NGUYỄN VĂN THỊNH
MỘT CUỘC CHIẾN NHIỀU CÁCH
NHÌN.
Cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân ta kết
thúc thắng lợi trải một thời gian không ngắn mà cũng không dài. Tính tròn là 40
mươi năm, nhưng thực sự im tiếng súng chỉ chừng một nửa! Đến nay sự “bình” gọi
là đã có nhưng sự “hòa” chưa thể yên. Hội nhập thế giới thì mừng nhưng xem chừng
quá chông chênh. Tự do có sự cởi mở, người ta cảm thấy dễ thở hơn nhưng từ dó
nảy ra nhiều mối lo bởi những hiện tưởng “xé rào” trong khi pháp luật quá nhiều
chỗ trống! Mỗi con người, mỗi gia đình có thì giờ giành nhiều tâm sức lo cho
“cái riêng” nhưng “cái chung” thì phó mặc cho “cha”. Ông cha cũng chỉ là một
con người nhỏ bé đang chóng mặt quay cuồng trong mớ hỗn độn của cái chung ấy! Với
các phương tiện truyền thông hiện đại, lại trong xu thế “viết thả sức”, “nói
mặc lòng” làm cho một bộ phận không nhỏ dân lành hoang mang ngơ ngác không biết
làm sao để nhận chân sự thật? Đặc biệt cái nhìn về sự thắng lợi của cuộc trường
kỳ kháng chiến vĩ đại vừa qua ngày càng có những tiếng nói lạc điệu khác “tông”
ồn ào cất lên từ nhiều phía. Điểm qua vài cuốn sách, mấy lời tuyên ngôn của vài
nhân vật đầu trò để bạn đọc cùng suy nghĩ.
Cuốn sách tựa đề CHÂN TRẦN CHÍ THÉP (BARE FEET, IRON
WILL) của James G. Zumwalt xuất bản ở Mỹ tháng 4/2011, sau đó được chuyển dịch
sang Việt ngữ, được lưu hành rộng rãi và người đọc đón nhận với lòng thiện cảm.
Xuất thân từ một dòng tộc có truyền thống binh nghiệp, ba cha con ông đều có
thời gian trực tiếp tham chiến ở Việt Nam . Thân phụ ông là Đô đốc Elmo R.
Zumvalt, Jr. – từng là tư lệnh Hải quân Mỹ ở Việt Nam . Anh ông là sỹ quan chỉ huy một
giang thuyền chiến đấu và ông là sỹ quan Thủy quân lục chiến. Chính Đô đốc
Zumwalt là người khởi lệnh dùng thuốc “diệt cỏ màu da cam” để phát quang cây
cối từ vùng rừng núi tới vùng duyên hải và ven các sông rạch là địa bàn hiểm
yếu của chiến tranh du kích. Kết quả là số thương vong của Hải quân Mỹ giảm hơn
năm lần mỗi tháng nhưng bởi hành động ấy mà binh lính dưới quyền ông “trở về
nhà với những quả bom hóa học nổ chậm trong người”. Và tai họa trực tiếp giáng
xuống chính đời ông: Đứa con trai – Đại úy Elmo R. Zumvalt III, người anh của
James, cũng bị nhiễm chất độc dioxin có trong thuốc diệt cỏ và chết ở tuổi 42
vì căn bệnh ung thư hạch bạch huyết trước sự dày vò ân hận của ông! Chẳng những
thế, đứa con trai của anh ta cũng bị mang bệnh Down dị tật! Vợ anh thừa nhận
rằng vì sợ còn mầm bệnh di truyền mà không dám sinh thêm con nữa! Tuy nhiên với
James, dù cuộc chiến đã kết thúc nhưng suốt nhiều năm sau đó ông vẫn mang nặng
những định kiến hận thù sâu xa với đối phương. Cho đến năm 1994, khi cùng cha
qua Việt Nam , trong đầu ông
vẫn “luôn có một niềm tin xác quyết rằng trong chiến tranh Việt Nam
lực lượng phi nghĩa đã chiến thắng phe chính nghĩa”! Những phút đầu tiếp xúc
với những người từng là thù địch, trong ông “cơn giận giữ không ngừng dâng lên
và nghĩ rằng lẽ ra họ không được đứng trước mặt tôi với tư cách là người chiến
thắng – bởi đó chỉ là số phận, định mệnh
chống lại chúng tôi mà thôi”. Nhưng chỉ qua mấy lần gặp gỡ, nỗi giận giữ của
ông, suy nghĩ của ông đã thay đổi nhanh chóng và “chợt thấy mình đã bắt đầu
nhìn về cuộc chiến tranh với một nhận thức hoàn toàn mới”. Ông cảm thấy mỗi lần
tiếp xúc với họ ông lại phát hiện ra điều mới lạ. Cuộc tìm hiểu kiên trì gần 20
năm, ông qua lại Việt Nam hơn 50 lần, tiếp xúc với gần 200 nhân chứng là du
kích địa phương, bộ đội chủ lực, từ sỹ quan chỉ huy chiến thuật đến các tướng
lĩnh tầm cao chiến lược, thường dân là nạn nhân chiến cuộc… Cái nhìn về cuộc
kháng chiến của người Việt Nam ,
về con người Việt Nam
với ông đã hoàn toàn thay đổi. Dù biết rằng “cuốn sách này không dễ viết” bởi
không dễ thuyết phục một bộ phận không nhỏ sỹ quan binh lính đồng đội và những
người đồng hương của ông do họ khó chấp nhận một thất bại cay đắng duy nhất đầu
tiên trong lịch sử của một cường quốc đầy tự hào về sự giàu có và sức mạnh.
