ĐÔNG LA
VÀI NÉT VỀ MỘT CUỘC HỘI THẢO
VÀ THAM LUẬN CỦA ĐÔNG LA
Thế là
cuộc Hội thảo toàn quốc “Văn học nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con
người VN” của Hội đồng Lý luận Phê bình VHNTTƯ kéo dài một ngày rưỡi (từ sáng
ngày 3-10-2015) đã kết thúc. Tôi là khách mời chính thức, được mời viết tham
luận, được in và được trả nhuận bút, được quà biếu (chiếc áo) và được Thành ủy
TPHCM và Hội đồng mời dự tiệc chiêu đãi vào hai buổi trưa. “Một miếng giữa làng
bằng một sàng xó bếp” thật vinh dự nhưng tôi đều không ăn vì đơn giản một điều là
người biết tôi rất nhiều, người quý mến không ít, kể cả những vị lãnh đạo cao
nhất của Hội đồng đều biết, đều đã gặp và có những cuộc gọi điện thoại nói
chuyện với tôi, nhưng bạn thân thì lại không có ai. Mục đích ăn để vui chứ
không phải để no, mà không có bạn thân ăn cùng thì khó mà vui nên cả hai bữa
tiệc tôi đều “chuồn”.
Kết quả Hội thảo chủ yếu là tập sách
in gần 100 tham luận, còn trong cuộc hội thảo có ngày rưỡi, lại dành nhiều thời
gian cho nghi lễ nên chỉ có một số tham luận được chọn trình bầy mang tính chất
báo cáo, trình diễn. Hình như có sự ưu tiên cho các nhà văn, nhà phê bình, các
GS cao tuổi, đầu tóc đều “phơ phơ” cả và phụ nữ. Tôi thấy các tham luận được
chọn chưa trúng trọng tâm lắm, nhiều bài lê thê, chung chung, công thức. Người thì thể hiện tính dạy dỗ của GS, tính khoe kiến thức của nhà nghiên cứu sách vở đi định nghĩa khái niệm "nhân cách", người thì mang tính quản lý đi nêu thực trạng suy thoái nhân cách, nêu
nguyên nhân suy thoái nhân cách. Nhưng chủ đề của hội thảo là thực trạng tác
động của Văn học nghệ thuật đối với nhân cách như thế nào thì chỉ được nói đến rất
ít. Nhiều người nói tội ác gia tăng do chiếu nhiều phim ảnh bạo lực nước ngoài.
Cái này do quản lý văn hóa chứ không phải nhiệm vụ của văn chương nghệ thuật. Riêng
tôi thấy có một thực trạng nguy hiểm, đó là chuyện có không ít nhà văn và nghệ
sĩ tên tuổi là những người bất mãn, lợi dụng dân chủ, nhân quyền, tiến bộ; bấu
vào những sai trái, tệ nạn của xã hội, lôi kéo quần chúng, kích động sự chống
đổi thể chế, làm loạn. Đã có những người bị bắt. Họ đã thành lập cả “Văn đoàn”
riêng. Nhưng trên diễn đàn của Hội thảo hoàn toàn không đả động đến mà chỉ có vài
ý kiến chung chung. Còn tôi đã chọn viết tham luận về hai điều sai trái làm cho
văn chương có ảnh hưởng rất xấu đến tư tưởng và nhân cách, đó là bút pháp của
văn chương và phản ánh lịch sử trong văn chương. Bài được in nhưng không được
chọn trình bầy. Vì quá đông, cuộc hội thảo bao gồm tất cả các hội Văn học Nghệ
thuật của cả nước, phải nhường cho các vị đầu “phơ phơ” thì tôi cũng vui lòng thôi, nhưng tôi sẽ rất buồn nếu
bài của tôi vì nói thẳng nói thật mà không được chọn. Tôi cũng thấy có gì không phải khi phải ngồi nghe
những người này tham luận về xây dựng nhân cách. Như Văn Công Hùng, một người
từng ca ngợi Nguyễn Quang Lập, một nhà văn đã bị bắt và nhận tội, là: “Ở nước Nam này, nếu hỏi ai viết nhiều, làm
việc nhiều, lao động nghiêm túc, tôi không ngần ngại trả lời: Nguyễn Quang Lập”.
