ĐỨA NÀO CHẶN MẠNG CỦA ÔNG?
Tôi nhận được cả email và điện thoại của
ông Nhà Văn BS Nguyễn Văn Thịnh:
-Đông La ơi sao mình không vào được
trang của Đông La?
-Chắc bọn nào đó nó chặn, nhiều người
đã hỏi em, chính máy của em thỉnh thoảng cũng không vào được, em phải cài đặt
lại proxy. Chỉ cái này cho anh làm được cũng khó. Thôi để em đến nhà anh làm
cho.
Tôi đã đến nhà giúp ông bạn nhà văn BS
đã sát nút 80.
Nhưng đứa nào chặn mạng của ông?
Hồi đầu chưa bị chặn lượng độc giả vào
đọc rất nhiều, có ngày 5-6000 lượt truy cập, nhất là những bài tôi viết về cuốn
“Bên thắng cuộc” của Huy Đức “San hô”. Viết có nhiều người đọc thì cũng thích
nhưng cũng có cái dở vì tôi chịu cái hiệu ứng thần giao cách cảm khá là khó
chịu. Mà trang của tôi là trang về lý luận, học thuật, tri thức, nhận thức,
đâu cần lượng độc giả mang tính bầy đàn. Người có học, đến GSTS hiểu tôi viết
còn khó, huống chi vô học, lũ lượt vào đọc không hiểu còn chửi bậy thì cần gì
loại độc giả đó?
Nhưng chẳng ai muốn trang mình bị chặn
cả. Trang tôi phê phán nhiều nhất bọn cơ hội chính trị, trí thức tinh ma rồi
mới đến bọn có chức quyền hại dân, hại nước, nhưng luôn bảo vệ chế độ, dù nó
như ngôi nhà dột nát. Tôi hay nói dột thì sửa, còn có nhà mà ở, còn tay trắng,
ảo tưởng, như bọn hoang tưởng chính trị đòi đập nhà đi thì biết ở đâu? Những
nước đang loạn là những bài học nhãn tiền.
Vậy đứa nào chặn mạng? Có lẽ muốn
không bị chặn thì viết không đụng chạm đến ai nữa. Nhưng với tôi, cả tô hồng
lẫn bôi đen chế độ đều có tội, một nhà văn có lương tri là phải viết sự thật
và có trách nhiệm. Còn không thì viết làm gì cho mất công?
Còn bây giờ tôi sẽ đăng bài của chính
ông Nguyễn Văn Thịnh.
6-3-2017
ĐÔNG LA
|
Nguyễn Văn Thịnh
TRƯƠNG VĨNH KÝ OAN NỖI GÌ?
Đầu
năm nay, tại TPHCM xảy ra một hiện tượng văn hóa khá ồn ào. Số là cuốn sách tựa
đề “Petrus Ký – Nỗi oan thế kỷ” (Nhã Nam và Nhà xuất bản Tri thức) do cụ
Nguyễn Đình Đầu chủ biên, đã không được ra mắt như đã định do Ban Tuyên
giáo Trung ương đề nghị thu hồi để chỉnh sửa theo yêu cầu của Cục Xuất bản, In
và Phát hành trong khi sách đã được Cục Xuất Bản chấp thuận và cấp phép lưu
chiểu từ mấy tháng trước. Thiết nghĩ đó là việc làm bình thường vì trách
nhiệm của cơ quan quản lý văn hóa, dù rằng lệnh đưa ra vào phút chót có phần
cập rập nhưng tránh được một một sự đã rồi. Lập tức một số phương tiện truyền
thông có phản ứng bằng những lời lẽ rất gay gắt, không phải là những lời phản
biện bình thường mà nó là phản ứng đầy nộ khí, tới mức là hằn học: Một “sự kiện
văn hóa” rất phi văn hóa; Một sự chối bỏ lịch sử; Nhân vật ấy cho đến lúc này,
khi vừa mới có cơ hội được trở lại với lịch sử thì cũng ngay lập tức đã bị ngăn
trở lại một cách dứt khoát và quyết liệt đến ngỡ ngàng trước những sự phẫn nộ
của nhiều người dân được biết sự thật về ông; Người ta vẫn còn “sợ” những vĩ
nhân thật sự như cụ Trương...
Sách khổ 17x25cm, dày hơn 600 trang, in 2.000
cuốn, tuy chưa được phép phát hành nhưng không ít người đã nhận được sách biếu.
Thực ra đó không phải là công trình nghiên cứu mà chỉ là sự thu gom có lựa chọn
những bài viết về Trương Vĩnh Ký của nhiều nhân vật đương thời có liên quan tới
ông và của hậu thế nhận xét đánh giá về ông, tất nhiên theo chủ ý của người
biên tập. Ngoài một vài bài viết mới được đưa ra, còn đa phần với những bạn đọc
quan tâm thì không có điều chi mới lạ.
NHÀ
ÁI QUỐC?
Đánh giá một nhân vật tầm cỡ như Trương Vĩnh
Ký phải nhìn toàn diện cả những hoạt động văn hóa, xã hội và tác động trước mắt
cũng như lâu dài của nó tới cộng đồng dân tộc. Điều nổi bật ở nhân vật này là
những hoạt động văn hóa và xã hội đồng nhất với nhau nhằm vào một mục tiêu suốt
đời ông theo đuổi. Đã có nhiều bài viết và cả những công trình khá công phu về
Trương Vĩnh Ký của nhiều nhà hoạt động xã hội và nghiên cứu như Trần Chung
Ngọc, Nguyễn Sinh Duy, Vũ Ngự Chiêu, Lê Trọng Văn, Bùi Kha, Nguyễn Mạnh Quang,
Nguyễn Đắc Xuân, Phạm Long Điền, Mẫn Quốc, Nguyễn Thái Văn…, trong đó nhiều vị
hiện đang sống ở nước ngoài, đều chung nhận định.