Nhưng với sự làm việc khoa học, nghiêm túc và trung thực, với lòng nhân ái
trong sự thức tỉnh dù có muộn màng, ông mong muốn cuốn sách như một sự hóa giải
những sai lầm của cha con ông, đồng đội của họ và của chính giới Mỹ thành tiếng
nói hòa giải để chính quyền Mỹ và những người Mỹ thiện tâm có những việc làm
thiết thực hơn trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam. Tiếng nói
của ông không phải là sớm, cũng không phải là lạc lõng trong khi ở Mỹ ngày càng
có những lời phê phán nghiêm khắc nặng nề cất lên từ nhiều phía về cuộc chiến
tranh phi lý phi nhân đó. Trong hồi ký “Nhìn lại quá khứ - Tấn thảm kịch và
những bài học về Việt Nam”, Mc. Namara – bộ óc điện tử của nước Mỹ, một trong
số người hoạch định cuộc chiến tranh đó, viết: “Chúng ta đã sai lầm, sai lầm
một cách tồi tệ. Chúng ta mắc nợ các thế hệ tương lai câu giải thích tại sao
lại sai lầm như vậy… Đến khi người lính Mỹ cuối cúng rút khỏi Nam Việt Nam năm
1973, chúng ta đã mất 58.315 người cả nam lẫn nữ, nền kinh tế chúng ta bị tàn
phá bởi những chi phí cao và bất hợp lý cho cuộc chiến tranh trong nhiều năm
liền, và sự thống nhất chính trị của xã hội chúng ta bị tan nát vài thập kỷ sau
vẫn không khôi phục được”! Tướng bốn sao Westmoreland – Tổng chỉ huy hơn một
triệu rưỡi liên quân Đồng minh chủ yếu là Mỹ-Việt binh hùng tướng mạnh bẽ bàng
thốt lên lời cay đắng: “Trong cuộc chiến tranh này chúng ta không có những anh
hùng, chỉ có những kẻ ngu xuẩn! Tôi là một trong những kẻ ngu xuẩn đó”! Phải
chăng vì từng trải, vì nỗi đau bi kịch nghiệt ngã của gia đình mà Đô đốc
Zumvalt dễ nhìn ra sai lầm và ông là một trong số ít tướng lĩnh Mỹ hàng đầu sớm
ủng hộ sự bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và có những việc làm thiết thực
hỗ trợ những người Việt Nam là nạn nhân của chất độc dioxin có trong thuốc diệt
cỏ màu da cam?
Thực ra, với những người Việt Nam kháng chiến từng có
mặt trong cuộc đối đầu lâu dài, gian khổ, khốc liệt ấy thì những sự kiện mà
James Zumvalt phát hiện ra không có gì lạ và không thể nào đầy đủ được. Bởi đây
là cuộc chiến vệ quốc trường kỳ, “toàn dân, toàn diện”, bất kỳ đâu cũng là
chiến trường, vật gì cũng thành vũ khí và mọi người già trẻ gái trai đều là
chiến sỹ.