Thực chất cái “nghiêm túc” của Nguyễn Quang Lập khi bênh vực Huy Đức viết Bên
thắng cuộc là coi chuyện cai ngục của phía VNCH đóng đinh vào đầu, bẻ răng các
tù binh là bộ đội của ta là chuyện bình thường, không độc ác cái gì cả, chiến
tranh là thế. Blogger Hòa Bình đã viết một bài lấy đầu đề là Địt mẹ
thằng Lập. Như Lại Nguyên Ân, người luôn bảo vệ chuyện
Nguyễn Huy Thiệp viết sai trái về lịch sử. Như Inrasara, người cổ súy và bảo vệ khuynh hướng sáng tác Hậu hiện đại,
trong đó có nhóm Mở miệng.
Còn theo tôi, thời hiện đại, các cuộc hội thảo nên
coi trọng hành động thực tiễn hơn, nên thiết thực hơn, bớt đi tính công thức,
nghi lễ. Được vậy vị trí của Hội đồng sẽ vững hơn và uy tín sẽ ngày một nâng cao hơn. Có một tham luận nói đúng,
từ trước tới nay chưa có một tổ chức nào cao, bao trùm tất cả các hội và tổ
chức văn học nghệ thuật như Hội động Lý luận Phê bình VHNT Trung Ương. Vậy
nhiệm vụ là rất cao cả và lớn lao nhưng làm tốt được trọng trách cũng khó khăn
không ít.
Vì thế, cuộc Hội thảo đã được các vị lãnh đạo cao nhất quan
tâm. Nguyên TBT Lê Khả Phiêu cả sáng khai mạc và buổi tổng kết đều có mặt và
phát biểu. Chủ tịch Trương Tấn sang cũng tham dự và phát biểu trong buổi tổng
kết. Tôi chụp được một hình vui, ông phát biểu mấy ý từ nghị quyết của Đảng mang
tính chỉ đạo, đại khái như “cần xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”…, tức thực chất ai cũng
biết, nhưng cả hội trường lặng đi còn cả đoàn chủ tịch cũng như bị một lực hút vô
hình hút về hướng ông:
Quyền lực có sức hút cũng là lẽ thường tình trong đời sống
phàm trần. Riêng tôi thì tôi coi trọng lòng tốt và khả năng của con người hơn,
bất kể người đó là ai. Đúng lúc mọi người đang say sưa như vậy tôi đã “chuồn”
về để sửa soạn đón cô Vũ Thị Hòa đến nhà chơi. Vì với riêng tôi và gia đình, cô
Vũ Thị Hòa quan trọng hơn ông Trương Tấn Sang, dù tôi cũng rất tôn trọng ông
Sang, từng viết minh oan cho ông trong vụ dư luận đểu cho ông “copy” bị giám
thị là một cô giáo bắt và đã cho người “giết” cả cô giáo đó!
Sau đây là vài hình ảnh trong Hội thảo:
(Nhà văn Đông La
“phát sáng”)
(PGSTS Hồng
Vinh, nguyên Ủy viên TƯ ĐCSVN,
Chủ tịch Hội đồng, đọc báo cáo)
(Nhà phê bình
Chu Giang Nguyễn Văn Lưu, một “chiến hữu” của tôi, từng bị Phạm xuân Nguyên cho
là “phê bình chỉ điểm” đang tham luận. “Bố” diện một bộ bà ba gụ, vai đeo túi
vải, tóc bạc, râu dài như một đạo sĩ ).
Sau đây là bản tham luận được in, không được đọc của tôi:
BÚT
PHÁP VĂN CHƯƠNG VÀ
PHẢN
ÁNH LỊCH SỬ TRONG VĂN CHƯƠNG
ĐÔNG LA
“Văn dĩ tải đạo” là lời dạy của tiền
nhân đối với việc viết lách đã trở thành nguyên lý cơ bản nhất mà nội dung
cuộc hội thảo hôm nay “Văn học-nghệ
thuật với việc xây dựng nhân cách con người” cũng chính là phần chủ yếu
của nguyên lý ấy.
