
Trước Hội thảo toàn quốc của Hội
đồng Lý luận Phê bình, xin đăng lại bài tôi viết về sự “đổi mới” của Nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm, người từng làm Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam; Bộ
trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin; ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Trưởng
ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương.
30-9-2015
ĐÔNG LA
|
NGUYỄN KHOA ĐIỀM VÀNỖI LO:
“Mình vẫn còn một thứ quả non xanh?”
Thực ra Mạc Ngôn, qua Ma
chiến hữu, bằng giọng văn châm biếm đã diễu cợt cuộc chiến Biên giới 1979 do TQ
gây ra là phi nghĩa. Ông đã diễn tả cái tình trạng thật chua xót của những
chiến sĩ đã “chiến thắng” trở về. Như nhân vật Quách Kim Khố: “Tai tớ bị đạn làm cho điếc rồi… Miệng tớ
cũng bị lửa đạn thiêu cho cháy sém… nhưng cái gì chờ tớ nào? Phục viên! Đ.
mẹ nhân gian sao mà bất công!” (tr.131).
Như vậy, viết như trên, Nguyễn Khoa Điềm thực chất chưa đọc
“Ma chiến hữu”, chỉ a dua theo dư luận chống Trung Quốc.
Cũng
liên quan đến vấn đề TQ, trên VnExpress, Nguyễn Khoa Điềm đã
viết bài thơ Nhân
dân nói lên tâm tư của ông về những cuộc biểu tình chống TQ:
Cúi mình trên
đồng lúa
Lao lên các
hỏa điểm chiến tranh
Lăn mình
trong các cuộc xuống đường
……………………………………………..
Sự sợ hãi
không cứu được chúng ta
Như
vậy Nguyễn Khoa Điềm đã đồng nhất các cuộc xuống đường chống chiến tranh xâm
lược trước đây với những cuộc biểu tình tự phát chống TQ hôm nay. Khi chúng kéo
dài triền miên, đã thành quá đà, làm mất trật tự công cộng, thậm chí có nguy cơ
đến an ninh quốc gia khi đẩy công việc hòa giải vào thế bí, đi ngược với chính
sách của Nhà nước đối thoại thay cho đối đầu, luôn coi trọng tình hữu nghị, hòa
bình với Trung Quốc cũng như với tất cả các nước trên thế giới. Chính vậy các
nhà chức trách mới ra thông báo yêu cầu chấm dứt nhưng các cuộc biểu tình vẫn
cứ diễn ra. Như vậy có nghĩa là từ đó những cuộc biểu tình đã trở thành chống chính
quyền. Lẽ ra những người hiểu biết cần phải giải thích cho quần chúng hiểu thì
tiếc thay, một số trí thức danh tiếng lại có hành động tai tiếng, đã vào hùa,
kích động biểu tình, làm loạn xã hội! Không biết, nếu ở vị trí lãnh đạo tối
cao, khi biểu tình không đạt mục đích, các vị sẽ cắt quan hệ và tiến hành chiến
tranh với TQ sao?
Ngược
với Nguyễn Khoa Điềm, trên VietNamNet, cựu Phó Thủ tướng Vũ Khoan, có ý
kiến:
“Đặc điểm của đối ngoại là có những chuyện
phải giữ kín chứ không phải là dát, hay sợ đâu. Vấn đề là phải khôn. Đừng lẫn
lộn cái khôn với cái sợ. Không phải với Trung Quốc đâu, với nước nào cũng vậy.
Do đó cũng phải hiểu cho cái người lãnh đạo, người ta
phải giữ cái gì đó để còn có chỗ nói chuyện, chứ cắt cầu thì rất dễ. Bởi muốn gì
thì gì mình vẫn phải cố gắng giải quyết bằng đối thoại, nên phải giữ cầu đối
thoại chứ.
Có người không hiểu cho cái đó, có người trái tim nóng
nhưng đầu không lạnh. Thậm chí một số ít người lợi dụng để kích động, vì những
tính toán riêng...”
Đặc
biệt trên báo laodong.com,
trong bài trả lời phỏng vấn“Giờ
chỉ còn chường mặt ra trong thơ”, nếu không nói ra có lẽ không ai biết
người nói lại chính là Nguyễn Khoa Điềm:
“Sống trong một xã hội như xã hội mình thì
khi nào cũng phải sợ, bởi điều phiền toái xuất hiện từ những phía mà mình không
ngờ được, thậm chí nhiều khi nó đến từ anh em, bạn bè”.
