ĐÔNG
LA
NHỮNG
ĐIỀU CẦN BÀN CỦA
MỘT
CÔNG TRÌNH TRIẾT HỌC
(ĐỌC
TƯ TƯỞNG
PHƯƠNG ĐÔNG
GỢI
NHỮNG ĐIỂM NHÌN THAM CHIẾU)
Cố giáo sư Cao Xuân Huy, trong lời giới thiệu của
giáo sư Nguyễn Huệ Chi về tác phẩm: “TƯ TƯỞNG PHƯƠNG ĐÔNG GỢI NHỮNG ĐIỂM NHÌN
THAM CHIẾU”, đã được người giáo sư-học trò của mình gọi là một “Người hiền”, tức
một bậc thánh nhân. Chỉ với tư cách là một trong hai giáo sư đầu tiên của trường
đại học Văn Khoa đầu tiên, thầy của 7 sinh
viên đầu tiên mà sau này đều là những bậc đại trí thức, thì việc đánh giá của
giáo sư Nguyễn Huệ Chi về cụ như vậy cũng không phải là quá đáng.
Có điều, nếu
trong tác phẩm “TƯ TƯỞNG PHƯƠNG ĐÔNG GỢI NHỮNG ĐIỂM NHÌN THAM CHIẾU” chỉ có phần
biên khảo và những giáo trình giảng dạy thì không có gì phải bàn cãi nhiều, nhưng
nó lại còn có cả phần cụ đã viết từ rất lâu mà cũng không định công bố về triết
học và khoa học, thì lại cần phải xem xét . Nhưng trước khi viết, tôi cứ băn khoăn
mãi. Nhưng thiết nghĩ, với khoa học, nó chỉ
có tính đúng sai, và trong lịch sử phát triển khoa học nói chung, thì người đi
sau chỉ ra cái sai của người đi trước là điều rất bình thường.
Trước hết cần phải xác nhận rằng, công trình của
cụ Cao Xuân Huy không phải là một phát minh triết học, không phải là việc thiết
lập một trường phái, một chủ nghĩa mới trong triết học, mà chủ yếu là một công
trình biện giải và đúc rút những kết luận. Thế nhưng, giáo sư Nguyễn Huệ
Chi, ngoài việc đánh giá cụ là “một bậc
minh triết”; là một nhà “Đạo học”; còn cho cụ đã có một “công trình triết học”, có một “hệ thống về phương pháp luận”, đã lý giải
được “cuộc khủng hoảng tư tưởng của triết học châu Âu hiện đại”... tránh được
cái “đường mòn của tư duy nhân loại”, để “ngõ hầu có thể rút ra một số đặc trưng
chung nhất đã khu biệt nên các phương thức tư duy điển hình mà đến nay con người
vẫn còn lấy làm phương pháp.Có thể gọi đó là loại hình học về phương pháp tư
duy triết học...”, tránh cách “tập hợp các trào lưu tư tưởng theo hai dòng phổ
biến tâm và vật, mà tập hợp chúng trong hai hệ thống mới, dựa trên hai phương
pháp tư duy khác biệt nhau về loại: Phương thức “chủ biệt” và phương thức “chủ
toàn”". Trong đó, phương thức “chủ toàn” lấy “tư duy tuệ tính” làm nền tảng, còn phương
thức “chủ biệt” lấy “tư duy lý tính” làm nền tảng. Từ tư tưởng cơ bản đó, cụ đã
kết luận rằng, phương thức nhận thức thế giới của phương Đông là đúng đắn và phương Tây là sai lầm. Cụ cũng đã đưa ra những quan điểm
cụ thể về: “không gian, thời gian”; về các cặp phạm trù cơ bản khác; về tri giác; về
nguồn gốc của ý thức... Nói chung, đều là những vấn đề rất lớn của tư duy nhân
loại.
Đi sâu vào cụ thể, công trình triết học của cụ
Cao Xuân Huy được chia làm bảy thiên .
Thiên I: Cái bi kịch của sự đồng nhất hóa:
Theo cụ, việc sau cùng của mỗi quá trình nhận thức thế giới là phải đưa ra được những nguyên lý đồng nhất. Nhưng tư duy phân tích, vì nhìn thế giới thành những sự vật, hiện tượng cá biệt, nên khi rút ra “những nguyên lý chung”, buộc phải “đồng nhất hoá” những cái “khác nhau”, vì thế không tránh khỏi “vi phạm logic”, “mâu thuẫn nghiêm trọng”, dẫn đến sự “khủng hoảng trầm trọng”, một “bi kịch đáng sợ” trong tư tưởng.
Theo cụ, việc sau cùng của mỗi quá trình nhận thức thế giới là phải đưa ra được những nguyên lý đồng nhất. Nhưng tư duy phân tích, vì nhìn thế giới thành những sự vật, hiện tượng cá biệt, nên khi rút ra “những nguyên lý chung”, buộc phải “đồng nhất hoá” những cái “khác nhau”, vì thế không tránh khỏi “vi phạm logic”, “mâu thuẫn nghiêm trọng”, dẫn đến sự “khủng hoảng trầm trọng”, một “bi kịch đáng sợ” trong tư tưởng.