Nhà văn, nhà sư phạm văn chương uyên bác và tinh tế Paux-tov-xki,
trong cuốn Bông hồng vàng, đã
viết về nghề văn:
“Nghề văn không phải là một nghề thủ công
và cũng không phải là một thứ công việc. Nghề văn là sứ mệnh… Từ "sứ mệnh"
có chung một gốc với từ "tiếng gọi". Không ai hô hào con người đi
làm chuyện vặt. Người ta chỉ kêu gọi con người làm tròn bổn phận và thực hiện
những nhiệm vụ khó khăn. Vậy thì cái gì thôi thúc nhà văn đến với cái lao
động tuyệt mỹ nhưng đôi khi cay cực kia? Trước tiên là tiếng gọi của trái tim.
Tiếng gọi của lương tâm và lòng tin ở tương lai không cho phép nhà văn đích
thực sống trên trái đất như một bông hoa điếc và không truyền đạt hết mình cho
đồng loại tất cả cái phong phú của tư tưởng và tình cảm đang tràn ngập chính
tâm hồn nhà văn”.
Một trong những phẩm chất quan trọng của việc sáng tác là
sáng tạo, mà sáng tạo lại phụ thuộc vào quan điểm đổi mới. Từ lâu đã có rất nhiều
sự hô hào và thực hành đổi mới văn chương, trong đó có những quan điểm sai
trái không ít. Đó là những quan điểm liên quan đến lý luận văn học và sự phản
ánh lịch sử trong văn chương.
***
Trước hết tôi xin bàn đôi nét về lý luận văn học.
Sự sáng tạo là làm ra cái mới, những cái
chưa có thì ai cũng biết. Trong khoa học có sự phân định rõ những cấp độ khác
nhau như phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích. Phát minh là việc đưa ra
những quy luật mới có tính nền tảng; sáng chế, giải pháp hữu ích là những
sáng tạo ứng dụng cụ thể trong đời sống. Trong khoa học công nghệ làm ra cái
mới luôn phải tuân theo quy luật nếu không sẽ không cho ra kết quả, như làm
không đúng thì chiếc xe không thể chạy, máy bay không thể bay được. Nhưng
trong văn học nghệ thuật lại không như thế. Có những sáng tạo dựa trên cơ sở
của tri thức và đạo lý, ngược lại, tiếc là không ít, cũng có nhiều quan điểm
sáng tạo lại dựa trên sự phá vỡ tất cả các quy chuẩn theo lẽ thường về thẩm
mỹ, đạo lý và cả về ngôn ngữ. Khi ấy tiêu chuẩn của cái đẹp lại là sự không
hài hòa, sự không giống, thậm chí là cái xấu.
Có
những quan niệm về cái mới, về tài năng và giá trị tác phẩm của một số người được
coi là “cấp tiến” thường cực đoan và không toàn diện. Có tác giả, tác phẩm được
họ đẩy lên tột cùng, có tác phẩm được ca ngợi chỉ vì cách viết mà không để ý
gì đến nội dung, bất kể đúng sai, tốt xấu. Với một số người, đổi mới đồng nghĩa
với việc trước ca ngợi thì nay phản kháng; trước êm đềm thì nay giật cục; trước
nghiêm trang thì nay giễu cợt, khinh bạc; trước tế nhị, lịch sự thì nay nanh
nọc, thô tục… Theo tôi, đổi mới như vậy mới chỉ là đổi mới cái vỏ văn chương,
khi không khám phá được điều gì nghiêm túc, sâu sắc, lớn lao thì gây ấn tượng
bằng những điều lập dị, ngược ngạo, sản phẩm của trí tuệ nông cạn nhưng hãnh
tiến. Văn chương chân chính muôn đời vẫn luôn dựa trên bản năng thẩm mỹ mang
tính người. Theo tôi, đổi mới thực chất nghĩa là phải làm cho văn chương “mạnh”
hơn, biểu đạt cao hơn, sâu rộng hơn, đúng hơn và có tác động tích cực hơn đến
hiện thực cuộc sống; biểu cảm sâu hơn, toàn diện hơn cuộc sống tinh thần con
người.