Trong các sự kiện tác giả nêu ra chỉ có một điều chưa
đúng với sự thực về nguyên do vào cuối tháng 12 năm 1972, người Mỹ dùng máy bay
B52 ném bom suốt 12 ngày đêm hủy diệt thủ đô Hà Nội. Tất nhiên tác giả dựa vào
tư liệu của “Lầu Năm góc” cho rằng đối phương xảo trá, chỉ muốn lợi dụng đàm
phán để chiến sự dây dưa kéo dài thời gian quân Mỹ rút hết ra khỏi miền Nam,
nên cần phải ra đòn cứng rắn. Sự thật là việc quân Mỹ sớm rút đi là điều chính
phủ kháng chiến Việt Nam
luôn mong muốn, và khi đó hiệp định đã được hai bên ký tắt. Chính Kisinger
tuyên bố “hòa bình đã nằm trong tầm tay” nhưng chính quyền Sài Gòn phản ứng
quyết liệt buộc người Mỹ phải ra cú đòn cuối cùng dù biết rằng sẽ càng thất
nhân tâm, hòng ép đối phương chịu hủy bỏ những điều khoản bất lợi cho Sài Gòn
một khi người Mỹ không còn có mặt ở đây! Nhưng mọi sự đã qua rồi dù hàng ngàn
người Việt Nam
lẽ ra được hân hoan đón nhận hòa bình thay vì phải chết thảm thương! Tuy nhiên
việc làm của tác giả thật đáng trân trọng bởi ông là một sỹ quan, một nhà báo
nhiệt tâm đã gạt bỏ được những mặc cảm hận thù mang nặng trong lòng, cất lên
tiếng nói trung thực như sự đồng cảm với những người từng là đối địch, nhằm hóa
giải những mối bất đồng để hai dân tộc xích lại gần nhau trong mối quan hệ hòa
bình hữu nghị, quả là một sự dũng cảm mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Lời nói
chân tình của người bại trận khi đã ngộ ra chỉ càng làm cho ta cảm phục và thấy
cần phải suy nghĩ về mình: “Một vài ý kiến tại Mỹ cho rằng nếu tiến hành cuộc
chiến tranh ở Việt Nam
một cách hợp lý, không có áp lực chính trị thì người Mỹ đã chiến thắng. Trước
khi trở lại Việt Nam
vào năm 1994 tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng giờ đây tôi nghĩ khác. Chuyển biến
trong tôi chỉ diễn ra sau khi tôi thấu hiểu được rằng người Việt Nam có
ý chí sắt đá để có thể chiến đấu đến chừng nào đạt được mục tiêu thống nhất đất
nước mới thôi”. Dựa vào những chứng cứ và chứng nhân, tác giả tóm gọn trong lời
nhận xét như sau: “Ở Mỹ, những người lính tham gia Thế chiến thứ II trong hoàn
cảnh nguy nan trước sự tồn vong của tổ quốc và nhân dân, họ đã được coi là “Thế
hệ vĩ đại nhất”, và sai lầm lớn nhất của chúng ta (người Mỹ) tại Việt Nam là đã
không nhận ra được rằng chúng ta đang chiến đấu với “Thế hệ vĩ đại nhất” của
đất nước này”!
Chiến tranh không phải là ý muốn của một ai, càng
không phải là ý muốn của người dân. Tuy nhiên có người bị dụ cầm súng và có
người buộc phải cầm súng. Nhưng sau cuộc chiến người lính cả hai bên đều suy
ngẫm việc mình làm. Thời gian càng lâu càng có sự bình tâm suy xét trước sau
đặng nhìn càng rõ. Trong từng cuộc chiến, việc thành bại chưa hẳn bởi lẽ chính
tà, sự được thua chưa hẳn tùy thuộc vào bên mạnh yếu. Quên đi nỗi đau, xóa bỏ
hận thù, bước qua mặc cảm nhìn thẳng vào sự thật tìm mối giao hòa “để sai lầm
trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam không bao giờ xảy ra với các thế hệ người
Mỹ trong tương lai” không là việc dễ với cả kẻ thắng lẫn người thua. Để vượt
qua một nhược điểm của bản tính con người là coi nỗi đau của bản thân luôn lớn
hơn nỗi đau của người khác càng rất cần những tấm lòng chân thiện đặng hiểu rõ
về mình, nhìn đúng về người, phải trái có phân minh thì mới nói đến chuyện
nghĩa tình trong một nền hòa bình bền vững với lòng nhân ái. Bởi vì mục tiêu
cuối cùng của cuộc chiến tranh xâm lược là sự khuất phục của kẻ mạnh với người
yếu và diễn tiến thật khó lường. Sự bại trận của một bên có khi là dấu chấm hết
cho sự tồn tại của một dân tộc hay một quốc gia. Trái lại sự thất trận của một
bên mới chỉ là chấm dứt một ý đồ trước mắt song những mưu toan thâm trầm cương
nhu đủ kiểu vẫn làm cho đối phương điêu đứng và nếu họ không thức thời cảnh
tỉnh để tự vượt qua thì thắng lợi trong quá khứ sẽ chẳng còn ý nghĩa gì!