Ngay lúc sinh thời họ Trương và cho tới hôm
nay, hơn một thế kỷ sau khi ông không còn tồn tại trên cõi đời này, đã có biết
bao điều ong tiếng ve, hao tổn nhiều giấy mực vào việc khen, chê. Tiến sỹ Bùi
Kha – một người có nhiều bài nghiên cứu về Trương Vĩnh Ký, đang sống ở nước
ngoài nhận định rằng ông Nguyễn Đình Đầu đã mập mờ lờ đi hoặc không hay biết
(?) nhiều bức thư trao đổi giữa Trương và các viên chức trong chính phủ thực
dân tại An Nam để che tội cho Trương.
Lúc 22 tuổi, khi vừa chân ướt chân ráo từ
trường Dòng Penang về Sài Gòn, Trương đã dùng vốn chữ học được viết thư khẩn
thiết rước giặc vào nhà: “Tôi nhân danh là người đại diện cho tín hữu Kitô kính
dâng lên Ngài lời cầu xin của chúng tôi… Tất cả chúng tôi chắc sẽ chịu chết nếu
Ngài không kịp đánh đuổi kẻ thù của chúng ta”! Trong khi chính tướng giặc Page
đã viết thư về Paris tấu trình sự thực: “Những năm đầu mới lên ngôi, vua Tự Đức
có một thái độ đối sử khá ân cần với họ (các giáo dân). Nhà vua đã ra lệnh cho
các quan lại địa phương có thái độ khoan dung rộng rãi với họ trong những
chuyện làm trái pháp luật, những vụ phạm pháp nhỏ. Nhưng rồi các giáo dân do
các giáo sỹ lãnh đạo ngày càng xấc xược, ngạo mạn đến mức họ không thèm biết cả
chính quyền địa phương. Họ công khai nổi loạn, họ tuyên bố người Kitô giáo
không thể vâng lời những kẻ theo một tôn giáo khác”, đến nỗi Genouille cũng
phải thốt lên: “Không một nền cai trị nào dù là phục vụ đạo Kitô lại có thể
dung thứ cho sự xâm phạm thường xuyên, ngu xuẩn vào các vấn đề chính trị, dân
sự và quân sự vốn không được và không phải thuộc quyền hạn của họ”. Cho đến
cuối đời, khi bị thất sủng, Trương vẫn một lòng cúc cung với giặc của một
“Người bề tôi tận tâm và vâng lời: Khi trở lại đời sống tư, lòng tôi luôn luôn
thuộc về nước Pháp, và những công việc phục vụ nhỏ mọn của tôi cũng thuộc về
nước Pháp”.
Cuộc sống và việc làm của họ Trương dù đa dạng
nhưng chỉ có một chiều là phụng sự ngoại bang như chính ông đã công khai thừa
nhận: “Tôi là người Pháp từ trái tim và sẵn sàng để trở thành người Pháp thực
sự”, “Nước Pháp mà tôi phụng sự và hoàn toàn thuộc về nó”, thậm chí tới mức:
“Tôi xả thân làm bốn mảnh vì ngài và vì sự thành công của nhiệm vụ cao cả của
ngài” (Thư gửi Paul Bert). Xin lưu ý với bạn đọc rằng sau chiến tranh Pháp -
Phổ (1870), nước Pháp tuy thắng trận song cũng lao đao. Cuộc bình định xứ Viễn
Đông xa xôi gặp nhiều trắc trở và tốn kém. Chính giới Pháp nản lòng. Hạ nghị
viện đòi rút quân về. Trong số 33 ủy viên đặc trách bàn thảo vụ Bắc kỳ, chỉ có
6-7 người khăng khăng đòi duy trì sự chiếm cứ, trong đó có P. Bert. Y hô hào vì
danh dự, quyền lợi thương mại và chính trị… buộc nước Pháp phải ở lại đây! Đầu
năm 1886, P. Bert đến Sài Gòn, móc nối ngay với Trương Vĩnh Ký và Trương đã
nhanh nhảu đáp ứng yêu cầu rất hữu hiệu.
Một quốc gia có được một công dân nổi danh
“thiên hạ kỳ tài” tất nhiên là niềm tự hào cho cả dân tộc bất kể dưới thời đại
hoặc thể chế nào. Lớp hậu thế cần sự nghiêm cẩn khi tìm hiểu những giá trị của
tiền nhân, đặc biệt trong một giai đoạn lịch sử hàng trăm năm đầy bi tráng của
dân tộc ta. Linh mục Trương Bá Cần nhận xét rất vô tư: “Anh hùng cứu được nước
như Lê Lợi, Hồ Chí Minh… không phải thời nào cũng có. Và khi đã không có một
minh chủ, một lãnh tụ có khả năng tập hợp và tổ chức, thì người dân bình
thường, kể cả kẻ sỹ, vẫn phải chấp nhận thực tế để tiếp tục sống và làm cái gì
đó có ích cho đời”. Đó là nỗi đau cho cả dân tộc và cũng là nỗi bất hạnh không
chỉ với một học giả Petrus Ky. Vấn đề là kẻ sỹ lúc ấy, đặc biệt là với kẻ sỹ
tiêu biểu cho sỹ khí của dân tộc càng phải biết làm gì để cho mình được tồn tại
và nếu không giúp ích được nhiều cho đời thì chí ít cũng không làm hại cho dân
tộc, để lại điều tai tiếng muôn đời. Trái lại, họ Trương đã dấn thân ngay từ
đầu và ngày càng dấn sâu tới mức không thể dấu nổi người đời. “Trương Vĩnh Ký
đã nhận cộng tác với Pháp một cách hình như không đắn đo, không day dứt, không
hối tiếc, vẫn luôn luôn đi tới”, là điều “hết sức quý giá đối với người Pháp
bởi vì họ từ xa tới, lạ đất, lạ người. Nếu không có người cộng tác từ bên trong
thì khó mà xâm lược được Việt Nam” (Trương Bá Cần).