Chuyện
lập dị, lộn ngược quan điểm thẩm mỹ có lẽ xuất phát từ chuyện vọng ngoại. Ở Pháp
và mấy nước Châu Âu, người ta từng thi nhau đưa ra đủ thứ trường phái, rồi ai
cũng tự cho mình là chân lý nghệ thuật. Khi Chủ nghĩa Ấn tượng ra đời các
hoạ sĩ cho rằng phải vẽ ngoài trời mới thu giữ được những khoảnh khắc thoáng
hiện của hiện thực sống động. Picasso chê: “Làm sao cái chốc lát đổi thay chập chờn bên ngoài sự vật lại có thể
là sự thật duy nhất mà người nghệ sĩ một đời theo đuổi”. Và, Chủ nghĩa Lập thể hình
thành, với ý muốn thể hiện được “cái
bên trong” và cái “nhiều mặt”
của sự vật, với một ngôn ngữ hội họa là những hình khối, những mặt phẳng. Rồi
Chủ nghĩa Lập thể cũng lại bị chê là đã coi thường hình thể hài hoà của
tự nhiên. Chủ nghĩa Đađa, một chủ nghĩa “phá phách”, cho nghệ thuật chính là sự phá vỡ cái cũ, chống
lại trật tự tự nhiên để tạo ra một trật tự mới, trật tự của những cái phi lý.
Nhưng đến lượt Chủ nghĩa Siêu thực, hậu thân của Đađa, cũng
lại bị chê bởi một trong những chủ soái của một chủ nghĩa khác: Chủ
nghĩa Hiện sinh, Camus viết: “Thật
là một cuộc nổi loạn thực sự… Sự phủ nhận của nó với mọi cái là rõ nét, sắc
bén và đầy tính khiêu khích”, v.v…
Như
vậy không có cái nào là chân lý nghệ thuật cả! Phải chăng sự thay đổi các trường
phái cũng như “mốt” thời trang? Có điều cần phải biết nhận ra cái giới hạn mà
vượt qua nó là đồi trụy, là băng hoại! Thật e ngại khi sự quái dị của con
người không chỉ dừng lại ở sự lộn ngược thẩm mỹ mà còn có cả sự lộn ngược thiện
ác.
Vì
thế, ta thấy quan điểm sáng tạo giữa khoa học và nghệ thuật; quan điểm thẩm
mỹ giữa đại đa số và thiểu số “người đặc biệt”, có phần ngược nhau. Có điều
nếu khoa học cũng như nghệ thuật coi sáng tạo là phá vỡ quy chuẩn, là sự lộn
ngược thì không biết thế giới này sẽ đi tới đâu? Ngành lai tạo trong sinh học
sẽ chỉ cho ra những quái thai mà thôi.