Khi người lính Mỹ cầm bút viết: “Lịch sử cho thấy
chúng ta phạm nhiều sai lầm trong chính sách về Việt Nam” và nói với người của
họ rằng: “Bất chấp khác biệt về văn hóa và chính trị, chúng ta đáng phải nhìn
nhận nỗi đau khổ của họ (người dân Việt Nam), đáng phải khâm phục quyết tâm của
họ” thì bạn đọc có suy nghĩ gì khi xem một vài nhà văn của chúng ta viết về
đồng đội và nhân dân mình một thời như thế?!
Trùng dịp này có một hãng buôn Nhật giỏi làm tiếp thị
đã trao “giải thưởng văn học” (!) cho cuốn tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh”
(xuất bản 1991), thổi nó lên vào loại “tinh hoa của văn học thế giới”! Ông nhà
văn tâm sự: “Chiến tranh hoàn toàn phi lý nhưng có lẽ nỗi buồn chiến tranh lớn
nhất chúng ta nhận thấy sau cuộc chiến đó chính là giữa ta và kẻ thù giống nhau
tới nhường nào”! Xem ra nó giống thứ triết lý sinh ra từ một cuộc chiến tranh
trước đó chưa xa: “Chiến tranh tàn phá chúng ta về mọi mặt! Và rồi chiến tranh
sẽ được quên lãng. Thế hệ lớn lên sau chúng tôi sẽ xa lạ với chúng tôi và gạt
bỏ chúng tôi. Chúng tôi là những kẻ thừa ngay cả với chính mình” (Mặt trận miền
Tây vẫn yên tĩnh)! Người viết lại nhớ câu ca dao học từ thuở nhỏ: “Lẳng lơ chết
cũng ra ma – Chính chuyên chết cũng mang ra ngoài đồng” mà ở trường thầy giảng,
về nhà mẹ dạy đều không quên nhắc tới hai cái “bia đá” và “bia miệng”, khác với
ngoài đời người ta chỉ nói buông lơi! Thật sự là những người chết chẳng thể
sống lại cũng như cái gì mất đi không biết đòi ai. Mọi sự tôn vinh chỉ để thỏa
lòng người sống. Dù sao những việc “đền ơn đáp nghĩa” cả xã hội đang làm đâu
phải là vô nghĩa. Trong khi “Hội chứng Việt Nam ” vẫn là nỗi đau không chỉ với
những nạn nhân trực tiếp của cuộc chiến mà còn hệ lụy tới mấy thế hệ sau dù là
nước Mỹ quá giàu!
Chuyện qua đi mấy chục năm rồi, nỗi buồn về cách nhìn
thiên lệch đối với tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc
của nhân dân ta như nhà giáo lão thành Trần Thanh Đạm đã nói giống như “sự sám
hối của những người anh hùng đã lỡ gây nên một sự nghiệp anh hùng” tưởng đã
nguôi đi, giờ lại nhói lên trong lòng nhà giáo: “Kẻ phi nghĩa sám hối mà cả
người anh hùng cũng sám hối. Thế là huề! Thế là thiện ác đảo điên, chính tà lẫn
lộn, vinh nhục bất phân”! Và ông day dứt: “Đó là một tin vui từ một nỗi buồn và
một nỗi buồn từ một tin vui cho những người viết văn và đọc văn ở Việt Nam hiện
nay”! Hiển hiện trước ta là sự thật mà người lính Mỹ ghi trên giấy trắng mực
đen: “Thật không may cho người Việt Nam, đất nước họ đã bị nước Mỹ chọn để dựng
chiến tuyến chống cộng sản” và lời khẳng định: “Việt Nam chưa bao giờ là mối đe
dọa với nước Mỹ. Họ đơn giản chỉ muốn chúng ta trở về nhà”!
Cùng vào thời điểm ấy, cuốn tiểu thuyết “Ăn mày dĩ
vãng” cũng được giải thưởng cao của Bộ Quốc phòng Việt Nam , đã nổi lên sự bất bình trong
công luận. Để nói lên sự phức tạp của xã hội thời hậu chiến tác động trực tiếp
tới người lính sau những năm tháng nhọc nhằn hiểm nguy thoát chết trở về sống
vất vưởng bên lề xã hội, trong tâm trạng bức xúc, nhà văn miêu tả người lính
chiến đấu để giải phóng quê hương mình không khác một tên đầu gấu hung hãn, tàn
bạo, khát máu, dung tục, giả dối và những điều tốt xấu anh làm đều vô thức.