Là một trí thức bậc thầy, họ Trương không thể
hợp tác với giặc lộ liễu như những kẻ tay sai nông nổi chăm chăm lập công hưởng
lộc. Người sâu sắc nước đời như Trương thì chỉ ở hậu trường mới bộc lộ ra gan
ruột. Không ít người đương thời và hậu thế bị lừa bởi câu nói thường trực từ
cửa miệng một trí thức hạng sang: “Sic vos non vobis” (Ở với họ mà không theo
họ), nghĩ rằng đấy là một con người ưu thời mẫn thế. Phải được biết tâm can con
người đó dốc ra với chủ mới biết nó thâm thúy độc hại tới mức độ nào: “Về
phương diện chính trị và kinh tế, người Pháp là kẻ đi đồng hóa, còn người An
Nam là kẻ chịu đồng hóa. Người yếu cần dựa vào người mạnh để đưa mình lên bằng
người khỏe. Đó chính là mục đích cần phải theo đuổi và đạt tới. Bằng cách nào?
Bằng cách đồng hóa. Và đồng hóa chỉ có thể thực hiện được bằng giáo dục và học
vấn” và suốt đời ông ta tận tâm tận tụy “chưa bao giờ đi lệch mục tiêu đã định
sẵn. Mục tiêu đó là sự biến đổi và đồng hóa dân tộc An Nam” (Thư TVK viết ngày
12/1/1882 gửi Hội đồng thuộc địa để xin tiền in sách), đến nỗi học giả Hồ Hữu
Tường suốt đời lăn lóc tứ phương, nhiều lần vào tù ra khám mà vẫn bị lầm, đã
hết lòng ca ngợi tài năng và công lao của Trương Vĩnh Ký về mặt phát triển văn
hóa, mở mang tri thức mà chỉ chê trách họ Trương “có một thời gian ngắn cộng
tác với Paul Bert là đi lệch ra ngoài hóa trình từ người trí thức tới kẻ sỹ
phu”! Năm 1873 quân Pháp hạ thành Hà Nội với cái chết chấn động lòng người của
cha con Nguyễn Tri Phương và phò mã Nguyễn Lâm. Vậy mà năm 1876, theo lệnh
Thống xứ Nam kỳ, Trương làm chuyến công du ra Bắc và gởi báo cáo về: “Tất cả
các quan lại Nam triều đều tin chắc rằng không thể chống lại người Pháp và nếu
nước Pháp muốn lấy xứ này, có thể làm mà không phải mất nhiều khó khăn, tốn
kém”! Sau đó là những gì, mọi người đều rõ.
Mời bạn đọc xem mấy dòng các quan thuộc địa
trao đổi với nhau: “Tôi nhận thấy ở Huế, ông Trương Vĩnh Ký đã tận lực làm tròn
sứ mạng công việc trong triều đình và ít nhiều ảnh hưởng trên nhà vua. Trong
những điều kiện đó, tôi tin rằng sẽ có lợi cho người Pháp hiện thời nếu giữ ông
ta ở lại Huế trong một thời gian tôi không dám xác định, nhưng chắc chắc cũng
khá lâu” (Toàn quyền Paul Bert, trong thư ngày 20/5/1886, gởi Thống đốc Nam
kỳ). “Petrus Ky có nhiệm vụ thuyết phục nhà vua và triều đình hợp tác một cách
thẳng thắn và trung thành với Pháp. Petrus Ký hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cực
kỳ tinh tế này và hòa bình yên ổn được thiết lập ở An Nam trong vòng 60 năm”
(Pierre Vieillard). “Rút cục, đó là người An Nam Pháp hóa và gương mẫu duy nhất
mà chúng ta có. Sự trợ giúp của ông thật đã rất ích lợi cho ảnh hưởng của chúng
ta và cho nền học chính nói chung” (Luro, Thanh tra và Giám đốc trường Sư Phạm
Thuộc Địa Pháp tại Việt Nam). Người ta còn đưa chuyện không gia nhập quốc tịch
Pháp để minh chứng cho lòng ái quốc của Trương, mà không hay ông đã chẳng giấu
diếm gì mưu sâu ấy với nhà bảo hộ: “Tôi sẽ không bao giờ còn lợi ích cho nước
Pháp mà tôi phục vụ và gắn bó. Bởi vì nếu nhập tịch tôi sẽ mất hết uy tín, mất
hết ảnh hưởng, từ đó không còn sự tin tưởng của nhà vua, của triều đình và của
dân chúng An Nam”! Và sự thực ông cũng không chết già trong nghèo túng và bệnh
tật như người ta ngoa lên để làm mủi lòng dư luận. Tuổi trẻ, Trương lấy vợ nhà
giàu, được Nhà nước bảo hộ giao trọng trách, trả lương hậu hỹ tới mức chỉ sau
hai viên quan cai trị hàng đầu người Pháp tại Sài Gòn thời đó. Hàng trăm đầu
sách viết ra đều được nhà nước thực dân bao thầu trọn gói kể cả khi Trương nghỉ
hưu đến sau lúc qua đời!* Còn dư của dựng nhà thờ, phần mộ uy nghi tráng lệ.