Thật
lạ lùng, “Anh em bạn bè nào” mà lại có thể khiến một “ông Trùm” lĩnh vực Tư
tưởng Văn hóa ngày nào “cũng phải sợ”? Phải chăng chính là GS Trần Thanh Đạm mà
ông Nhà văn Nhật Tuấn trên trang của mình đã kể lại khá tường tận trong loạt
bài CHÂN
DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN (KỲ 12):
“… xảy ra một
việc động trời chưa từng thấy… Một nhà “phê bình lý luận" nổi tiếng
Mao-ít ở TP Hồ Chí Minh là Giáo sư Trần Thanh Đạm, trên tạp chí “Văn” số
Tết Ất Dậu của Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh đã viết một bài nảy lửa đả phá
một số quan điểm mới mẻ của ông Nguyễn Khoa Điềm”; “Sau khi trưng ra ý kiến
phát biểu của Nguyễn Khoa Điềm về lý luận văn học:
“ Hệ thống lý luận văn học của ta do phải tập trung
cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội mà phần nào bỏ quên hoặc tránh đi những đặc
trưng văn học, những vấn đề rộng lớn của văn chương và của con người …”
Ông Trần Thanh Đạm dám lên giọng “xách mé”:
“Có lẽ khó quan niệm một chủ nghĩa xã hội gì mà văn
học lại bỏ quên hoặc tránh né các vấn đề rộng lớn của văn chương và con người?… Một
chủ nghĩa xã hội như vậy còn xứng đáng được gọi là chủ nghĩa xã hội được hay
không?…”.
Táo tợn hơn, Trần Thanh Đạm phê phán sếp lớn:
“Tôi cho rằng lý giải các yếu kém thiếu hụt của lý
luận văn học chúng ta như diễn giả đã làm là có phần hời hợt, sơ lược, chủ quan
, không trên cơ sở một nhận thức lịch sử thật chu đáo, thận trọng…” rồi
cả doạ nạt: “Kết cục của diễn biến hoà bình trong lĩnh vực tư tưởng văn hoá là
bạo loạn lật đổ trên lĩnh vực chính trị xã hội. Những người cầm cờ, cầm lái
không thể mơ hồ trong nhận thức của mình…”
Như vậy xem chừng GS Trần Thanh Đạm phản biện có lý. Tôi không hiểu tại sao ông
Nhật Tuấn lại cho là “nổi tiếng Mao-ít”? Phải chăng theo Nhật Tuấn, “đổi mới”
bất kể đúng sai, tốt xấu mới là tiên tiến?
Cũng trong loạt bài đó, Nhật Tuấn đã mô tả cuộc “so găng” thú vị giữa Trần
Thanh Đạm và Nguyễn Khoa Điềm trước “hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp”:
“Không kể chuyện “đánh võ mồm” như trả lời phỏng vấn ở Pháp (?) “ói mửa vào
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, … Thiệp gọi đám nhà văn trong nước
là bọn “giặc già” vừa bất tài, vừa tham lam vừa thất học… Bị chửi ông chửi cha
vậy mà Hội nhà văn Việt Nam vẫn im thin thít, ngay cả Tổng thư ký Hội Hữu Thỉnh
vào những dịp đăng đàn diễn thuyết cũng…“ngó lơ”. … Nguyễn Huy Thiệp
chơi luôn một tiểu phẩm “Mổ xẻ nhà văn” xỏ xiên các nhà phê bình
chỉ muốn tiến thân bằng xác các nhà văn. Hành động đổ dầu vào lửa của Nguyễn
Huy Thiệp càng nung nấu thêm “lòng căm thù” của giới lý luận “mác xít tới bến”
chỉ chờ cấp trên gật đầu là xúm vào “bề hội đồng ”. Vậy mà có ai ngờ, đồng chí
Trưởng ban văn hoá tư tưởng Nguyễn Khoa Điềm chẳng những không phát lệnh “giết
chết thằng Thiệp” lại còn khen ngợi Thiệp thì còn trời đất nào nữa hở … trung
ương Đảng? … :
“Có người đã nói anh Thiệp đã viết những điều trước
nay chưa ai viết. Tôi thấy điều ấy không quan trọng lắm. Về mặt nội dung, có
những điều anh Thiệp sai nhưng về mặt đổi mới ngôn ngữ nghệ thuật thì anh
Thiệp lại có nhiều đóng góp… Ở vào thời điểm mang tính chuyển đổi thì nhiều lúc
hình thức lại mang tính cách mạng của nó…”
Trần Thanh Đạm … tuôn ra liên hồi những lời lẽ
đả phá mạnh mẽ ý kiến của Nguyễn Khoa Điềm:
“Há rằng “phi anh hùng hoá" một ông tướng về hưu,
“phi thần tượng hoá" một anh hùng dân tộc... chỉ là đổi mới và đóng góp
cho ngôn ngữ nghệ thuật hay sao?”; “Trong khi một số nhà văn, nhà phê bình lên
án những ngôn luận xằng bậy của anh Thiệp đối với các văn hữu trong Hội nhà văn
thông qua các bài như: Hoa thuỷ tiên, Mổ nhà văn, Tuổi 20 yêu dấu v.v… thậm chí
xúc phạm đến cuộc kháng chiến dân tộc thì đồng chí Nguyễn Khoa Điềm
hình như có ý muốn che chắn cho Nguyễn Huy Thiệp”.