Đồng thời nếu không là sự phản bội cũng là ác ý với đồng bào đồng đội đã yêu
thương, đùm bọc và cùng anh chiến đấu đến ngày anh được đeo lên cổ một quá khứ
đầy tự hào và mong dựa vào đó mà ăn mày vào cái dĩ vãng tồi tệ của một người
lính hư hỏng và bạt mạng! Chẳng thế mà anh ta đã “vất cha nó quá khứ vào đống
rác bên đường mặc cho ruồi nhặng kéo đến làm tình đẻ dòi đẻ bọ chơi”! Xem ra
thì viên Trung úy Calley chỉ huy vụ thảm sát Mỹ Lai còn dễ tha thứ hơn viên
Chuẩn úy Hai Hùng. Bởi lẽ kẻ kia dù có giết những người già, đàn bà, con trẻ
nhưng là người của đối phương; trong khi kẻ nọ thì ra lệnh chôn sống người đồng
đội của mình với lời giải thích lạnh lùng: “Một vết thương như thế, sự cứu chữa
chỉ làm cho nó trầm trọng thêm và sẽ gây một ấn tượng khiếp hãi không lường
được cho tất cả mọi người mà chết vẫn hoàn chết”!
Một ông làm thơ nhà binh được mời qua thăm Mỹ quốc,
trong phút xuất thần ông ta buột khẩu ra: “Suốt cuộc chiến tranh (với Mỹ), tôi (nhà
thơ) chỉ bắn có ba lần và toàn bắn chỉ thiên”! Không biết trong khẩu khí ấy có
mùi rượu mạnh? Hoặc để tỏ ra lòng người thơ đậm chất nhân văn? Hay là để bắt họ
với người sang? Hơn bốn mươi năm trước, người lính Mỹ đến Việt Nam ,
họ đã nhằm thẳng chúng ta mà bắn vì nghĩa vụ người lính GI (liên bang) của họ.
Họ đã nhằm tất cả chúng ta mà hủy diệt để phô trương sức mạnh Hoa Kỳ. Vậy mà có
một người lính Việt Nam
nhắm mắt mà bắn lên trời! Người chiến sỹ quân giải phóng Việt Nam nào cũng vậy thì làm sao có
ngày người thơ ấy được ngồi chung với họ để bàn chuyện văn chương?
Trong khi người lính Mỹ nhận ra sự thật: “Sai lầm lớn
nhất của chúng ta tại Việt Nam là đã không nhận ra được rằng chúng ta đang
chiến đấu với “Thế hệ vĩ đại nhất” của đất nước này!”, thì một nhà văn nổi
tiếng của nền văn chương hiện đại Việt Nam không ngần ngại xổ toẹt chút liêm sỉ
còn lại của mình: “Thế hệ chúng tôi nôn mửa vào cuộc chiến ấy!”. Hàng triệu
chiến sỹ đang nằm trong hàng nghìn những nghĩa trang liệt sỹ hoặc trong xó rừng
góc ruộng trên mọi miền đất nước có thể nào yên được?! Cuốn tiểu thuyết “Mặt
trận miền Tây vẫn yên tĩnh” (Phía Tây không có gì lạ) của tác gỉa người Đức
E.M.Remarque thường bị nhét vào ba lô hành quân của người lính dù ở bên này hay
bên nọ như là một điều mới trong văn học hậu chiến của chúng ta! Người ta nói
đó là tác phẩm hay nhất viết về đề tài chiến tranh. Câu chuyện kể về những
người lính Đức phần đông ở độ tuổi đôi mươi, đủ các thành phần xã hội, đặc biệt
là lớp học sinh được gọi là lứa “Thanh niên Sắt” trong chiến tranh thế giới thứ
nhất (1914–1918). Bối cảnh là cuộc chiến giằng co căng thẳng trên mặt trận Tây
Âu giữa quân Đức với liên quân Pháp-Anh-Mỹ. Đối diện trước cái chết tàn bạo
hàng ngày, người lính cả hai bên đều bế tắc không giải thích được nguyên nhân
của cuộc chiến này từ đâu: “Tôi thấy các dân tộc thù giết nhau như thế nào và
lẳng lặng, dốt nát, ngu xuẩn, ngoan ngoãn, ngây thơ giết chóc nhau ra sao. Tôi
thấy các đầu óc thông minh nhất thế giới chỉ chế biến ra các vũ khí cùng các
lời nói làm cho chiến tranh thêm tinh xảo và thêm dằng dai”! Bởi cả hai bên đều
nhằm mục đích tước đoạt của nhau. Trái hẳn với cuộc chiến tranh giải phóng của nhân
dân ta nhằm giành lại những cái của mình đã mất. Cụ Hồ – linh hồn cuộc kháng
chiến, nói với các nhà báo lúc mở đầu cuộc chiến chống Pháp: “Đồng bào tôi và
tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh. Cuộc chiến
tranh này chúng tôi muốn tránh bằng đủ mọi cách. Nếu người ta buộc chúng tôi
phải làm thì chúng tôi sẽ làm. Khi phải giữ chủ quyền của tổ quốc , cần hy sinh
thì cũng phải kiên quyết hy sinh”. Và hơn 20 năm sau đó, khi cuộc chiến chống
Mỹ ở lúc gay go nhất, vẫn nhất quán một lời: “Chúng tôi không muốn là người
chiến thắng. Chúng tôi không muốn là anh hùng. Chúng tôi chỉ muốn điều duy nhất
là họ (quân xâm lược) cút ngay khỏi đây thôi”!