Đương thời, con người tinh tế như Trương cũng
đã nhận ra thân phận cô đơn của mình giữa những ông chủ cầm quyền: “Có nhiều
người ganh ghét tôi, ngu ngốc thậm chí là hung ác, họ có thể và biết cách hãm
hại tôi” (Thư gửi Paul Bert) và cả sự khinh bỉ của đồng bào mình nữa: “Trong
con mắt của đồng bào tôi, tôi đã bị lên án nặng nề”!
Thế mà vẫn có một thế lực cố tình thổi Trương
thành cái bong bóng màu bay lơ lửng, để lại cho hậu thế nhiều tranh cãi tới mức
mâu thuẫn dai dẳng và gay gắt xoay quanh những hoạt động xã hội và các công
trình văn hóa của ông ta.
Là người thông minh cần cù, lại được đào tạo
căn cơ để có vốn kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực vào thời kỳ đầu hai nền
văn hóa Đông – Tây mới giao tiếp với nhau, và dù không có cơ sở nào chứng minh
ông là một trong thập bát văn hào thế giới nhưng nhà trí thức họ Trương vẫn
xứng đáng là học giả hàng đầu của nước ta thời ấy. Bởi những hoạt động văn hóa
của ông được dùng làm tấm bình phong che cho những việc làm tệ hại “rước giặc
vào nhà” khiến không ít người lẫn lộn. Chẳng lạ gì gần đây nhiều nhân vật đầy
tai tiếng làm tay sai cho giặc lại được tô son trát phấn bằng những luận văn
sách sử để chứng tỏ lòng yêu nước thương nòi (như Lê Thân, Hoàng Cao Khải…).
Nguyễn Sinh Duy, một người có những công trình nghiên cứu giá trị về nhân vật
này, đã nói: “Dù sao thì Trương Vĩnh Ký cũng là một tài năng thực sự của đất
nước cũng như của Nam kỳ nói riêng. Ông sống vào thời buổi cực kỳ gay cấn của
nước nhà nhưng suy cho cùng thì không phải kiến thức định đoạt giá trị một con
người mà chính là ở hành động của người ta”. Không dưng Thiếu tướng hải quân
Pháp P. Réveillère đã tham chiến ở Nam kỳ thời ấy, từng truy đuổi nghĩa quân và
binh lính Nam triều, cũng thừa nhận điều đạo lý căn bản ở bất kỳ đâu: “Lấy công
bình mà nói, chúng ta quý trọng một người bởi giá trị tinh thần nhiều hơn những
kiến thức”. Tuy nhiên “cũng không phải là vì sự cộng tác của Trương Vĩnh Ký mà
Nam kỳ rồi Bắc kỳ và Trung kỳ lần lượt rơi vào tay thực dân Pháp. Điều bất hạnh
cho đất nước Việt Nam chúng ta là vua quan nhà Nguyễn, do nhiều sai lầm, không
xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân để giữ được nước. Những người yêu nước
kiên cường bất khuất như Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực, Thủ khoa Huân… có
gây khó khăn cho Pháp nhưng cũng không đuổi được Pháp đi” (Trương Bá Cần). Sự
thật là trước khi tới Việt Nam, các nhà truyền đạo đã dựa vào đội quân viễn
chinh đặt được chân lên quần đảo Nhật Bản và chế ra thứ chữ Nhật mới (Romaji)
viết theo mẫu tự Latin. Song giới cầm quyền Nhật Bản lúc ấy dưới sức mạnh của
quốc đạo Shinto (Thần đạo), đã đoàn kết được các đại gia tộc lãnh chúa địa
phương mà nòng cốt là các shamurai, quyết liệt chống lại, buộc các nhà truyền
giáo phải vác cây thánh giá cùng với đạo quân xâm lược phương tây chuyển hướng
sang xứ Viễn đông.
Cổ nhân ta có câu: “Chữ tâm kia mới bằng ba
chữ tài”. Người hiền để cho cái tâm làm sáng cái tài, chẳng như phường giá áo
túi cơm để cho cái tài làm tối cái tâm. Ông bà ta căn dặn từ ngày đầu cho con
cắp sách tới trường là để “học chữ, học nghĩa”. Chữ đây là kiến thức. Nghĩa đây
là trách nhiệm làm người. “Đạo đức lớn nhất của một con người là lòng yêu nước”
(Napoléon), xưa nay Á, Âu đều vậy.
Để tỏ ra công bằng, cụ Nguyễn Đình Đầu dẫn ra
những nhận định trái chiều ở hai miền Bắc, Nam trong giai đoạn lịch sử từ 1945
đến 1975 để người đọc tự phán xét. Hãy coi đó như là việc làm vô tư nhất trong
cuốn sách này.