Đặc biệt, cuộc đấu giữa Trần Thanh Đạm và Nguyễn Khoa
Điềm đó còn có đoạn y như đã tái hiện cuộc tranh luận giữa Hải Triều, cha của
Nguyễn Khoa Điềm, và Hoài Thanh ngày nào, có điều ngược đời là, Trần Thanh Đạm
vào vai Hải Triều còn Nguyễn Khoa Điềm lại vào vai Hoài Thanh, có những ý ngược
với ý của chính cha mình ngày xưa:
“Người nghệ sĩ có tư chất và thẩm quyền của họ , không
nên buộc họ lệ thuộc quá nhiều vào thực tại”; rồi: “Lâu nay trong quan hệ
giữa nội dung và hình thức chúng ta chỉ chú trọng những mặt nội dung mà xem nhẹ
yếu tố hình thức, như vậy là chúng ta mới đề cập mặt xã hội của văn chương mà
chưa thấy yếu tính của văn học là ngôn ngữ nghệ thuật ”
Trần Thanh Đạm đã phản bác:
“Người nghệ sĩ không phải lệ thuộc quá nhiều vào thực tại, song tôi nghĩ người
nghệ sĩ chân chính nào cũng quan tâm đến con người và cuộc sống, có trách nhiệm
với thực tại chứ không chỉ biết có tư chất và thẩm quyền của mình”.
… Và sau hết Đạm nổi còi báo động:
“Mưu mô “diễn biến hoà bình “ khởi đầu từ trận địa văn
hoá tư tưởng trong đó có văn học nghệ thuật, truyền bá và thẩm thấu các
các quan niệm sai trái về nghệ thuật, nhân danh cái đẹp mơ hồ, trừu tượng để
nguỵ trang sự lừa dối, cái ác, cái xấu, nhằm làm hủ bại đạo đức tư tưởng của
chúng ta và con cái chúng ta”.
Tôi
cũng là một người sáng tác, chưa một lần tôi viết ca ngợi một chiều. Trong thực
trạng xã hội còn nhiều vấn nạn, tôi luôn coi văn chương cảnh tỉnh, phê phán
những mặt xấu của xã hội có trách nhiệm như bác sĩ chữa bệnh có giá trị hơn
loại văn chương “nước đường”. Nhưng tôi vẫn luôn phản đối thứ văn chương “lộn
ngược” của những kẻ nhân danh “đổi mới” mà thực chất chỉ là những kẻ cơ hội mới
mà thôi. Vì vậy tôi thấy Trần Thanh Đạm phê phán việc Nguyễn Khoa Điềm “bênh”
Nguyễn Huy Thiệp như trên hoàn toàn là có lý.
Ngay
từ hồi Nguyễn Khoa Điềm làm Tổng Thư ký Hội Nhà Văn tôi cũng từng phê phán Hội
Nhà Văn đã sai lầm khi “bảo kê” cho Trần Mạnh Hảo phê phán lăng nhăng một loạt
nhà giáo và trao giải cho cuốn phê bình của Trần Mạnh Hảo. Đến hôm nay thì
chứng tỏ tôi và những người từng phê phán Trần Mạnh Hảo hồi ấy hoàn toàn đúng!
Đó
là những chuyện xảy ra ngay thời Nguyễn Khoa Điềm còn đương chức. Đến khi về
hưu thì chuyện ông về hưu là về quê luôn cũng gây sự chú ý. Người quý ông thì
cho như vậy chứng tỏ là ông không tham quyền cố vị. Có điều tại sao trên laodong.com ông lại thốt lên: “Bây giờ
tôi chỉ còn chường cái mặt tôi ra trong thơ” một cách cay đắng thế!