Trớ trêu thay, con một nhà cách mạng vào lớp tiền bối,
trong khi nhiều người đồng lứa xếp bút nghiên lên đường chiến đấu thì Chu Hảo được
ưu ái mọi sự học hành, rồi lại được giao chức trọng quyền cao, mà khi hết thời
thì trở thành “bất hảo”, đã quay lưng lại với sự nghiệp của cha mình, của thế
hệ mình. Là cái loa của nhóm trí thức đang đấu tranh đòi tự do dân chủ, ông ta đưa
ra luận điệu: “Sau 50 năm rất ít người có lương tri, hiểu biết và nghiêm túc ở cả hai
phía, dám tự nhận là mình có thể trả lời một cách rõ ràng và đầy đủ các câu hỏi:
Cuộc chiến tranh tàn khốc và đau đớn ấy thực chất là cuộc chiến tranh gì? Là “Ý
thức hệ ủy nhiệm”? “ Xâm lược”? hay “Giải phóng”? Trách nhiệm của từng người
trong cuộc (người dân, người lính đến các tướng lĩnh và các nhà lãnh đạo quốc
gia) đến đâu? Đối với Việt Nam
và Hoa Kỳ thì cái thất bại nhất mà nhân dân cả hai phía đều gánh chịu phải
chăng là nỗi ám ảnh của cuộc chiến tranh: nó quằn quại và không rứt ra được”! Ở Việt Nam, đa phần từ người bình dân đến người có
học đều hiểu rằng: Cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) là tiếp tục cuộc kháng chiến chống
Pháp trước đó (1945-1954), mà thực chất là cuộc trường chinh chống xâm lược của
dân tộc ta kể từ 1858, khi quân viễn chinh Pháp nổ phát súng tấn công Đà Nẵng.
Lúc đó người dân Việt Nam đâu đã biết chủ nghĩa cộng sản là gì? Hết phong trào
chống Pháp ở Nam kỳ lan ra tới triều đình Huế, phong trào Cần vương, phong trào
Đông Du, phong trào Duy Tân, phong trào Bãi sậy, phong trào Đề Thám, phong trào
Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học, phong trào Cộng sản là một quá trình liên tục
chống ngoại bang xâm lược đòi thống nhất đất nước và độc lập, tự do. Tất nhiên,
theo đà phát triển của thế giới và trong nước, mỗi thời kỳ có một sắc thái khác
nhau. Tuy nhiên nỗi đau của mỗi dân tộc một khác. Người Pháp, người Mỹ đau vì
trong lịch sử chưa bao giờ họ thua một nước nhỏ yếu như vậy. Với người Việt, để
bảo toàn lãnh thổ và giữ gìn nền độc lập tự chủ mà dân tộc ta đã không chỉ một
lần phải chấp nhận nỗi đau như thế!