Lê
Đạt là một người từng nhiệt thành truyền bá cái tinh thần sáng tạo nghệ thuật
dựa trên cơ sở khoa học, ông viết: “Lý
thuyết về những phô tông đã khẳng định tầm quan trọng hàng đầu của những cấu
trúc gián đoạn thay thế những cấu trúc liên tục tăng chế ngự khoa học cũng
như thơ ca trong nhiều thế kỷ”. Nhưng tính liên tục và
tính gián đoạn của sự phát xạ ánh sáng chỉ khác nhau như một sợi
dây liền và một sợi dây đứt đoạn, nên việc Lê Đạt tưởng tượng ra “nó chế ngự thơ ca trong nhiều thế kỷ”
thực ra là một điều không có. Người ta cũng đã dựa vào tính bất định, tính
phi tuyến tính của chuyển động trong Cơ học lượng tử làm cơ sở cho việc sử
dụng tính phi logic của ngôn ngữ, gây ra sự khó hiểu. Vì thế mới có quan điểm
cho rằng cần phải đổi mới thơ ca bằng cách “phá vỡ những quy luật
nghiệt ngã nhiều khi bảo thủ của ngữ pháp”. Chính vì thế mới có loại
thơ sai ngữ pháp ngô ngô ngọng ngọng mà với người đọc bình thường thì không
tài nào hiểu nổi tại sao lại có loại “thơ” như thế. Có điều cơ học lượng tử
thuộc thế giới vi mô của các hạt cơ bản, còn ngôn ngữ là một trong những sản
phẩm ý thức của não người, tức thuộc về thế giới của các chất chứ không phải
của các hạt. Cũng như người ta chỉ ăn chất bột chứ không ai có thể ăn được
hạt cơ bản. Ngữ pháp thực chất chỉ là quy tắc của ngôn ngữ. Khi sử dụng ngôn
ngữ sai thì hoặc do khả năng ngôn ngữ, hoặc do trạng thái tâm thần người sử
dụng, chứ hoàn toàn không thể có chuyện diễn tả các vấn đề một cách “sai ngữ pháp” thì sẽ sâu sắc toàn diện
hơn. Không ai có thể đưa ra được một thí dụ về điều này. Trong tác phẩm, ngôn
ngữ nhân vật có thể sai ngữ pháp, còn nhà văn viết tác phẩm mà sai ngữ pháp
là do học dốt. Những điều càng phức tạp người ta càng phải viết cho chuẩn mực
hơn. Nếu không sẽ có chuyện ông nói gà, bà hiểu vịt.
Diễn
đàn từng nóng lên với vụ luận văn thạc sĩ của Nhã Thuyên (Đỗ Thị Thoan) về
thơ của nhóm Mở Miệng được điểm 10 mà tôi đã cho nó giống như "một củ đậu" ném vào nền giáo dục Việt
Nam. Về Chủ nghĩa Hậu hiện đại và nhóm Mở Miệng tôi đã viết: “Tinh thần hậu hiện đại đã và
đang phảng phất đâu đó trong văn chương Việt Nam cũng là lẽ thường tình,
nhưng không có tài, không hiểu biết đến nơi đến chốn mà mê muội bắt chước,
thì chỉ làm ra được những bản sao tồi mà thôi. Cũng đã có những nhóm cực đoan
đúng là đã làm ra được văn chương hậu hiện đại thứ thiệt nhưng tiếc là chỉ
mới ở dạng thấp nhất của nó. Ví dụ như tính phản kháng, phản kháng cao cấp
tức là phải có khả năng phân tích sự yếu kém của cái cũ và đưa ra được cái
mới tốt hơn thay thế, còn chỉ chống đối suông thì quá đơn giản. Có người đã
mạnh miệng tuyên bố chúng tôi viết thế là để chống đối đấy. Có điều, sự chống đối đó không
phải là phẩm chất cao quý để vượt qua chủ nghĩa hiện đại mà chỉ đơn giản là
“quậy”, cái thái độ không cần đến nghệ sĩ mà những kẻ bất hảo vô học còn làm
tốt hơn. Có quá nhiều sự thô bỉ, bẩn thỉu, nhầy nhụa và hằn học, thậm chí lưu
manh, trong văn chương “hậu hiện đại” này. Trong văn chương có hỗn loạn, thô
tục, bẩn thỉu, bởi cuộc sống có phần như thế, nhưng coi chúng là “đặc trưng”,
là “thi pháp” thì đã phi lý, phi mỹ, phi luân và cuối cùng là phi nhân hóa
những đặc tính của văn chương. Bởi đã là con người bình thường ai cũng biết
phân biệt tốt với xấu, sạch sẽ với bẩn thỉu, lịch sự với thô tục… người ta
chỉ để thùng rác chỗ khuất lấp chứ có ai lại trưng ra trong phòng khách, mà
văn chương như phòng khách của tinh thần, không thể quăng bừa rác, uế tạp và
thô bỉ lên đó được. Đã có những nhà phê bình, những trang web mang danh ở xã
hội hậu hiện đại văn minh đề cao loại văn chương đó, cố công độc đáo hóa cái
lập dị, nghiêm túc hóa cái bông phèng, sâu sắc hóa cái vô nghĩa, cao siêu hóa
cái tầm thường, và cuối cùng là nhân bản hóa cái phi nhân tính, bởi đã kỳ
công đi phân tích mùi thơm của thối rữa, tô vẽ màu sắc cho rác rưởi; cả hai,
cả sự sáng tạo và thẩm định, hoàn toàn có thể nói thực chất chỉ là sự xả rác
trí tuệ mà thôi”.