Điều này
không có lý bởi trong những qúa trình tư duy, khi rút ra những nguyên lý chung,
người ta không nhất thiết phải đồng nhất hoá mọi vấn đề. Khi chứng minh điều
trên, cụ đã có những cách hiểu không đúng cả về nội hàm khái niệm lẫn bản chất của
sự việc. Cụ cho rằng, vì có cách nhìn tách biệt “không gian”, “thời gian”, nên “đã
có những nhà khoa học như Einstein và những nhà triết học mưu đồ thống nhất hai
phạm trù này, nhưng họ không thành công, vì hai phạm trù này là kết quả của một
sự sai lầm cơ bản trong tư tưởng logic”. Rõ ràng, trong thực tế, không hề có
cái “mưu đồ” thống nhất nào như trên cả, chỉ có quan điểm về không gian, thời gian
từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện mà thôi. Bắt đầu từ Newton, không gian được coi
là cái hộp rỗng, độc lập với thời gian và những vật thể chất chứa trong đó; còn
thời gian cũng độc lập như vậy, nó giống như cái dải băng được trải ra đều đặn. Nhưng
theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, không gian và thời gian là hình
thức tồn tại của vật chất, không tách rời nhau. Điều này đã được chính thuyết Tương
đối của Einstein chứng minh một cách tuyệt vời: khi vật chất vận động thì
không gian, thời gian và chính nó cùng bị co lại, tức là chúng “ăn thông” với
nhau, và Einsten gọi không gian, thời gian là “Không-thời gian”. Sự thực, Einstein đã
tìm ra được một quy luật vốn có của tự nhiên chứ không hề có một “mưu đồ” cố ý áp đặt nào, và phát minh của Einstein
cũng rất thành công bởi nó đã được kiểm chứng bằng thực tế, chứ không phải “không
thành công”; và bản chất phát minh này cũng không có nghĩa là Einstein đã “vo
viên” cả không gian và thời gian lại làm
một như cụ Cao Xuân Huy nghĩ. Khi sang Mỹ, chính Einstein cũng đã được hỏi: “Không
gian và thời gian có phải là một không, như giáo sư đã từng chứng minh vật chất
và năng lượng chỉ là một trong công thức E=mc2”. Einstein đã trả lời rằng: “Không
phải, thời gian chỉ là một chiều của không gian. Riêng một chiều như bề dài, hai
chiều như diện tích, ba chiều như thể tích chưa đủ để định nghĩa một không gian
vật lý”.
Về hai phạm trù “nhân” và “quả”, Cụ Cao Xuân Huy
cũng cho: “...đầy rẫy những mâu thuẫn. Chẳng hạn,nếu nói nhân và quả là hai vật
khác nhau, tức là trong nhân không có quả thì làm sao cái không sinh ra cái có được... tức
là nói A là phi A rồi”. Ở đây cụ cũng đã quy giản hóa cách hiểu dẫn đến không
hiểu đúng bản chất của hai phạm trù này. Mối liên hệ nhân quả cũng là quy luật
khách quan trong tự nhiên và xã hội, không ai tự đặt ra và không ai đồng nhất như
trên cả. Ví như cái việc đun nước dẫn đến nước sôi là chuyện hiển nhiên, nên người
ta mới rút ra cái mối liên hệ “nhân quả” để thể hiện quá trình này. Người ta gọi
cái “sự đun” là nguyên nhân, cái “sự nước sôi” là kết quả, và nói, do đun nước
nên đã dẫn đến nước sôi, chứ không ai hiểu theo cụ Cao là: cho “sự đun” là
A, còn “sự nước sôi” là phi A, rồi quá trình trên dẫn đến sự mâu thuẫn: “sự đun nước” là “sự nước sôi”!
Đặc biệt, cụ
Cao Xuân Huy cho rằng: “loài người đã chia thế giới thành hai hiện thực bao
quát nhất, là tâm và vật... do đó sinh
ra nhất nguyên luận duy tâm hoặc duy vật; nhưng cả hai đều vi phạm logic, vì đã
biết tâm và vật chỉ là những bộ phận cấu
thành của thế giới...thì tại sao lại nói tâm là toàn thể, là bản thể của vũ trụ
hay là nói vật là toàn thể, là bản thể của vũ trụ? Nói như thế chẳng phải lấy bộ
phận làm toàn thể là gì? Lấy A làm phi A là gì?”(trang 80).
