ĐÔNG LA
GS TRỊNH XUÂN THUẬN VIẾT
VỀ
KHOA HỌC VÀ ĐẠO PHẬT
Tôi đã một lần viết về
sự liên quan giữa khoa học và Đạo Phật nhưng không phải ý của tôi mà phản biện
ý người khác. Trước khi viết bài nói ra ý của mình, xin trích đăng lại một số ý
đã viết.
Về mối liên quan giữa khoa
học và Đạo Phật Einstein nói: “Khoa học mà thiếu tôn giáo thì khập khiễng.
Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng”. (Science without religion is
lame, religion without science is blind). Về đạo Phật, ông cũng
nói: "Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa
học hiện đại thì đó là Phật giáo” (If there is any religion that would cope
with modern scientific needs, it would be Buddhism).
Dù vậy, không chỉ trên
thế giới, ở nước ta hiện tại vẫn có những nhà khoa học phản bác trực tiếp hoặc
gián tiếp Đạo Phật qua những ý kiến phủ nhận những hiện tượng tâm linh. Ông GS
Nguyễn Lân Dũng từng nói trên tivi: “Chết là hết”; Ông Khải “ô zôn”:
"cái gọi là ngoại cảm thì riêng tôi, tôi không bao giờ tin, nó chỉ là
vớ vẩn mà thôi"; ông Bằng “tia đất” thì cho ngoại cảm là “lừa đảo”;
còn ngoại cảm theo ông sư Thích Thanh Duệ, Ủy viên Thường trực Hội đồng Trị sự
GHPGVN, Viện trưởng Phân Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, thì những
người có khả năng ngoại cảm không phải theo đạo Phật nhưng khi hành nghề họ cảm
thấy có liên quan nhiều đến đạo Phật nên họ “muốn kéo vào để gây thanh thế”;
“Sau 49 ngày, phần hồn ấy sẽ được quyết định là đầu thai vào nơi này hay nơi
khác. Khi thần thức của con người đã chuyển tiếp rồi thì nó không thể trở lại
nói chuyện được với các nhà ngoại cảm nữa”.
Có tình trạng như vậy
bởi hiểu đúng thế giới tâm linh theo tri thức hiện đại là rất khó.
Trước ý định của tôi viết
về những nét tương đồng giữa Khoa học và Đạo Phật, đã có những nhà khoa học
viết về chủ đề này, trong đó có GS Vật lý Thiên văn Trịnh Xuân Thuận, một nhà
khoa học nổi tiếng thế giới, cũng là một Phật tử. Tiếc rằng, theo tôi những ý của
ông còn chưa chuẩn.
Ông viết: “Phật giáo
đưa ra quan điểm rằng vật thể hiện hữu … tuy nhiên hiện hữu này là thuần túy
duyên khởi. Đây là cái mà Đức Phật gọi là Trung Đạo”.
Về khái niệm Trung
đạo, Đức Phật khi nghĩ về người lên dây đàn, căng quá sẽ đứt, chùng quá
không thành tiếng, chỉ vừa phải mới cho ra tiếng đàn tuyệt diệu, ngài đã ngộ ra
con đường tu luyện đúng đắn là Trung đạo. Cũng như ngài đã bỏ con
đường cực đoan mà ngài từng tu luyện theo phép khắc khổ. Trung đạo chính
là nguyên lý cho mọi sự thành tựu nhưng Trung đạo không phải
là Duyên khởi.
Phật Thế Tôn sau khi đạt
chính đẳng giác (sa., pi.abhisambuddha), dưới gốc một cây bồ-đề ngồi kiết già
bảy ngày quán chiếu Nguyên lý Duyên khởi. Duyên khởi cùng
vói Vô ngã là hai giáo lí trụ cột của Phật giáo gồm có 12 yếu
tố. Trong đó, Vô minh, sự không thấu hiểu Tứ diệu đế,
không hiểu Khổ là tính chất căn bản của đời sống; Vô
minh sinh Hành, hành động tạo nghiệp. Hành động này có thể
tốt, xấu hay trung tính. Hành có thể ở trong ba dạng: thân,
khẩu và ý; Hành sinh Thức, làm nền tảng cho một
đời sống tới. Thức này đi vào bụng mẹ. Thức lựa
chọn cha mẹ đúng như Hành tốt xấu quy định; Thức sinh Danh
sắc là toàn bộ tâm lí và vật lí của một cơ thể do Ngũ uẩn tạo
thành. Danh sắc sinh Lục căn là các giác
quan, sáu căn (năm giác quan và khả năng suy nghĩ là sáu). Lục căn bắt
đầu tiếp xúc với bên ngoài gọi là Xúc. Xúc sinh Thụ là
cảm nhận của con người mới với thế giới bên ngoài. Thụ sinh Ái,
tham ái, lòng ham muốn xuất phát từ vô minh. Ái sinh Thủ là
điều cá nhân muốn chiếm lấy cho mình.