Ở phía Bắc, tiêu biểu là nhận định của ông
Trần Huy Liệu – nhà cách mạng xuất thân từ giới nho sỹ và cũng là người đứng
đầu giới sử học Việt Nam lúc đó: “Về phẩm cách cá nhân của một sỹ phu lúc ấy,
không phải chỉ nhìn ở sinh hoạt thông thường mà chủ yếu là phải lấy thái độ đối
với dân tộc, đối với giặc nước làm tiêu chuẩn. Là người học rộng, Trương không
làm tay sai như kiểu Trần Tử Ca, Trần Bá Lộc…, mà đóng vai trò mưu sỹ bày cho
giặc những thủ đoạn thâm trầm dùng người bản xứ trị người bản xứ, dùng danh
nghĩa Nam triều để đánh nghĩa quân. Cái học vấn của Trương càng uyên bác bao
nhiêu thì tác hại của Trương càng lớn bấy nhiêu… Với khối lượng tác phẩm đồ sộ
của Trương, lột bỏ những tư tưởng phản động, nó có đóng góp một phần nào cho
kho tàng văn học nước nhà. Đây là tác dụng khách quan ngoài ý muốn của tác giả,
có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu. Một sự kiện nữa cũng không thể bỏ qua
là việc xuất bản tờ báo đầu tiên ở nước ta là Gia Định báo, đành rằng về nội
dung cũng như về tác dụng thì tờ báo này chỉ là công cụ tuyên truyền cho thực
dân Pháp khi mới đánh chiếm nước ta. Nhưng trên lịch sử báo giới đó là một tồn
tại khách quan mà chúng ta phải kể đến. Về chủ quan, chúng ta không bình công
nhưng chúng ta cần chấm điểm…”.
Ở phía Nam, bản nhận xét toàn diện tiêu biểu
nhất lại là của một ông Tây có tên Pierre Vieillard ca ngợi học giả họ Trương
mà nếu ai đọc kỹ sẽ chắt lọc ra đây lại như sự vạch áo cho người xem lưng ngài
“chí sỹ” An Nam: “Ông (TVK) không chỉ là một học giả, mà trên hết còn là một
con người rộng lượng… Chưa bao giờ Petrus Ky không yêu đất nước của ông cả. Ông
không bao giờ phân biệt sự cống hiến của mình cho nước Pháp và tình yêu quê hương
ông dành cho Tổ quốc… Ông không tìm kiếm danh vọng. Ông chết già trong thiếu
thốn (?)… Phía Pháp người ta nghi ngờ sự thân Pháp của ông; phía An Nam người
ta nghi ngờ rằng ông ta chấp nhận bắt tay với Pháp một cách vội vã và đó là một
sự phản bội… Mục tiêu của ông không phải là tiền tài danh vọng. Mà đó là cứu
vớt những gì có thể cứu được ở An Nam. Và dể thực hiện được điều đó, ông chỉ có
thể chọn làm việc cho cả hai dân tộc vì ông có thể lãnh hội một cách dễ dàng
những tinh hoa của nước Pháp và có sẵn trong mình những tinh hoa của An Nam
(!). Mọi nỗ lực đều hướng về mục tiêu: làm cho người Pháp hiểu người An Nam và
ngược lại, làm cho người An Nam thấy được tính nhân đạo của người Pháp (!). Và
để chỉ rõ cho dân tộc Pháp và dân tộc An Nam có thể hòa hợp thành một dân tộc
vĩ đại và đáng được biết đến!... Trương Vĩnh Ký, người đồng hành với Phan Thanh
Giản trong suốt cuộc hành trình trên, người đã chia sẻ những điều sâu kín với
quan đại thần này, có cùng suy nghĩ như ông… Tóm tắt con người Trương Vĩnh Ký
bằng một từ “một con người vĩ đại đầy nhiệt huyết”, những phẩm chất chúng ta
cần rất nhiều ở thời đại này”!
Đúng là lúc ấy nước Đại Pháp đang cần rất
nhiều người An Nam ăn ở hai lòng như hai “vĩ nhân” này! Liệu người An Nam nô lệ
có thể hòa hợp vớí người Pháp khai sáng thành một dân tộc vĩ đại được chăng? Và
biết chừng nào con cháu người Gaullois mới đồng hóa được con cháu người
Đại Việt?
Theo ông Chu Hảo thì cụ Nguyễn Đình Đầu, không
đồng ý sửa chữa bất cứ nội dung nào đã viết trong sách. Sẽ chẳng có điều chi
cần sửa cả nếu như cái tiêu đề: “Hồ sơ Trương Vĩnh Ký” vẫn được giữ nguyên vì
theo những sử liệu dù chưa đầy đủ ở đây thì còn oan nỗi gì để cần chiêu tuyết?!
Tuy nhiên những sách mang tính học thuật của học giả họ Trương thì cứ xuất bản
cho những ai cần nghiên cứu, hẳn người quá cố sẽ thỏa lòng vì vẫn đóng góp được
cho đời.
Con người tài ba “oanh liệt” vậy mà sao trong
lòng u uẩn một nỗi niềm không giải được: “Cuốn sổ bình sanh công với tội / Tìm
nơi thẩm phán để thưa khai” và soạn sẵn câu trích trong Kinh cựu ước nói về Job
bị Thượng đế và loài người lìa bỏ, ghi trên mộ chí: “Miseremini Mei Saltem vos
Amici Mei” (Xin hãy thương tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi). Ông thưa khai
những gì không ai biết. Thẩm phán quyết ra sao chẳng ai hay. Đời sau còn ai “sợ
những vĩ nhân thật sự như cụ Trương” đâu và những lời khen, chê, đàm tiếu là có
thật! Người khen chủ yếu là những ông chủ thực dân nuối tiếc thuở vàng son và
những người cùng hội cùng thuyền. Kẻ chê là những người dân mất nước và con
cháu họ dù hoàn cảnh mỗi người một khác. Người động lòng thương ông cũng có bởi
chưng là tiếc cái tài!