Đọc những
dòng này tôi băn khoăn quá, bởi nói như giáo sư Cao Xuân Huy tức là ngược với chủ
nghĩa duy vật biện chứng, với nhất nguyên luận duy vật khoa học. Nhưng quan niệm
về “tâm” và “vật”, chia ra và nhập lại, theo cách hiểu của cụ cũng không ổn. Bởi
thực tế, nhất nguyên luận duy vật khoa học coi vật chất là bản nguyên của thế giới, là
cái sinh ra thế giới, là cái có trước và sinh ra ý thức, còn nhất nguyên luận duy
tâm có quan niệm ngược lại. Như vậy, nhất nguyên luận duy vật hoặc duy tâm đâu có
cho “một cái là toàn thể”, để rồi “vi phạm
logic” theo như ý cụ Cao! Tất nhiên, với con mắt khoa học, ta không thể tuyệt đối
hóa cái nhìn nào, mà phải hiểu rằng, còn những hiện tượng của xã hội và tự nhiên
chưa được giải thích thỏa đáng, còn những bài toán lớn mà trí tuệ loài người chưa
giải được; nhưng tính đúng đắn hơn hẳn của cái nào thì đã được thực tiễn khoa học
và cuộc sống chứng minh .
Thiên II :Phương thức chủ toàn” và phương
thức “chủ biệt” của tư tưởng .
Ở thiên này, giáo sư Cao Xuân Huy đã lấy tư tưởng triết học của Descartes(1596-1650) làm dẫn chứng để chứng minh tính hạn chế của tư duy phân tích phương Tây, phương thức “chủ biệt”của tư tưởng, là có: “tính cơ giới, tính gián đoạn, tính cố định” (trang 95).Việc lấy tư tưởng một người cách nay gần nửa thiên kỷ với nhiều điều hạn chế làm tiêu biểu cho phương thức tư duy của cả một phía thế giới như vậy là không thỏa đáng. Bởi Descartes là người theo quan điểm nhị nguyên luận: Vật chất và ý thức là hai thực thể tồn tại độc lập với nhau cùng do Thượng đế sinh ra. Điều này mâu thuẫn với các trào lưu tư tưởng khác, kể cả duy tâm lẫn duy vật, cũng chính của phương Tây.
Ở thiên này, giáo sư Cao Xuân Huy đã lấy tư tưởng triết học của Descartes(1596-1650) làm dẫn chứng để chứng minh tính hạn chế của tư duy phân tích phương Tây, phương thức “chủ biệt”của tư tưởng, là có: “tính cơ giới, tính gián đoạn, tính cố định” (trang 95).Việc lấy tư tưởng một người cách nay gần nửa thiên kỷ với nhiều điều hạn chế làm tiêu biểu cho phương thức tư duy của cả một phía thế giới như vậy là không thỏa đáng. Bởi Descartes là người theo quan điểm nhị nguyên luận: Vật chất và ý thức là hai thực thể tồn tại độc lập với nhau cùng do Thượng đế sinh ra. Điều này mâu thuẫn với các trào lưu tư tưởng khác, kể cả duy tâm lẫn duy vật, cũng chính của phương Tây.
Thiên III :Thiết vấn Pháp của Bản thể luận.
Ở thiên này, giáo sư Cao Xuân Huy đã lấy Chu dịch làm lệ chứng điển hình, chứng minh tính đúng đắn của tư duy tổng hợp phương Đông, phương thức “chủ toàn” của tư tưởng: “Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái”; rồi : “Thái cực” là cái Đại toàn thể, cái Đại hữu, cái “Có” làm điều kiện, làm cơ sở chung cho tất cả mọi vật. Nói một cách khác, "Thái cực là cái bản thể làm điều kiện, làm cơ sở chung cho tất cả các hiện tượng ở trong vũ trụ” (trang 99). Trong đó, Lưỡng nghi là Âm Dương, là hai phạm trù cơ bản của Chu dịch (cái tích cực và cái tiêu cực). Âm là bóng mặt trời, Dương là ánh sáng mặt trời; Bóng mặt trời thì: râm, tối, mát, ẩm, lạnh v.v... Ánh sáng mặt trời thì: sáng, nóng, ấm, ráo... chi phối toàn bộ những hiện tượng tự nhiên và xã hội... Những điều này thực chất chỉ là sự phân hạng liệt kê những hiện tượng đối lập trong cuộc sống, chúng chỉ có thể đúng ở cấp độ chung nhất, còn tác động với nhau thế nào, biến đổi ra sao, thành những cái gì,...thì không thể cụ thể hóa được. Đặc biệt, để nhận diện được “bản thể” một cách: “bản nguyên nhất”, giáo sư Cao Xuân Huy đã chỉ ra một phương pháp nhận diện thật lạ: Đó là phương pháp “hồn nhiên”.Theo cụ, chỉ những đứa trẻ sơ sinh, hoặc những người nguyên thủy, do đầu óc còn “nguyên vẹn”, chưa bị tư duy phân tích ảnh hưởng, mới nhận diện được “Bản thể”! Như vậy, thực chất sự nhận diện này có khác gì việc “không nhận diện gì” cả, và cái “bản thể” đích thực cũng là cái “không là cái gì cả”! Một hệ tư tưởng đúng đắn không thể là một hệ tư tưởng suông, mà nó phải được gắn với thực tiễn, nó phải được loài người ứng dụng trong cuộc sống, thúc đẩy sự khám phá cải tạo thế giới, qua đó sẽ có sự tác động ngược trở lại, thúc đẩy sự phát triển của chính tư tưởng.