Bạn đọc nghĩ sao khi người ta níu vào thứ triết lý hư
vô: “Không có cuộc chiến tranh nào là chiến thắng với những bà mẹ mất con”, có
nghĩa chiến tranh chỉ là tàn bạo, chỉ có những người bị giết và không có kẻ nào
thủ ác?! Một bà mẹ khi nghe tin đứa con trai út hy sinh, bà tìm lên căn cứ báo
cho anh Hai nó là chiến sỹ tình báo Nguyễn Văn Tào (Anh hùng lực lượng vũ trang
Tư Cang). Bà nói rành rọt gọn gàng từng câu không để một giọt nước mắt chảy ra:
“Bị khui hầm, nó chống trả tới lúc hết đạn. Chết vậy mà tao chịu chớ đầu hàng
thì nhục lắm!”. Không bà mẹ nào muốn đẩy con vào chỗ chết. Nhưng mất nước là nỗi
nhục lớn nhất một dân tộc! Nô lệ hay là chết? Đấy là lẽ sống truyền đời của
người Việt mà vì thế hôm nay vẫn còn một nước Việt Nam trên bản đồ thế giới. Hòa bình
đã bao năm nhưng nhiều bà mẹ không biết con mình đang gửi xương cốt ở đâu. Một
đoàn những phụ nữ Mỹ đi tìm hài cốt chồng con chết ổ Việt Nam gặp những bà mẹ
Việt Nam cũng chưa tìm được tung tích chồng con, được nghe những nỗi tâm tư: “Dù
đêm ngày chúng tôi vẫn mong đưa được hài cốt người thân yêu về vối quê hương và
dù sao thì chúng tôi vẫn có niềm tin chắc chắn là những người thân yêu đang nằm
trong lòng đất mẹ và trước sau gì rồi chúng tôi cũng sẽ gặp nhau”! Những bà mẹ
này có khác những bà mẹ đi biểu tình đòi trả xác con về? Cái chết của những người
con ấy có khác gì nhau? Chủ nghĩa nhân đạo nào cảm thông như nhau với những bà
mẹ ấy? Cầu mong sự yên bình sẽ đến với tất cả mọi người và sẽ tới lúc người ta
phải suy nghĩ về một sự khoan dung âm thầm thánh thiện từ đâu? Phải chăng đó là
tính nhân văn cao cả của “chân trần chí thép Việt Nam ”!
Cái chết của hàng triệu người bên này, của hàng trăm
ngàn người bên nọ và của hàng chục ngàn người ở nơi xa kia nữa nguyên khởi từ
đâu? Làm sao có thể lẫn lộn giữa cuộc chiến tranh xâm lược với cuộc nội chiến
nồi da xáo thịt. Kể từ khi lập quốc, lịch sử dân tộc ta chỉ có một cuộc chiến
tranh huynh đệ tương tàn vào thời Trịnh–Nguyễn. Đó là những trang sử đau thương
đẫm máu người Việt không thể nào quên. Nếu làm cuộc truy tầm gia phả sẽ không
có vùng quê nào, không có dòng tộc nào là không có đổ máu phơi xương suốt gần
ba thế kỷ. Dân tộc ta từng phải chống chọi với nhiều thế lực xâm lược Nam ,
Bắc, Đông, Tây. Kẻ xâm lược nào cũng trương lên đủ mọi thứ chiêu bài để lợi
dụng máu của người bản xứ phục vụ cho sự chiếm đoạt, hà hiếp, diệt trừ, áp
đặt ách thống trị của chúng. Những đội
quân tay sai, đánh thuê hình thành và theo nhau thảm bại cùng với chủ. Xét cho
cùng, không ai dễ nói hay. Những người Việt lâm vào tình huống không thể đặng
đừng phần đông đều do những nghịch cảnh trớ trêu. Lịch sử nhìn họ như những nạn
nhân của cuộc chiến tranh xâm lược. Trong khi người lính viễn chinh kia thừa
nhận: “Khi chiến trường phủ lên toàn bộ một đất nước như trong chiến tranh Việt
Nam thì toàn bộ nhân dân của đất nước này đều là nạn nhân” thì lại có một ông lớn
giả nhân giả nghĩa nói giọng mị dân: “Ngày 30 tháng Tư, có hàng triệu người
sung sướng thì cũng có hàng triệu người đau khổ”. Không! Đất nước thống nhất là
niềm vui chung của những người Việt Nam chân chính. Tổ quốc hòa bình là
ước mơ hằng khao khát từ bao đời đã đến từng mỗi gia đình Việt Nam
không phân biệt một ai. Còn nỗi đau là của cả dân tộc dù người ở bên này hay ở
bên kia. Mỗi nỗi đau một khác nhưng bằng tình yêu thương đùm bọc của tình nghĩa
đồng bào, được sống trong cảnh đất nước an bình, được hướng tới một tương lai ổn
định, mọi nỗi đau dần sẽ dịu đi trong tình thương chia sẻ.