Tiến sỹ sử hoc, vi linh mục dấn thân Trương Bá
Cần đưa ra ý kiến: “Vào lúc mà nhiệm vụ hàng đầu là chống xâm lược thì không
nên nói đến những nhân vật như Trương Vĩnh Ký. Nhưng vào lúc đất nước được độc
lập và thống nhất, nhiệm vụ còn lại là xây dựng con người và xây dựng đất nước,
nếu có đặt vấn đề là xây dựng tượng đài hay phục hồi tên đường cho Trương Vĩnh
Ký, thì có lẽ không phải là thuần túy chỉ muốn sự công bằng cho người đã quá
cố”. Vế đầu là lẽ tất nhiên. Vế sau xem ra thiếu sự công bằng với bao thế hệ
người vị quốc vong thân dưới sự tiếp tay của những quân nội phản?!
Nhà nghiên cứu lịch sử Nguyễn Đắc Xuân từng
tham gia phong trào giải phóng, hạ bút: “Nếu lấy tiêu chí Việt gian dành để xếp
những tên phản quốc Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, Lê Hoan… vận dụng vào Trương
Vĩnh Ký thì ta thấy Trương Vĩnh Ký vượt xa những nhà nho nêu trên. Lịch sử Việt
Nam cận đại luôn luôn phải nhắc đến Trương Vĩnh Ký như một nhân vật phản diện
điển hình. Đây là trường hợp có một không hai trong lịch sử Việt Nam. Chúng ta
cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc, đầy đủ để có một sự đánh giá đúng đắn
về tội làm tay sai cho giặc của nhà bác học siêu hình, siêu Việt gian Trương
Vĩnh Ký”.
Tiến sỹ Bùi Kha cùng quan điểm với nhiều trí
thức đang sống ở nước ngoài: “Các nước kém mở mang là nạn nhân thường trực của
các cường quốc qua chiêu bài chống ý thức hệ, nhưng thực chất của nó là những
phong trào thực dân đi xâm chiếm thuộc địa để tiêu thụ hàng hóa, vơ vét tài
nguyên và xâm thực văn hóa mà tấm biểu ngữ được trương lên “tự do tôn giáo” là
vũ khí hữu hiệu nhất. Cái gọng kềm chằng chịt đầy hoa mỹ ấy đã biến không ít
người học thức mà tiêu biểu là nhà thông thái Trương Vĩnh Ký thay vì được “lưu
danh thiên cổ” trở thành kẻ bị “lưu xú vạn niên”. Dầu thông cảm tới mức nào đi
nữa thì con người luôn luôn phải có lý trí suy luận để chịu trách nhiệm về
những việc làm đúng, sai, xấu, tốt của mình”.
Nhà giáo lão thành Trần Thanh Đạm dứt khoát
nhưng có sự thể tình: “Phản bội, phản quốc là tội danh chẳng kẻ nào dám nhận.
Càng là người có học vấn, có tri thức mà sa vào con đường ấy thì càng có nhiều
luận điệu bào chữa xảo trá, tinh vi. Đối với những nhân vật này lúc đương thời
thì ranh giới phải trái thường khá rõ ràng. Song về sau do nhiều nguyên nhân
khác nhau, nhất là với những người cùng não trạng, sự đánh giá có khi lại trở
nên phức tạp, rối rắm, gây nhiều tranh cãi. Như con người này, vào thời buổi
ấy, với tài năng ấy, thân phận ấy, tâm tư ấy, để lại cho đời sau nhiều bài học.
Như một tấm gương để tôn vinh cảm phục thì không, song để cảm thông xót thương
thì có”.
TƯ
CÁCH SỬ GIA!
Một vị lão thành nhận được sách biếu mà lộ tâm
trạng không vui, nói: Nhận định về Petrus Ky thế nào là quyền của người biên tập.
Nhưng điều đáng quan tâm trong cuốn sách này lại là lời giới thiệu của ông Phan
Huy Lê: “Trong lịch sử Việt Nam, việc bình luận, đánh giá không ít nhân vật
lịch sử thường bị chi phối bởi bối cảnh lịch sử như vậy. Nhưng xu hướng chung
vẫn là sự thắng thế của kết quả nghiên cứu khoa học nghiêm túc, khách quan và
thái độ công minh trước lịch sử. Petrus Ký cũng trải qua nhiều sóng gió của
khen – chê, tôn vinh – phê phán, nhưng cuối cùng xu thế khách quan, trung thực
vẫn chi phối”. Vậy là ông ta đã công khai xổ toẹt những nhận định của thầy ông
và cũng là của giới sử gia cách mạng!