Ở thiên này, giáo sư Cao Xuân Huy đã lấy Chu dịch làm lệ chứng điển hình, chứng minh tính đúng đắn của tư duy tổng hợp phương Đông, phương thức “chủ toàn” của tư tưởng: “Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái”; rồi : “Thái cực” là cái Đại toàn thể, cái Đại hữu, cái “Có” làm điều kiện, làm cơ sở chung cho tất cả mọi vật. Nói một cách khác, "Thái cực là cái bản thể làm điều kiện, làm cơ sở chung cho tất cả các hiện tượng ở trong vũ trụ” (trang 99). Trong đó, Lưỡng nghi là Âm Dương, là hai phạm trù cơ bản của Chu dịch (cái tích cực và cái tiêu cực). Âm là bóng mặt trời, Dương là ánh sáng mặt trời; Bóng mặt trời thì: râm, tối, mát, ẩm, lạnh v.v... Ánh sáng mặt trời thì: sáng, nóng, ấm, ráo... chi phối toàn bộ những hiện tượng tự nhiên và xã hội... Những điều này thực chất chỉ là sự phân hạng liệt kê những hiện tượng đối lập trong cuộc sống, chúng chỉ có thể đúng ở cấp độ chung nhất, còn tác động với nhau thế nào, biến đổi ra sao, thành những cái gì,...thì không thể cụ thể hóa được. Đặc biệt, để nhận diện được “bản thể” một cách: “bản nguyên nhất”, giáo sư Cao Xuân Huy đã chỉ ra một phương pháp nhận diện thật lạ: Đó là phương pháp “hồn nhiên”.Theo cụ, chỉ những đứa trẻ sơ sinh, hoặc những người nguyên thủy, do đầu óc còn “nguyên vẹn”, chưa bị tư duy phân tích ảnh hưởng, mới nhận diện được “Bản thể”! Như vậy, thực chất sự nhận diện này có khác gì việc “không nhận diện gì” cả, và cái “bản thể” đích thực cũng là cái “không là cái gì cả”! Một hệ tư tưởng đúng đắn không thể là một hệ tư tưởng suông, mà nó phải được gắn với thực tiễn, nó phải được loài người ứng dụng trong cuộc sống, thúc đẩy sự khám phá cải tạo thế giới, qua đó sẽ có sự tác động ngược trở lại, thúc đẩy sự phát triển của chính tư tưởng.
Lâu nay, dường
như đã có không ít người có quan niệm lạ lùng là: khi nhận thức thế giới, phương
Tây thường trọng tư duy “phân tích” còn phương Đông trọng tư duy “tổng hợp”; cũng
như cụ Cao Xuân Huy nói, phương Tây quen thói “chia thế giới thành sự vật cá biệt”, còn
phương Đông “nhìn thế giới như một thể thống nhất”.Điều này rõ ràng là không đúng với thực tế. Tôi đã một lần viết, thế
giới khách quan chỉ có một, nên sự nhận thức thế giới chỉ có một, hoặc đúng sai, hoặc
cao thấp khác nhau mà thôi. Nếu cho phương Tây (thực chất là cả loài người) nhìn
thế giới thành các vật cá biệt, thì không phải do thói quen, mà do bản thân thế
giới gồm các vật cá biệt như thế. Ví như mặt trăng, mặt trời là hai vật thể khác
nhau, thì dù Tây hay Đông, cũng phải thấy là hai vật thể khác nhau, còn nó khác
như thế nào, giống nhau ra sao, khởi thủy được
cấu tạo từ cái gì, thì phải khám phá; và trong quá trình khám phá ấy, người
ta buộc phải tiến hành vô vàn các phương
pháp phân tích. Chỉ có như thế mới tiếp cận được chân lý. Cái quan điểm cho phương
Tây, vì nhận thức theo kiểu phân tích như thế, nên đã dẫn đến những mâu thuẫn,
“bí đường”; còn phương Đông nhìn thế giới ở một thể thống nhất, nên tuyệt đối đúng; cũng thật vô lý. Vì như vậy có
khác gì bảo, một người làm ra được bao
nhiêu việc, gặp phải chuyện này chuyện nọ, là sai lầm; còn một người không làm
gì cả, không gặp khó khăn gì, là đúng đắn!