***
Về
mối liên quan giữa lịch sử và văn chương.
Một
trong phương pháp để bồi đắp nhân cách cho con người đó là sự giáo dục về
tình nhân ái và tình yêu quê hương đất nước, trong đó giáo dục về lịch sử đất
nước là quan trọng nhất. Vì thế mà ngành giáo dục mới có môn lịch sử và sự hiểu
biết về lịch sử của học sinh đang là vấn đề nóng trên diễn đàn hôm nay. Không
có nền văn chương nào không liên quan đến lịch sử. Nếu lịch sử được văn
chương chắp cho đôi cánh sẽ có sức cảm hóa vô cùng mạnh mẽ.
Tiếc
là trong sáng tác văn chương nước ta có quá nhiều chuyện sai trái liên quan
đến lịch sử mà quan điểm về lịch sử của Nhà văn Nguyên Ngọc có thể là dẫn
chứng sống động nhất.
Trong
bài Không thể lẫn lộn lịch sử với chính
trị đăng trên VietNam.net, Nguyên Ngọc
viết: “Hẳn ai cũng biết trong các môn
học ở trường hiện nay, bị học sinh sinh viên chán nhất, ghét nhất… kết quả tất
cũng tệ nhất là môn sử và môn văn … Vì sao? Rất đơn giản, và chắc cũng không
ít người biết rõ nhưng vì lý do này khác đã không nói ra. Thôi thì cho tôi
nói th ật vậy: vì đó là những môn bị chính trị hóa nhiều nhất, nặng nề nhất!
…”. Nguyên Ngọc cho chúng ta trong chiến tranh đã nhìn sai về sự xâm lược,
cho sự căm thù giặc là “không bình thường”;
rồi cho dạy lịch sử không nên “bồi đắp
chủ nghĩa yêu nước” nữa vì bị chính trị hóa! Không nên ca ngợi các Bà mẹ
Việt
“Trong cuốn sách rất hay “Nếu đi hết biển” của
mình, đạo diễn Trần Văn Thủy có dẫn lời một nhà văn cựu chiến binh Mỹ, Wayne
Karlin, nói rằng chiến tranh đắp lên khuôn mặt của người ở bên kia chiến tuyến
một chiếc mặt nạ, chiếc mặt nạ hì hợm của kẻ thù. Để cho ta khinh bỉ, căm thù
và tiêu diệt. Nhiệm vụ của văn học hôm nay là gỡ chiếc mặt nạ ấy ra, trả lại
khuôn mặt người cho con người, để ta nhận ra khuôn mặt nguời của nhau”.
Tôi
đã phản bác: “Mặt nạ là cái không thật nhưng
nước ta bị xâm lược là sự thật, dân ta thịt xương tan nát, nhà cửa ruộng vườn
tan hoang là sự thật, những người gây ra những điều đau khổ đó cho chúng
ta là người thật chứ không phải là những người đeo mặt nạ trong các trò chơi.
Vì thế dân ta coi họ là kẻ thù cần phải tiêu diệt để bảo vệ người và nhà của
mình là lẽ tự nhiên”.
Khởi
thủy, Nguyên Ngọc từng cho đăng và tung hô những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp
liên quan đến lịch sử. Trong đó, NHT đã miêu tả Vua Quang Trung như tay du
côn và cho “Nguyễn Ánh mới là nòi vương
giả”.