Tâm địa của nhà sử học đầy danh vọng này không
phải đến bây giờ mới phơi bày ra. Khi các sử gia bậc thầy như: Đào Duy Anh,
Trần Huy Liệu, Trần Văn Giáp, Trần Văn Giàu, Văn Tân… đã thành người thiên cổ
và trong “tứ đại gia Lâm–Lê–Tấn–Vượng” nửa mất nửa còn thì người “lọt sổ” mặc
sức “múa gậy vườn hoang”. Nếu như Đinh Xuân Lâm còn thận trọng: “Có thể xem
Trương Vĩnh Ký là một nhà văn hóa tiêu biểu có một vai trò nhất định trong buổi
đầu giao lưu văn hóa Việt – Pháp” thì Phan Huy Lê nói toẹt ra: “Cuối cùng thì
xu thế khách quan, trung thực vẫn chi phối”! Với Phan Thanh Giản, Trần Quốc
Vượng nêu quan điểm rõ ràng: “Việc ký hiệp ước, hòa ước để nhượng địa rồi “mãi
quốc cầu vinh” là những thủ đoạn hèn hạ của thực dân đầu mùa và quân chủ cuối
mùa” thì Phan Huy Lê biện luận mập mờ: Tám chữ “Phan Lâm mãi quốc – Triều đình
khi dân” nguồn gốc và xuất xứ chưa rõ, mà lờ đi lời phán rành rành còn lưu trên
giấy trắng mực đen của vua đương thời Tự Đức: “Hai người (Phan, Lâm) không
những chỉ là tội nhân của triều đình mà còn là tội nhân muôn đời của hậu thế”,
để dấy lên dư luận chạy án cho Phan. Với tấm gương sáng ngời vì nước quên thân
của Lê Văn Tám, thì ông võ đoán:“Nhân vật lịch sử anh hùng Lê Văn Tám là hoàn
toàn không có thật!” để không ít người nhẹ dạ vội tưởng rằng con người Lê Văn
Tám và sự kiện anh hùng ấy là ngụy tạo, bỗng người thầy của ông thành cái bia
miệng giữa đời: “Giáo sư sử học Phan Huy Lê mãi mấy năm gần đây mới khai thật
nhân vật Lê Văn Tám chỉ là do người tiền bối bậc thầy ông là cố giáo sư Trần
Huy Liệu “sáng tác” ra để động viên phong trào kháng chiến… Nghĩ cũng có chỗ
đáng thương cảm cho cố giáo sư Trần Huy Liệu, cho đến phút lâm từ mới “dám”
trối trăng lại sự thật, nhưng như thế thì nên gọi ông là nhà giáo dạy sử yêu
nước, nhà cách mạng đáng tôn kính hơn là nhà sử học, bởi bản chất của sử học,
nếu đã có chữ “học” trong đó rồi thì phải tôn trọng sự thật!” (Trần Văn Chánh,
Tạp chí “Nghiên cứu và phát triển” số 4 (87) – Thừa Thiên Huế). Nhân người nữ
anh hùng với “nụ cười chiến thắng” rạng rỡ một thời (Võ Thị Thắng) qua đời ngày
22/8/2014, một người tên Trần Trung Đạo viết trên trang mạng: “Lê Văn Tám là
một nhân vật ảo, từ tên tuổi cho đến đầu mình và tay chân đều do bộ máy tuyên
truyền CSVN nặn ra. Sự kiện này do chính Trần Huy Liệu, bộ trưởng bộ tuyên
truyền CSVN thú nhận và được Phan Huy Lê, một trong nhà sử học hàng đầu của chế
độ tiết lộ”! Thậm chí người đồng nghiệp của ông (GS. sử học Ngô Vĩnh Long, Đại
học Maine, Hoa Kỳ) vin cớ ấy đã có những lời không xứng với cương vị của mình:
“Trước hết là chuyện Lê Văn Tám ấy, khi dạy lịch sử mình phải lập lại tại sao
người ta đã lập lên chuyện Lê Văn Tám, bởi vì cái này nó trở thành vấn đề lịch
sử của Việt Nam. Nếu mà một đất nước, một dân tộc mà nói láo thì phải hiểu tại
sao mình nói láo? Mình nói láo là vì mình yêu nước phải không? Nếu mà yêu nước
mà nói láo như vậy có thể là không đúng thì mình phải học được bài học lịch sử
này. Vấn đề này tôi đã nói không phải là vấn đề lịch sử nữa, mà nó là vấn đề xã
hội, vấn đề luân lý, vấn đề con người”. Vậy mà sử gia Phan Huy Lê còn hùng hồn
biện luận: “Đối với sử học, tôn trọng sự thật, tìm ra sự thật, xác minh sự thật
là một nguyên tắc cao cả thuộc về phẩm chất và chức năng của nhà sử học”! Giới
sử gia đã không ít người thẳng thắn vạch ra trước công luận nhiều điều khuất
tất về ông. Họ nói gì khi ông bày chuyện Mai Thúc Loan gánh vải từ châu Diên,
châu Hoan cách trở sơn khê vượt hàng vạn dặm sang cống vua Đường? Ông bất chấp
sự thật bênh vực lũ thực dân cùng phường bán nước khi nhân dân ta đã giành lại
được tổ quốc mình: “Cũng vì cơ sở lịch sử và pháp lý đó (?) mà năm 1949, Tổng
Thống Pháp ký với Bảo Đại hiệp ước Élysée trả lại đất Nam bộ cho Quốc gia Việt
Nam chứ không phải một chủ thể nào khác đang vận động vùng đất này” (!), làm
cho không người ít ngộ nhận rằng nhờ có Bảo Đại và cái vương triều thối nát kia
mà Nam kỳ mới được trở về trong lòng dân ta! Phải chăng khi Giáo sư Hà Văn Tấn
viết: “Muốn viết sử phải biết Phương pháp sử học, và trước hết phải là người
trung thực, chứ không phải là tên cơ hội” (Lịch sử, sự thật & sử học), liệu
có ý ám chỉ tới người bạn đồng môn, đồng lứa với mình? Giờ đây ông ôm mộng lớn:
“Một trong những mối quan tâm bậc nhất của Hội (sử học) là phải xúc tiến tổ chức
biên soạn được bộ quốc sử Việt Nam từ thuở lập nước đến thời kỳ hiện đại với
những quan điểm viết sử hiện đại, khoa học, vượt qua được mọi rào cản về ý thức
hệ để có cái nhìn chân thực, chính xác, khách quan về lịch sử”. Hiến pháp 1992
của nước CHXHCNVN hiện hành ghi rõ: “Xuất phát từ điều kiện lịch sử nước Việt
Nam, Đảng CSVN là đội tiên phong của giai cấp công nhân VN, đại biểu trung
thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc,
lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm tư tưởng chủ đạo để lãnh
đạo nhà nước và xã hội”. Vậy mà ông Chủ tịch Hội sử học Việt Nam ngang nhiên
công bố sẽ “vượt qua mọi rào cản về ý thức hệ” để viết lịch sử về dân tộc này,
đất nước này!? Những sự kiện lịch sử không xa rành rành ra như thế mà ông còn
lươn lẹo lọc lừa, huống chi lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc lúc sáng lúc mờ,
lúc vinh lúc nhục thì ông trổ tài múa bút biến rồng thành rắn, biến rắn thành
rồng khó chi đâu!