Thực chất, quá
trình nhận thức thế giới cả Tây hoặc Đông đều đi từ trực quan sơ khai đến phân
tích chi tiết. Trước đây, không chỉ Phương Đông nhìn thế giới một cách “tổng hợp”
mà phương Tây cũng vậy. Nếu phương Đông khởi thủy cho vạn vật trong thế giới do “ngũ hành” tương sinh, tương khắc
tạo nên, hoặc theo “Dịch học”, do hai mặt đối lập Âm Dương giao cảm và biến
hóa mà thành; thì Phương Tây khởi thủy
(theo Platon) cũng chia thế giới thành hai phần: “Tồn tại” (dạng phi vật chất,chỉ
nhận thức được bằng trí tuệ) và “Không tồn tại” (thế giới vật chất), đến Đê-mô-crit
thì cho thế giới được tạo thành bởi “nguyên
tử”; còn Arixtốt thì cho thế giới do: Đất, nước, lửa, không khí tạo nên. Có điều, tư
tưởng phương Đông cổ đại không lấy giới tự nhiên làm đối tượng mà chỉ đưa ra những
khái niệm trừu tượng, chung chung , nên không
phát triển. Trái lại, tư duy phân
tích của phương Tây cổ đại nói riêng và của loài người ngày nay nói
chung, đã lấy chính giới tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu.Trong quá trình khám
phá cái cốt lõi sơ khởi của cấu tạo vật chất, từ việc coi thế giới xây nên bằng
những “nguyên tử”, người ta đã phát hiện ra điện tử, hạt nhân, proton, nơtron, hạt
quack, hạt ảo, phản hạt; rồi phát hiện ra “nguyên lý bất định”, bản chất “nhị
nguyên sóng hạt” của các hạt vi mô (cũng đã có những nhà bác học gốc phương Đông: Pakistan, Ấn Độ, Trung Quốc đã
được giải Noben trong quá trình này), loài người đã xây nên toàn bộ nền văn minh
cả vật chất, trí tuệ lẫn tinh thần hôm nay. Như vậy không thể nói đã có hai phương
thức nhận thức thế giới, làm nên hai nền văn minh hiện đại, và một bên là đúng đắn
còn một bên đang “bí” được!
Thiên IV:Bản thể và nguyên lý đồng nhất tính.
Giáo sư Cao Xuân Huy triển khai thêm việc nhận diện “Bản thể”. Cụ cho, “Bản thể” là cái “thực thể tuyệt đối”, “hằng thường, vĩnh cửu, bất di bất dịch”. Theo cụ, nhiệm vụ cơ bản của triết học là phải chỉ ra “Bản thể là gì”, “Thế mà, đã từ lâu, các nhà triết học trốn tránh cái nhiệm vụ đó, chỉ cãi nhau lung tung về cái tâm và cái vật, cái duy lý và cái duy nghiệm, cái chủ thể và cái khách thể v.v...” (trang114). Cụ cho, do tư duy “chủ biệt” người ta đã “hư cấu” ra “không gian”, “thời gian”, để rồi cho đó là “những cái trường sở quyết định sự tồn tại của vạn vật, thậm chí cả Bản thể nữa”(trang116). Và theo cụ, nếu “thủ tiêu hai cái trường sở hư cấu ấy đi thì chúng ta sẽ nhận thấy môt cách cụ thể rằng cái toàn thể, cái bản thể là cái trường sở trong đó mọi vật tồn tại cùng nhau và kế tiếp nhau”(trang 116); rồi: “Người nào còn giữ được ít nhiều cái thiên chân của đứa trẻ sơ sinh... tức là cái cảm thụ về bản thể, về toàn bộ thực tại thì có thể lý giải và hình dung rất rõ ràng cái bản thể vô thủy vô chung” (trang 117). Như vậy, theo cụ Cao, phải thủ tiêu toàn bộ triết học duy vật mới tiếp cận được chân lý. Nhưng theo cách lập luận trên, người ta cũng chỉ tiếp cận được một cái chân lý mù mờ. Nhưng có điều lạ, như đã dẫn, không hiểu sao những cái nhìn thấy, sờ thấy thì cụ bảo là hư cấu, còn những cái chung chung không biết đâu mà lần, cụ lại cho là cái đích thực?Thực tế, các nhà khoa học không chỉ dừng lại ở việc coi không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất mà còn đi xa hơn nhiều trong việc khám phá tận cùng bản chất đích thực của vật chất như đã dẫn, rồi còn tìm ra được cái chi phối tất cả: tất cả vạn vật đều được cấu tạo từ những hạt vi mô giống nhau, liên kết với nhau thông qua những lực tương tác: “Hấp dẫn, điện từ, hạt nhân yếu và mạnh”. Nếu cho “Bản thể” là cái chi phối và làm nên toàn bộ vũ trụ, thì có lẽ, ta cho cái điều nói trên chính là “Bản thể”, sẽ có lý và cụ thể hơn chăng?