Đỗ
Hoàng, một người tôi từng cho nếu không hiểu sự ẩn dụ trong câu “Sự mất ngủ của
lửa” của NQT thì trí thông minh chỉ như “trâu bò” thôi, nhưng ngược lại lại có
loạt bài trên blog của mình về Nguyễn Khoa Điềm, tuy có đôi chỗ cực đoan nhưng
có nhiều ý rất sắc bén:
“Ông quan to, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không
giấu sự nuối tiếc, bực bội, cả căm tức khi mình bị buộc về hưu giữa chừng… Tiếc
không thay đổi được thời gian, … Sự hồi hưu ở quê là một sự đi đày, chứ không
phải là từ quan về vui thú điền viên như quan xưa:
“Ta dại ta
tìm nơi vắng vẻ
Người khôn
người đến chốn lao xao”
(Nguyễn Bỉnh
Khiêm)
Mà:
“Tóc trắng
như thời gian thích chữ lên trán
Đày anh về quê
Không thể
chạy trốn số phận”
(Nhặt ghi)”
Còn
tôi thì rất ngạc nhiên khi thấy trong bài Nói với nhà văn quá cố, Nguyễn
Khoa Điềm lại viết thế này:
Chắc các anh
sẽ nheo mắt cười
Tha thứ cho
chúng tôi đã sống dai đến vậy
Xả rác ở các
nhà xuất bản nhiều đến vậy
Mà được gì
cho cuộc sống hôm nay?
Như
vậy, không lẽ để giữ được “trọng trách” về Tư tưởng Văn hóa, ông buộc phải cho
“xả rác” ở các nhà xuất bản, và rồi chỉ sau khi về hưu, ông mới sống thật như
câu trả lời trên laodong.com sau đây:
“Thơ thì phải nói thật lòng mình, không thể
giấu mình, không thể nói dối”; “Vì vậy tôi đã nghỉ hưu, nhưng nhiều người
lãnh đạo mong tôi phải thế này thế kia, phải làm thơ ngợi ca, phải hô hào tiến
lên... Vừa rồi khi tôi công bố một số bài thơ trên báo sau khi về Huế, có rất
nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí có người chê trách tôi “đổi giọng”, nhưng tôi
không quan tâm...”
Trên tivi những ngày hôm nay
tràn ngập những lời phát biểu từ Tổng Bí Thư, Chủ tịch nước đến Thủ tướng… về
những quốc nạn đang đẩy chế độ đến nguy cơ “tồn vong” và đang phát động cuộc
chiến chống tham nhũng, tôi tin là chẳng có “nhà lãnh đạo” nào lại có thể ấu
trĩ mong nhà thơ tài danh Nguyễn Khoa Điềm “phải làm thơ ngợi ca, phải hô hào
tiến lên” một cách ngô nghê như thế!
Và
để “nói thật lòng mình”, Nguyễn Khoa Điềm có quan niệm “mới” về sự sáng tạo như
sau:
“Việt Nam chúng ta lại quan niệm văn học là đạo
lý, trách nhiệm... nên gò bó sự sáng tạo cũng như hạn chế sự thổ lộ”. Đạo
lý phụ thuộc tâm, sự sáng tạo phụ thuộc tài, nếu có đủ tâm tài, nhà văn sẽ làm
ra tác phẩm vừa sáng tạo vừa có đạo lý, chứ sao lại có chuyện đối nghịch giữa
đạo lý và sự sáng tạo? Có thể ở thời chiến đã có phần như vậy, ngòi bút của nhà
văn nghiêng về mục đích tuyên truyền, tất cả vì chiến thắng nên chưa được bộc
lộ toàn diện, chứ sau chiến tranh gần 40 năm mà nói văn chương VN vẫn như vậy
là không đúng. Còn việc phê phán văn chương trái đạo lý và vô trách nhiệm hoàn
toàn chẳng phải là chuyện “gò bó sự sáng tạo”!
Trong
giai đoạn thời chiến văn chương nghiêng về hướng “ăn chắc mặc bền”, “đi đều
bước”, những bài thơ được giải nhất trong những cuộc thi văn chương lớn tuy có
giá trị rất quý ở chất liệu thực từ cuộc chiến khốc liệt nhưng với thi pháp còn
rất đơn giản như “Hơi ấm ổ rơm” của Nguyễn Duy, “Tiếng gọi bò” của Văn Lê v.v…
thì Trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm đúng là nổi
trội; chương Đất nước được đưa vào sách giáo khoa và bài Khúc
hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được NS Trần Hoàn phổ nhạc đã giúp chúng
thành nổi tiếng trong công chúng.