Để
bênh vực Nguyễn Huy Thiệp, Lại Nguyên Ân cho rằng “đọc Văn phải khác đọc Sử”. Tôi cho rằng, Văn là nghệ thuật tất
phải khác Sử là ghi chép. Có điều nghệ thuật chân chính, với những thủ pháp,
cuốn hút người đọc hiểu biết sự thật sâu sắc hơn; còn nghệ thuật lại đi bôi
đen sự thật thì là thứ nghệ thuật bậy bạ. Lại Nguyên Ân khuyên người đọc phải
biết phân biệt phát ngôn của nhân vật với ý đồ tác giả. Đúng vậy, nhưng tác
giả có tài có tâm sẽ viết cho người đọc phân biệt được đúng sai, như người
“chơi rắn” điều khiển được lũ rắn độc, còn nhà văn dốt và ác thì viết đầu độc
người đọc như người chơi rắn để rắn cắn người.
Nhà
văn Hồ Phương cho Nguyễn Huy Thiệp có “cái
nhìn xã hội thiên về đen tối”; “Về quan
hệ văn-sử… Có người nói… cũng có thể có một Quang Trung trong văn học với tính
cách ngược lại… đó là một kiểu ngụy biện, và … chưa hiểu biết đầy đủ về văn
học” (Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, tr. 452). Đỗ Văn Khang: “Đặc biệt cái tâm mà không sáng thì không
thể làm văn được” (tr. 242). Mai Ngữ cho Nguyễn Huy Thiệp: “đã lăng nhục cha ông, tổ tiên mình”
(tr. 426). Tạ ngọc Liễn với con mắt của nhà sử học có những phản bác cụ thể
hơn: “Việt
Sau việc là bà đỡ cho văn chương Nguyễn Huy Thiệp,
với tư cách là Trưởng ban Sáng tác HNV, Nguyên Ngọc đấu tranh
quyết liệt để cuốn Nỗi buồn chiến
tranh của Bảo Ninh được giải thưởng, với lời ca ngợi: "Đây là cuốn tiểu thuyết về một cuộc chiến đấu
của một con người tìm lẽ sống hôm nay. Bằng cách chiến đấu lại cuộc chiến đấu
của đời mình”.
Nguyên Ngọc viết vậy là hoàn toàn theo cảm tính
tùy tiện, chẳng ăn nhập gì đến tác phẩm cả. Bởi cái sự “chiến đấu lại” của “một con
người” mà Nguyên Ngọc nói ở trên lại chỉ là “dầm mình trong rượu” và “làm
cách mạng văn chương” bằng cái nhìn tâm thần về cuộc chiến: “Tôi như sẵn sàng nhập thân trở lại với
cảnh lửa, cảnh máu, những cảnh chém giết cuồng dại, méo xệch tâm hồn và nhân
dạng. Thói hiếu sát. Máu hung tàn. Tâm lý thú rừng. Ý chí tối tăm và lòng dạ
gỗ đá”.
Về
“Nỗi buồn chiến tranh” Phạm Xuân Nguyên cũng viết: “Cuộc chiến được mô tả trong tác phẩm này
không mang kèm một định ngữ nào nó là chiến tranh với tất cả thảm trạng
nghiệt ngã của nó, ở đó những người lính là những con người bị vất vào cuộc
chiến, buộc phải bắn giết nhau”.
Tôi
phản bác: “Điều tối thiểu người cầm bút
ai cũng biết “Văn chương phải tải đạo”, mỗi người khi ngồi viết ít nhiều ai cũng
thấy mình như phải làm một sứ mệnh, một cán bộ nghiên cứu ở Viện Văn học như
Phạm Xuân Nguyên lại đi đồng nhất cái thiện với cái ác thì nghiên cứu cái gì?!”