Giáo sư Cao Xuân Huy triển khai thêm việc nhận diện “Bản thể”. Cụ cho, “Bản thể” là cái “thực thể tuyệt đối”, “hằng thường, vĩnh cửu, bất di bất dịch”. Theo cụ, nhiệm vụ cơ bản của triết học là phải chỉ ra “Bản thể là gì”, “Thế mà, đã từ lâu, các nhà triết học trốn tránh cái nhiệm vụ đó, chỉ cãi nhau lung tung về cái tâm và cái vật, cái duy lý và cái duy nghiệm, cái chủ thể và cái khách thể v.v...” (trang114). Cụ cho, do tư duy “chủ biệt” người ta đã “hư cấu” ra “không gian”, “thời gian”, để rồi cho đó là “những cái trường sở quyết định sự tồn tại của vạn vật, thậm chí cả Bản thể nữa”(trang116). Và theo cụ, nếu “thủ tiêu hai cái trường sở hư cấu ấy đi thì chúng ta sẽ nhận thấy môt cách cụ thể rằng cái toàn thể, cái bản thể là cái trường sở trong đó mọi vật tồn tại cùng nhau và kế tiếp nhau”(trang 116); rồi: “Người nào còn giữ được ít nhiều cái thiên chân của đứa trẻ sơ sinh... tức là cái cảm thụ về bản thể, về toàn bộ thực tại thì có thể lý giải và hình dung rất rõ ràng cái bản thể vô thủy vô chung” (trang 117). Như vậy, theo cụ Cao, phải thủ tiêu toàn bộ triết học duy vật mới tiếp cận được chân lý. Nhưng theo cách lập luận trên, người ta cũng chỉ tiếp cận được một cái chân lý mù mờ. Nhưng có điều lạ, như đã dẫn, không hiểu sao những cái nhìn thấy, sờ thấy thì cụ bảo là hư cấu, còn những cái chung chung không biết đâu mà lần, cụ lại cho là cái đích thực?Thực tế, các nhà khoa học không chỉ dừng lại ở việc coi không gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất mà còn đi xa hơn nhiều trong việc khám phá tận cùng bản chất đích thực của vật chất như đã dẫn, rồi còn tìm ra được cái chi phối tất cả: tất cả vạn vật đều được cấu tạo từ những hạt vi mô giống nhau, liên kết với nhau thông qua những lực tương tác: “Hấp dẫn, điện từ, hạt nhân yếu và mạnh”. Nếu cho “Bản thể” là cái chi phối và làm nên toàn bộ vũ trụ, thì có lẽ, ta cho cái điều nói trên chính là “Bản thể”, sẽ có lý và cụ thể hơn chăng?
Thiên V: Vận động, phát triển và không thời
gian.
Ở thiên này cụ cũng bàn về không gian, thời gian, thuyết tương đối, không -thời gian, với những quan điểm như đã thảo luận.
Ở thiên này cụ cũng bàn về không gian, thời gian, thuyết tương đối, không -thời gian, với những quan điểm như đã thảo luận.
Thiên VI
: Tri giác và thế giới.
Ở thiên này Giáo sư Cao Xuân Huy cũng cho, do theo quan điểm “chủ biệt”, người ta đã “tuyệt đối hóa khách thể chủ thể” nên không thể tri giác được thế giới một cách “trực tiếp” mà chỉ “tri giác ngoại giới qua những cảm giác,... một cách gián tiếp” (trang 132). Tức là từ trước tới nay, người ta không biết rằng thế giới mà mình nhìn thấy chỉ là ảnh ảo. Theo cụ, chúng ta chỉ có thể “trực giác được sự tồn tại của một vật nào đó là vì cái bản thể, cái tồn tại phổ biến ở trong vật đó cũng chính là cái bản thể, cái tồn tại phổ biến ở trong ta” (tr134). Điều này cũng thật lạ. Bởi thế giới mà loài người nhận biết qua tri giác là hình ảnh thật của thế giới chứ không thể là giả, và loài người sống và hoạt động cũng bằng chính tri giác ấy chứ không hề bằng cái trực giác bản thể nào khác. Tri giác chính là sự nhận thức bước khởi đầu, từ đó giúp người ta đi sâu hơn trong quá trình nhận thức bản chất thế giới. Cái ví dụ giáo sư Cao Xuân Huy đưa ra để minh họa cũng không phù hợp. Cụ cho rằng, một tờ giấy màu xám phơi ngoài nắng sẽ phóng xạ vào mắt ta ánh sáng của nắng, mắt ta sẽ nhận được hình ảnh vật lý của tờ giấy mang màu của ánh nắng, tức là lẽ ra ta phải “nhìn thấy” tờ giấy màu trắng, nhưng thực tế ta lại thấy tờ giấy vẫn là màu xám. Cụ giải thích rằng, do trong ta đã có sẵn một hình ảnh tâm lý tờ giấy là màu xám át đi, nên ta chỉ nhìn thấy tờ giấy màu xám là màu xám, một sự tri giác sai, “gián tiếp” như vậy! Đây là sự biện giải không đúng với thực tế. Tờ giấy xám phơi nắng sẽ phản xạ vào mắt ta cả màu xám của tờ giấy và màu của ánh nắng, và mắt ta nhận được cả hai, nhưng vì ánh nắng là trong suốt, nên mắt ta vẫn nhận được tờ giấy là màu xám, tất nhiên có khác đi chút ít do sự cộng hưởng với màu của ánh nắng. Còn nếu ta chiếu một luồng sáng màu đục, có thể át được màu xám tờ giấy, lúc đó mắt ta sẽ nhận thấy tờ giấy mang màu của ánh sáng chiếu ấy, chứ không thể nhận được màu xám tâm lý như cụ Cao đã nói. Đây là môt điều hiển nhiên và diễn ra hàng ngày trong thực tế.