Khi điều đúng sai không được minh định rõ ràng chỉ đưa
lại những hậu quả ngày càng u ám nặng nề. Trải khoảng cách thời gian những sáu
trăm năm mà xem ra tướng lĩnh và sỹ tốt của đội nghĩa quân Lam sơn “thừa thiên
hành đạo” trong cuốn sách “Hội thề” được giải văn chương lớn chẳng khác chi mấy
anh cán bộ chiến sỹ Quân giải phóng kiểu Hai Hùng cùng đám lính sống trong một
vạt rừng nhỏ bên sông Sài Gòn ở đất Bình Dương suốt mười năm chỉ biết việc chém
giết với làm tình! Suốt 30 năm kháng chiến trường kỳ, ông Nguyên Ngọc xứng đáng
là một nhà văn dũng sỹ. Ngòi bút của ông phát huy uy lực hơn nhiều khẩu súng.
Thế mà trong bối cảnh thời hậu chiến rối ren phức tạp, đen trắng mù mờ, ông đã
dùng những trang viết của mình làm lá chắn che tội cho lũ người phản bội và cơ
hội, kể cả những tên phạm tội diệt chủng sát hại đồng đội, bà con cô bác anh chị
em con cháu của ông! Phải chăng lịch sử đang bị làm hoen và những con người hy
sinh vì nghĩa cả đang bị bôi đen!
Những tác phẩm văn học nhìn lịch sử dân tộc tối đen
như thế, nhìn lớp cha anh lem luốc như thế đã làm gia tăng quá trình biến tướng
xã hội ta trước lớp trẻ hôm nay, đang sinh ra một lớp người không tin ai, không
yêu ai, mơ hồ về tương lai và chỉ biết sống qua ngày! Cái họa ngoại xâm đang
rập rình nơi biên giậu không chỉ là mối lo, mà là nguy cơ mất còn của Tổ quốc.
Các thế hệ hiện hữu từng chịu đựng, chứng kiến và thoát khỏi sự tàn khốc của
chiến tranh sẽ không thể lại bị chiến tranh hủy diệt! Nguy cơ chính yếu sẽ bung
ra từ những mâu thuẫn nội tại như những ung nhọt trong ta không được sớm loại
trừ.
Người xưa dạy: “Dân vi quý – Xã tắc thứ chi – Quân vi
khinh”. Xã tắc chỉ là nơi lập đền tế hoàng thiên hậu thổ. Mất dân thì xã tắc
không còn. Vua tôi lại thành thân dê chó trong cái hận vong quốc nô nhục nhã!
Lòng yêu nước truyền thống của dân tộc ta không phải
là nỗi bất bình bột phát ra thành sức mạnh điên cuồng mù quáng mà có nguồn cội từ
truyền thống văn hóa sản sinh ra nó, nuôi dưỡng nó, phát huy nó thành sức mạnh
vô biên “dũng mà nhân, nhân mà trí” mới có thể dựng lên ngọn cờ “Lấy nhân nghĩa
thắng hung tàn. Lấy trí nhân thay cường bạo” trong quá trình dựng nước và giữ
nước. Hòa hợp và hòa giải nhằm mục tiêu “muôn nhà hòa thuận, đầy sân quế hòe”
đặng mọi người được sống trong một đất nước hòa bình, ổn định, văn minh, phồn
thịnh, trường tồn. Tầm vóc người Việt mình là vậy và cũng chỉ mong có vậy chớ
đâu cần phải làm cho thiên hạ “thấy chúng ta mạnh mẽ và cao lớn về tầm vóc văn
hóa” như một quan chức cấp cao nói bốc đồng lên.
Đã đến lúc nhà nước cần nghiêm túc đánh giá đúng hiệu
quả của công cuộc trồng người. Đó không phải là việc riêng của ngành giáo dục,
mà là việc hệ trọng của toàn xã hội đến mỗi gia đình. Đồng thời những người cầm
bút tâm huyết có trách nhiệm, bằng sự hiểu biết và luôn tỉnh thức trong mọi
tình huống, với lòng nhân ái cùng trái tim nồng cháy yêu thương sẽ làm được
những điều tiền nhân ta từng hy sinh phấn đấu và luôn mong mỏi: “Xã tắc từ đây
bền vững / Giang sơn từ đây đổi mới / Càn khôn bỉ mà lại thái / Nhật nguyệt hối
mà lại minh / Muôn thuở nền thái bình vững chắc” như lời bố cáo sau khi đã bình
Ngô!
Tuần
báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh
Số 432, Thứ năm ngày 15 tháng 12 năm 2016