Hồi
tôi bắt đầu viết thì thấy trên diễn đàn văn chương người ta hay khen những câu
thơ sau là “tài hoa”:
Con chim đánh
rơi tiếng nhạc
(Hình như của Hoàng Nhuận Cầm)
Phạm
Tiến Duật:
Bao nhiêu
người làm thơ Đèo Ngang
Mà quên mất
con đèo chạy dọc
Hữu
Thỉnh:
Có đám mây
mùa hạ
Vắt nửa mình
sang thu
Trần
Đăng Khoa:
Ngoài thềm
rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng
Còn
Nguyễn Khoa Điềm, người ta cũng khen câu sau của ông:
Nhịp chày ngiêng giấc ngủ em nghiêng
“Giấc ngủ nghiêng” quả là độc đáo, cả
nền thơ trên thế giới chắc chỉ có Nguyễn Khoa Điềm viết thế, cũng như Hoàng Cầm
viết dòng sông Đuống “nằm nghiêng” trong “cuộc kháng chiến” vậy. Tôi cũng thích
những câu thơ có cách biểu đạt độc đáo như thế, chúng như thêm chút màu sắc hư
ảo, lung linh cho thơ mà bản thân tôi cũng có không ít những câu như vậy, kiểu
như: “Anh xa em gần nửa vòng Trái đất/
Nỗi nhớ cũng cong theo dáng Địa cầu”. Nhưng nếu tỉnh táo xem xét, những câu
thơ đó thực chất chỉ thuần miêu tả, khi dịch sang tiếng nước ngoài thì chúng
lại thành vô nghĩa. Mà phẩm chất cao quý nhất của thơ “vốn dĩ tải đạo” nên
những câu thơ có giá trị đích thực phải là những câu chất chứa những ý tứ cao
sâu.
Còn
về thơ “đổi mới” của Nguyễn Khoa Điềm viết sau khi về hưu? Lúc ông “không thể
nói dối” mà “nói thật lòng mình”? Quả là lúc này thơ ông chắt lọc, lắng đọng,
giàu chất suy tư hơn trước những vấn đề nóng của thời đại. Tiếc là những vấn đề
này lại liên quan đến chuyện đúng sai, nếu chỉ có tài không thôi thì chưa đủ mà
còn cần phải có trí cao, tâm sáng nữa. Tại sao chính Nguyễn Khoa Điềm lại cho
biết: “có người chê trách tôi “đổi giọng”? Phải chăng những người đó đã “chê”
ông khi trong bài viết tặng Cù Huy Hà Vũ, ông đã cho “xiềng xích” cầm tù Hà Vũ
hôm nay cũng như xiềng xích của Thực dân Pháp năm nào cầm tù cả dân tộc ta?
Phải chăng ông cho Hà Vũ đúng khi cho việc treo cờ Đảng trong những ngày quốc
lễ là phạm pháp; đề nghị xóa bỏ ngày 30-4 và ta đã xâm lược Cămpuchia? Trước
đây, ông đã từng viết những câu thơ ca ngợi đất nước thì bây giờ ông lại viết “đất
cát thì có giá” còn “đất nước thì mất giá”! Trong khi thực tế trước đây dân ta
đã “mất nước” thì còn gì để mà “có giá” hay “mất giá”? Xem chừng chắc do ông “mải
mê hoạn lộ” quá như tâm sự trong một bài thơ nên ông chưa tìm hiểu Đạo Phật;
ông còn “chấp” nhiều quá nên mới làm thơ về chuyện được mất, thua thiệt như thế
này: “Giữa thế giới không nhiều may mắn/ Ta học cách vừa lòng với mình”;
và trong Nói với nhà văn quá cố, ông cũng viết: “Và yên
lòng mình chưa thua thiệt/ Ngày cuối năm buồn tẻ/ Tôi may mắn hơn các anh/ Còn
gặm được khúc xương chớm mùi hóa thạch…”.
Một
đời "cống hiến" của ông, cái an tâm lúc về già chỉ là thấy mình
"chưa thua thiệt" và may mắn của ông chỉ là "Còn gặm được khúc
xương chớm mùi hóa thạch" thôi sao?
Bắt
đầu vào tuổi “xưa nay hiếm”, e rằng “bàn tay mẹ” của nhà thơ đã mỏi từ lâu rồi,
mà nỗi e ngại của ông thể hiện trong bài “Mẹ và quả” ngày nào vẫn còn nguyên đó:
Hoảng sợ ngày
bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn
một thứ quả non xanh?
(Mẹ và quả).
TPHCM
28-10-2012
ĐÔNG LA