Ở thiên này Giáo sư Cao Xuân Huy cũng cho, do theo quan điểm “chủ biệt”, người ta đã “tuyệt đối hóa khách thể chủ thể” nên không thể tri giác được thế giới một cách “trực tiếp” mà chỉ “tri giác ngoại giới qua những cảm giác,... một cách gián tiếp” (trang 132). Tức là từ trước tới nay, người ta không biết rằng thế giới mà mình nhìn thấy chỉ là ảnh ảo. Theo cụ, chúng ta chỉ có thể “trực giác được sự tồn tại của một vật nào đó là vì cái bản thể, cái tồn tại phổ biến ở trong vật đó cũng chính là cái bản thể, cái tồn tại phổ biến ở trong ta” (tr134). Điều này cũng thật lạ. Bởi thế giới mà loài người nhận biết qua tri giác là hình ảnh thật của thế giới chứ không thể là giả, và loài người sống và hoạt động cũng bằng chính tri giác ấy chứ không hề bằng cái trực giác bản thể nào khác. Tri giác chính là sự nhận thức bước khởi đầu, từ đó giúp người ta đi sâu hơn trong quá trình nhận thức bản chất thế giới. Cái ví dụ giáo sư Cao Xuân Huy đưa ra để minh họa cũng không phù hợp. Cụ cho rằng, một tờ giấy màu xám phơi ngoài nắng sẽ phóng xạ vào mắt ta ánh sáng của nắng, mắt ta sẽ nhận được hình ảnh vật lý của tờ giấy mang màu của ánh nắng, tức là lẽ ra ta phải “nhìn thấy” tờ giấy màu trắng, nhưng thực tế ta lại thấy tờ giấy vẫn là màu xám. Cụ giải thích rằng, do trong ta đã có sẵn một hình ảnh tâm lý tờ giấy là màu xám át đi, nên ta chỉ nhìn thấy tờ giấy màu xám là màu xám, một sự tri giác sai, “gián tiếp” như vậy! Đây là sự biện giải không đúng với thực tế. Tờ giấy xám phơi nắng sẽ phản xạ vào mắt ta cả màu xám của tờ giấy và màu của ánh nắng, và mắt ta nhận được cả hai, nhưng vì ánh nắng là trong suốt, nên mắt ta vẫn nhận được tờ giấy là màu xám, tất nhiên có khác đi chút ít do sự cộng hưởng với màu của ánh nắng. Còn nếu ta chiếu một luồng sáng màu đục, có thể át được màu xám tờ giấy, lúc đó mắt ta sẽ nhận thấy tờ giấy mang màu của ánh sáng chiếu ấy, chứ không thể nhận được màu xám tâm lý như cụ Cao đã nói. Đây là môt điều hiển nhiên và diễn ra hàng ngày trong thực tế.
Thiên VII :Do lai của ý thức.
Đây là thiên cuối cùng, vẫn trung thành với nguyên lý “chủ toàn”, coi “bản thể” là cái chi phối toàn bộ, tạo nên vạn vật, tạo nên tri giác, nên giáo sư cũng cho nó tạo nên cả ý thức. Và như vậy, tất nhiên là ngược lại quan điểm của chủ nghĩa duy vật cho nguồn gốc của ý thức và sự sống là từ vật chất, cụ viết: “Làm sao khoáng vật là cái thấp, cái ít, cái nghèo lại có thể biến thành thực vật, động vật là cái cao, cái nhiều cái giàu được, tức là làm sao “nước lã lại quấy nên hồ được?”(trang 162). Cũng do không nắm được thực tiễn khoa học nên giáo sư đã hiểu không đúng quá trình này. Thực tế, vật chất hữu sinh và vô sinh đều có cùng bản chất là các chất hóa học, cùng được cấu tạo từ các nguyên tố, các hợp chất. Quá trình biến đổi từ chất vô cơ sang cơ thể sống không phải là một quá trình tắt mà tuần tự, từ hợp chất vô cơ thành chất hữu cơ, từ chất hữu cơ thành axit amin, từ axit amin thành prôtein, và cuối cùng từ prôtein thành cơ thể sống. Tất cả được diễn ra trong thời gian vô cùng dài và trong điều kiện đặc biệt của chính tự nhiên. Đây không phải là điều tự đặt ra, mà thực tế các nhà khoa học đã thực hiện được cả chuỗi biến đổi đó, chỉ trừ giai đoạn sau cùng. Con người cũng đã hiểu rõ được cấu tạo của cơ thể sống và cả những quy luật của sự sống. Người ta đã hiểu được từ chuyện: tại sao cây lại mọc thẳng, lá lại hướng về phía ánh sáng,... đến chuyện: cơ thể sống lưu giữ và di truyền mật mã của sự sống trong nhân tế bào là như thế nào, còn có thể thay mặt Tạo hóa can thiệp vào quá trình này trong việc cấy ghép gen, tạo những đột biến theo hướng có chủ đích; người ta cũng còn có thể làm khác đi cách thức duy trì nòi giống của Tạo hóa: nhân giống vô tính một tế bào thành một cơ thể hoàn chỉnh... Và vì thế, con người là sự sống đồng thời đã làm chủ được cả sự sống, phải chăng chính con người cũng là “Bản thể”?