Phạm
Xuân Nguyên cũng cho biết thành quả của “đại
sứ Nỗi buồn chiến tranh” đã giúp cho người ngoài hiểu sai về con người và
đất nước chúng ta như sau: “Gần đây nhất,…
Dennis Mansker… khi đọc NBCT. …ông choáng
váng và xúc động. Ông viết: "Đây là một bức tranh trung thực và tàn nhẫn
đến kinh ngạc về bi kịch của một người lính Bắc Việt bị tê liệt hết nhân tính
của mình sau mười năm tham chiến…”. Tôi viết: “Sau chiến tranh, có thể có những chấn thương thần kinh về bệnh học,
còn chấn thương tinh thần mang tính ý thức hệ để rồi tuyệt diệt niềm vui
sống, như Bảo Ninh viết, chỉ là vô cùng hãn hữu. Bản thân cựu lính chiến Bảo
Ninh cũng còn rất khôn ngoan, chẳng có “tê liệt” cái quái gì hết, không hiểu
vì cái gì mà ông viết để cho người ngoài hiểu đồng đội của mình “tê liệt hết
nhân tính” như một lũ súc vật vậy?!”
Vì
được Bảo Ninh biện hộ, ở Mỹ người ta đưa Nỗi
buồn chiến tranh vào giảng dạy và
ca ngợi lên tận mây xanh cũng là có lý thôi, theo Phạm Xuân Nguyên: “Đánh giá cao nhất NBCT ở Mỹ có lẽ là ý
kiến của Leif A. Torkelsen (Columbus, OH United States) khi ông cho đây là
cuốn tiểu thuyết chiến tranh hay nhất thế kỷ XX. Torkelsen viết: "… đây
là một tác phẩm ngoại hạng … Cuốn sách tràn đầy những suy tư thấu suốt về
Việt
Tôi
viết: “Cái chuyện tôn vinh một tác phẩm
giúp cho người ngoài hiểu sai về dân tộc mình và viết không cần đúng sai để biện
hộ cho đối phương, buộc tôi phải đặt câu hỏi: Người ta làm vậy phải chăng vì
ngóng đợi một cái gì đó ngoài văn chương? Bảo Ninh và những người tôn vinh đã
hành động làm như chính Việt
Chúng
ta đã khép lại quá khứ hướng đến tương lai. Còn nhiều điều chưa hoàn thiện ở cuộc
sống hôm nay, chính là nỗi buồn hôm nay chứ không phải nỗi buồn chiến tranh,
nó do những cái khác chứ hoàn toàn không phải do cuộc chiến bảo vệ đất nước.
Quả
ông Trời có mắt, để đối trọng với những tác phẩm bôi đen hoặc lộn ngược lịch
sử đã lẻn được ra ngoài bằng ngõ tắt, đem đến thị trường tinh thần thế giới
còn trắng đen lẫn lộn những hàng hóa đặc biệt, sản phẩm của cuộc “đổi chác”
chứ không phải “đổi mới” văn chương, đã đổi những thứ vô giá thiêng liêng như
niềm tự hào dân tộc, sự chính nghĩa, cái thiện … lấy những cái có giá cụ thể
hơn, cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm đã xuất hiện. Người nữ bác sĩ đã như một
nàng tiên, không chỉ là đại sứ mà là một thiên sứ, chị cũng đến được với thế
giới bằng đại lộ nhân bản, mang đến những đức tính nhân văn nhất của dân tộc
Việt, đó là tình yêu Tổ Quốc, sự hy sinh vì chính nghĩa, lòng vị tha, và lòng
nhân ái vô bờ của nữ bác sĩ anh hùng. Dù chỉ là một cuốn nhật ký, không phải
tác phẩm sáng tác, nhưng nếu có một giải cao quý hơn Nobel, thì tôi sẽ đề cử
tác phẩm “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”,
một tác phẩm không chỉ viết bằng máu mà bằng cả sự sống về lòng nhân ái bao
la của con người Việt Nam!
***
Vì
thời gian có hạn, dựa trên thực tiễn sáng tác ở nước ta, tôi xin tham gia hai
ý chủ chốt của việc sáng tạo văn chương: bút pháp và nội dung như vậy. Cả hai
đều liên quan mật thiết tới việc xây dựng con người. Nếu đổi mới bút pháp về
phía băng hoại, nếu bôi đen và lộn ngược lịch sử, thử hỏi văn chương sẽ xây
dựng nhân cách con người thành loại người gì?
TP
Hồ Chí Minh 6-9-2015
ĐÔNG LA
|