Mời bạn đọc cùng người viết xem lại nhiều lần
lời nhận xét của ông tây Pierre Vieillard về Trương Vĩnh Ký: “Mọi nỗ lực đều
hướng về mục tiêu: làm cho người Pháp hiểu người An Nam và ngược lại, làm cho
người An Nam thấy được tính nhân đạo của người Pháp. Và để chỉ rõ cho dân tộc
Pháp và dân tộc An Nam có thể hòa hợp thành một dân tộc vĩ đại và đáng được
biết đến”! Sao hai học giả Trương, Phan sinh khác thời mà giống nhau đến thế?
Cả hai con người nổi tiếng này, khi sống đã nhận không ít điều ong tiếng ve bởi
sự ăn ở hai lòng! Chỉ có điều khi chết liệu học giả họ Phan có được như học giả
họ Trương không? Bởi chí ít thì Trương học giả cũng giữ được lòng trung thành
với một ai. Còn Phan học giả thì tiền hậu rất chi là bất nhất!
Người xưa từng dạy: Chức sử quan rất lớn.
Nhiệm vụ của người viết sử là phải chịu trách nhiệm với cả đất nước. Nếu như
lại tùy tiện viết sai thì thật là nguy hiểm lắm! Cái đức cao quý nhất của
một sử gia chân chính là phải giữ được tiết tháo trong mọi hoàn cảnh, mà sao
Giáo sư sử học Phan Huy Lê dễ tháo tiết ra té nước theo mưa khi gió mới
xoay chiều!
“Trọng điều liêm sỉ” là truyền thống của sỹ
phu Đại Việt. Sống trong sạch và biết hổ ngươi sẽ giữ được mình, được nhà, được
nước.
Tuần báo Văn Nghệ
thành phố Hồ Chí Minh
Số 439 Thứ năm ngày 02 tháng 3
năm 2017.
*VŨ
NGỰ CHIÊU: Vài Tài Liệu Mới Về Petrus Key
-
Năm 1890, có 13 tựa sách của Petrus Key.
-
Ngày 12/12/1895, Petrus Key viết thư yêu cầu chính phủ Nam Kỳ mua giúp 2000
cuốn Cours d’Annamite parlé (Bài giảng tiếng An-nam-mít nói). Giá $2/ cuốn.
-
Ngày 13/1/1897, Hội đồng Quản hạt chấp thuận mua 1000 cuốn, với giá tiền
$2.000.
-
Năm 1896, Petrus Key yêu cầu mua 2000 bản Minh Tâm Bửu Giám (Le Précieux Miroir
du Coeur).
-
Ngày 3 và 26/10/1898, Bà quả phụ Petrus Key gửi thư yêu cầu chính phủ Nam Kỳ
mua giúp số sách tồn kho của Petrus Key.
-
Ngày 11/11/1898, Phòng 3 gửi Thông tư số 37 cho 18 tỉnh, yêu cầu mua sách
Petrus Key. 8 tỉnh không mua (Rạch Giá, Trà Vinh, Sa Dec, Mỹ Tho, Bạc Liêu, Thủ
Dầu Một, Châu Đốc, Gò Công). Ba tỉnh mua cao nhất là Tân An (7 tựa, $98.30),
Cần Thơ (5 tựa, $94.40), Vĩnh Long (6 tựa, $93.30). Kế đến Bến Tre (2 tựa, mỗi
tựa 100 cuốn, $60.00), Long Xuyên (12 tựa, $52.40), Hà Tiên (7 tựa, $31.50),
Sóc Trăng (5 tựa, $31.40), Gia Định (1 tựa Vocabulaire annamite-francais,
$27.00). Biên Hoà mua mỗi tựa một cuốn, Chợ Lớn mua 2 tựa.
-
Ngày 2/5/1899, Phòng 3 Ban Thư ký chính phủ cho bà Petrus Key biết đồng ý
mua 23 tựa sách, với tổng số tiền 593$80xu.