Đây là thiên cuối cùng, vẫn trung thành với nguyên lý “chủ toàn”, coi “bản thể” là cái chi phối toàn bộ, tạo nên vạn vật, tạo nên tri giác, nên giáo sư cũng cho nó tạo nên cả ý thức. Và như vậy, tất nhiên là ngược lại quan điểm của chủ nghĩa duy vật cho nguồn gốc của ý thức và sự sống là từ vật chất, cụ viết: “Làm sao khoáng vật là cái thấp, cái ít, cái nghèo lại có thể biến thành thực vật, động vật là cái cao, cái nhiều cái giàu được, tức là làm sao “nước lã lại quấy nên hồ được?”(trang 162). Cũng do không nắm được thực tiễn khoa học nên giáo sư đã hiểu không đúng quá trình này. Thực tế, vật chất hữu sinh và vô sinh đều có cùng bản chất là các chất hóa học, cùng được cấu tạo từ các nguyên tố, các hợp chất. Quá trình biến đổi từ chất vô cơ sang cơ thể sống không phải là một quá trình tắt mà tuần tự, từ hợp chất vô cơ thành chất hữu cơ, từ chất hữu cơ thành axit amin, từ axit amin thành prôtein, và cuối cùng từ prôtein thành cơ thể sống. Tất cả được diễn ra trong thời gian vô cùng dài và trong điều kiện đặc biệt của chính tự nhiên. Đây không phải là điều tự đặt ra, mà thực tế các nhà khoa học đã thực hiện được cả chuỗi biến đổi đó, chỉ trừ giai đoạn sau cùng. Con người cũng đã hiểu rõ được cấu tạo của cơ thể sống và cả những quy luật của sự sống. Người ta đã hiểu được từ chuyện: tại sao cây lại mọc thẳng, lá lại hướng về phía ánh sáng,... đến chuyện: cơ thể sống lưu giữ và di truyền mật mã của sự sống trong nhân tế bào là như thế nào, còn có thể thay mặt Tạo hóa can thiệp vào quá trình này trong việc cấy ghép gen, tạo những đột biến theo hướng có chủ đích; người ta cũng còn có thể làm khác đi cách thức duy trì nòi giống của Tạo hóa: nhân giống vô tính một tế bào thành một cơ thể hoàn chỉnh... Và vì thế, con người là sự sống đồng thời đã làm chủ được cả sự sống, phải chăng chính con người cũng là “Bản thể”?
Còn quan
niệm trong khoáng chất là “có sẵn bản thể” để tạo thành sự sống thì lại lặp lại
quan điểm siêu hình, và cũng chẳng ai chứng minh được.
Ta đang sống
trong thời đại có trình độ khoa học cao, và hưởng toàn bộ những thành tựu do nó
mang lại. Ta cũng đang sống trong không gian, thời gian cụ thể; mọi người vẫn đang
xây nhà với những kích thước và số lượng vật liệu cụ thể,
các em bé vẫn ngày
ngày đến trường vào giờ giấc quy định cụ thể, toàn bộ hoạt động sống vẫn
diễn ra trong các quá trình, các hiện tượng mà triết học gọi là phạm
trù,... không hiểu sao lại có một công trình tư tưởng cho tất cả là hư cấu. Vậy
cuộc sống thực là gì? Có phải, phải trở lại cuộc sống mông muội thuở ban sơ, người ta mới sống đúng một cuộc sống đích
thực không? Có thể có người cho tôi hiểu như trên là dung tục, nhưng tất cả những
tư tưởng mang tính khoa học đều không lửng lơ mà phải gắn bó với thực tiễn, và
chính thực tiễn là người kiểm tra tính đúng đắn một cách khách quan và công
minh nhất. Chỉ tiếc, đây chỉ là bản nháp của một giáo sư, cụ lại viết từ cái thời
mà trình độ mọi mặt ở nước ta còn rất thấp. Người ta đã xuất bản mà không hỏi ý kiến cụ vì cụ đã mất!
Bình Thạnh
1-7- 1999