Với khoa học, GS Trịnh
Xuân Thuận cũng có một ý về Duyên khởi:
“Một ý niệm gây
ấn tượng tương tự như duyên khởi của Phật giáo đó là khái niệm về tính “bất khả
phân” hay “phi-cục-bộ” trong Cơ học lượng tử được khám phá qua một cuộc thí
nghiệm tưởng tượng nổi tiếng do Einstein, Podolsky và Rosen (EPR) đưa ra vào
năm 1935
Với hai cái photons
tương tác này, ý niệm về “nơi này” và “chỗ kia” trở thành vô nghĩa bởi vì “nơi
này” cũng chính là “chỗ kia”. Đó là những gì mà nhà vật lý gọi là “tính
bất-khả-phân” hay “phi-cục-bộ” của không gian. Điều này cũng tương tự với ý
niệm duyên sanh, duyên khởi của thế giới hiện tượng trong Phật giáo”.
Trước hết xin nói rõ
thêm tí về vật lý, thí nghiệm EPR của nhóm Einstein nói trên dựa vào chính lý
thuyết của Cơ học Lượng tử nhằm diễn tả câu chất vấn: “Liệu sự mô tả thực tại vật lý bằng CHLT có thể xem là
đầy đủ hay không?”
(Can QM Description of Physical Reality Be Considered Complete?) Theo lý
thuyết, một hạt photon có thể tách thành hai hạt chuyển động ngược chiều nhau,
nếu xác định một đại lượng (như vận tốc chẳng hạn) ở hạt này thì cũng sẽ đồng thời xác định
được vận tốc của hạt kia. Vì cũng theo lý thuyết, hai hạt có tính vướng víu (entangled) với nhau mà Einstein
đã gọi là một tác động ma quái ở
khoảng cách (spooky action at a distance). Đồng thời với phép đo vận
tốc, ta cũng xác định động lượng của hạt kia cũng sẽ biết
được động lượng của hạt này. Như vậy, ta đồng thời xác định
được cả vận tốc và động lượng của một hạt, một điều làm sụp
đổ Nguyên lý Bất định, trái tim của Cơ học Lượng tử. Còn cái tác
động ma quái (spooky) cũng mâu thuẫn với Thuyết Tương đối cho không có gì
chuyển động tức thời nhanh hơn cả vận tốc ánh sáng.
Nhưng Cơ học Lượng tử
cho rằng, không có thực (realism) hai hạt, mà hai hạt chỉ tồn
tại khi ta thực hiện một phép đo mà Cơ học Lượng tử gọi là làm suy
sụp hàm sóng; và đặc biệt hai hạt có trạng thái phi định xứ (nonlocality),
tức cả hai là nhất thể, tuy hai mà là một, nên đo cái này cũng
chính là đo cái kia, thí nghiệm tưởng tượng của nhóm Einsetin sẽ không thực
hiện được. Nên quan điểm của Einstein và cộng sự về Cơ học Lượng tử là sai!
Tiếc thay, về sau các thực nghiệm tinh xảo đã chứng tỏ đúng như vậy.
Như vậy việc hai hạt có
trạng thái nhất thể không thể nói như GS Trịnh Xuân Thuận “tương tự
như duyên khởi của Phật giáo”. Vì Duyên khởi nói về nhân
quả, khởi từ cái duyên này sẽ sinh ra cái kia, rồi khởi từ cái “kia” lại
sinh ra cái “kìa”, và cứ thế mãi chứ không nói về nhất thể!
***
Tiếp nữa, GS Trịnh Xuân
Thuận viết:
“Một thí nghiệm vật
lý hấp dẫn và nổi tiếng khác cho thấy tính duyên khởi của hiện tượng không phải
chỉ giới hạn trong thế giới của các hạt nhưng lan rộng ra đến cả toàn thể vũ
trụ là thí nghiệm về quả lắc được thực hiện bởi nhà vật lý Léon Foucault vào
năm 1851 tại điện Panthéon, Paris nhằm giải thích về việc Trái Đất quay. Tất cả
chúng ta hầu như ai cũng đều biết đến đặc tính của quả lắc. Với thời gian trôi,
phương hướng của quả lắc cũng thay đổi theo. Nếu ta bắt đầu cho nó lắc theo
hướng bắc-nam, chỉ vài giờ sau nó sẽ lắc theo hướng đông-tây… Foucault nhận
thức rằng, trong thực tế, cái quả lắc đã lắc cùng một hướng, chỉ có Trái Đất là
đang quay”.
GS Trịnh Xuân Thuận
viết: “cái quả lắc đã lắc cùng một hướng, chỉ có Trái Đất là đang quay”
xem chừng không đúng, thực chất ông GS còn chưa hiểu bản chất của thí nghiệm
trên. Vì Léon Foucault làm thí nghiệm con lắc chứng tỏ khi Trái Đất quay đã tạo
một lực “văng” (khoa học gọi là Hiệu ứng Coriolis) làm mặt phẳng chuyển
động của con lắc quay quanh trục của nó. Tại vĩ độ đi qua Paris , con lắc đã thực
hiện một vòng quay thuận chiều kim đồng hồ sau 30 giờ:
Như vậy, trái đất quay
làm con lắc chuyển động khác hướng chứ không “cùng một hướng” như ý GS
Trịnh Xuân Thuận.
GS Trịnh Xuân Thuận
tiếp:
“Tuy nhiên vẫn còn
một vấn đề nan giải mà mãi cho đến nay người ta vẫn chưa hiểu được rõ ràng. Cái
quả lắc của đồng hồ được thiết trí cố định trong một không gian, nhưng mà cố
định tương ứng đối với cái gì? … Để tìm hiểu xem thiên thể nào đã điều khiển
cái quả lắc của đồng hồ Foucault, việc giản dị là chúng ta đặt con lắc hướng về
phía thiên thể đó. Nếu như thiên thể đó đang di động trong bầu trời, mà vẫn luôn
luôn nằm ở trong hướng chỉ của con lắc, ta có thể kế luận rằng thiên thể đó là
tác nhân chính trong sự vận hành của con lắc. Bây giờ chúng ta hãy để con lắc
hướng về phía Mặt Trời. Sau một tháng, ngôi tinh cầu này đã chệch ra khỏi hướng
của quả lắc 15 độ. Bây giờ chúng ta quay quả lắc về hướng ngôi sao gần nhất,
Proxima Centauri, cách xa khoảng 4 năm ánh sáng. Ngôi sao này lưu lại trong
hướng chỉ của quả lắc lâu hơn, …Và rồi chỉ có những thiên hà có khoảng cách lớn
nhất, tọa lạc tận cùng bờ mép của vũ trụ mà chúng ta có thể biết được, cách xa
ta đến hàng tỉ năm ánh sáng là không hề đi ra khỏi hướng chỉ của con lắc.
Kết luận mà chúng ta rút
ra được từ thí nghiệm này rất mực đặc biệt: Hoạt động của con lắc đồng hồ
Foucault không hề dựa vào thái dương hệ này mà là vào những giải thiên hà xa
nhất, hay nói một cách đúng đắn hơn, vào toàn thể vũ trụ, điều này cho thấy
rằng hầu như tất cả vật chất biểu kiến được tìm thấy trong những giải thiên hà
xa xôi nhất mà không phải là những tinh tú gần ta. Như thế cái gì xảy ra ở đây,
trên Trái Đất này, đều được quyết định bởi cả toàn thể vũ trụ bao la. Cái gì
xuất hiện trên ngôi hành tinh nhỏ bé này đều nương tựa vào toàn thể cấu trúc
của vũ trụ”.
Tôi thấy những ý trên
không đúng với thực tế thí nghiệm Con lắc Foucault. Bởi sau 30 tiếng, Hiệu
ứng Coriolis làm con lắc quay
quanh trục 1 vòng đối với trái đất, Trái Đất lại tự quay quanh trục sau 24 giờ,
rồi Trái Đất lại quanh quanh Mặt Trời 1 năm một vòng, làm sao “Bây giờ chúng
ta hãy để con lắc hướng về phía Mặt Trời. Sau một tháng, ngôi tinh cầu này đã
chệch ra khỏi hướng của quả lắc 15 độ”?
Rồi hướng dao động của
con lắc thay đổi theo một mớ bòng bong như vậy, làm sao “chỉ có những thiên
hà có khoảng cách lớn nhất, tọa lạc tận cùng bờ mép của vũ trụ … là không hề đi
ra khỏi hướng chỉ của con lắc”? Để rồi ông GS Trịnh Xuân Thuận đưa ra cái
kết luận siêu hình:
“Hoạt động của con
lắc đồng hồ Foucault không hề dựa vào thái dương hệ này mà là vào những giải
thiên hà xa nhất, hay nói một cách đúng đắn hơn, vào toàn thể vũ trụ… cái gì
xảy ra ở đây, trên Trái Đất này, đều được quyết định bởi cả toàn thể vũ trụ bao
la”.
Thực tế, con lắc chịu
tác động mạnh nhất bởi lực văng do sự quay của Trái Đất; theo quy luật về hấp
dẫn, tác động mạnh kế tiếp phải là Thái Dương hệ rồi mới đến “vũ trụ bao la”.
Vì vậy những ý của GS
Trịnh Xuân Thuận là không đúng với thực tế. Tôi cố gắng suy ngẫm những điều sâu
xa hơn ông GS muốn bày tỏ mà ông không diễn đạt “sõi” nhưng chịu không sao thấy
được điều gì cả. Vì thế từ con lắc Foucault ông viết “Một lần nữa, chúng ta
lại đi đến một kết luận rất gần gũi với ý niệm về duyên khởi của Phật giáo: mỗi
bộ phận đều chứa đựng cái toàn thể, và mỗi bộ phận đều nương tựa vào tất cả các
bộ phận khác” lại không thỏa đáng!
***
Về con lắc Foucault, ông
Phạm Việt Hưng, một giảng sư dạy toán đại học hình như ở Úc, trong bài Con
lắc Foucault và Vũ trụ Nhất thể cũng viết:
“Hơn mười năm trước,
thật ngạc nhiên thú vị vô cùng khi tôi biết rằng con lắc Foucault có mối liên
hệ chặt chẽ với toàn bộ vũ trụ. Thật tuyệt vời!
Đã hơn nửa thế kỷ trôi
qua, nhưng có một kỷ niệm thơ ấu tôi không bao giờ quên: đó là câu chuyện về
con lắc Foucault mà thầy dạy Địa lý năm đầu cấp II của tôi là thầy Cang kể cho
học trò nghe.
Đầu tiên thầy làm thí
nghiệm: buộc một vật nặng vào một sợi dây, đầu kia của sợi dây buộc vào một
chiếc thước kẻ, … và cho vật nặng dao động như một con lắc đồng hồ… rồi thầy
nói:
- Các em nhìn đây, trong
khi thước kẻ quay, con lắc vẫn dao động theo tư thế ban đầu, nó không chịu quay
theo thước kẻ, thế có lạ không?
…Nhưng chuyện con lắc
Foucault không dừng lại ở đó. Nó luôn bám theo tôi với một câu hỏi: tại sao con
lắc giữ nguyên mặt phẳng dao động của nó?”
Nếu ông Phạm Việt Hưng “ngạc
nhiên thú vị vô cùng” về câu chuyện trên thì tôi cũng “buồn cười vô cùng”
vì không phải “con lắc giữ nguyên mặt phẳng dao động của nó?” như ông
nghĩ mà mặt phẳng dao động của con lắc xoay tròn vì bị tác động bởi chuyển động
quay của Trái Đất!
1-2-2017
ĐÔNG LA