SỰ THẬT LỊCH SỬ
KHÔNG THỂ TÔ HỒNG,
KHÔNG THỂ
BÔI ĐEN
Nguyễn Văn Thịnh
***
…đất nước đi lên trong một thế giới đầy biến động càng gặp nhiều
lực cản và nhiều thử thách. Trong một thế giới phẳng, không thiếu những thông
tin đa chiều, mà không mấy người đọc có thời giờ kiểm chứng. Cuốn sách tựa đề "BẢO
ĐẠI - TRẦN TRỌNG KIM và ĐẾ QUỐC
VIỆT NAM (9/3/1945 - 30/8/1945), Trước
khi bão lụt tràn tới" nằm trong số đó. Từ lời giới
thiệu của Phạm Cao Dương: “Cuốn sách nhỏ này là để tưởng nhớ những người
thuộc thế hệ trí thức Tây học đầu tiên của nước Việt Nam mới, còn giữ được tinh
thần sĩ phu truyền thống, cùng với tuổi trẻ đương thời đã đứng ra làm việc nước
và đã ra đi trong nhiều oan khuất... Đây là một trong những trang sử
đẹp của dân tộc Việt Nam, với những người đẹp, việc đẹp, ước nguyện
đẹp, tác giả xin được trang trọng gửi tới các bạn trẻ Việt Nam
bây giờ, sau này và mãi mãi”. Ông Trần Văn Chánh phàn nàn môn sử học
Macxit đã phê phán nặng nề “khiến cho học sinh và thậm chí một số trí thức tương đối
trẻ ngày nay không còn biết Trần Trọng Kim là ai và nội các do ông lãnh đạo có
vai trò lịch sử như thế nào nữa”, vì
theo ông thì: “Về mặt lịch sử, vẫn phải công nhận nội các vừa thành lập
ngày 17.4.1945 là chính phủ đầu tiên của Việt Nam theo nghĩa hiện đại, và Trần
Trọng Kim đã trở thành vị Thủ tướng đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, dù chỉ
mới độc lập trên danh nghĩa”!
70 năm, đủ hết một đời người nhưng với lịch sử dân tộc chỉ
như một sự thoảng qua. Các tư liệu lịch sử không khó tìm, cả những chứng nhân
không phải là đã hết, đủ sức để không bỏ qua những “việc đẹp”, “người
đẹp” và “trang sử đẹp”. Vị học giả quen thuộc
khả kính Nguyễn Hiến Lê từng nói: “Chép
sử thì không ai có thể hoàn toàn khách quan được, chỉ có thể thành thật được
thôi. Chỉ ghi lại những việc xảy ra, không tìm hiểu nguyên nhân, không khen
không chê, thì theo tôi không phải là viết sử. Có những giá trị tinh thần mà chúng ta phải tôn trọng phải bênh vực,
trái lại thì phải chê. Có như vậy mới là thành thực với người đọc và với
chính mình”. Mà sự bênh chê cũng không khỏi phụ thuộc vào những thiên kiến
khác nhau. Vậy quyền ấy tùy bạn đọc.
Ngày 3/9/1939, nước Pháp tuyên chiến với Đức quốc xã. Cuộc
chiến nhùng nhằng vài ba tháng đầu như một trò cười. Nhưng sau khi Hà Lan rồi Bỉ
đầu hàng, chiến lũy Maginot thất thủ, thì thủ đô Paris lập tức “bỏ ngỏ” cho
đoàn chiến xa của quân đội Hitle tiến vào như trong một cuộc diễu binh! Chính
phủ Pháp lùi dần về phía nam, tới Vichy thì tuyên bố “đầu hàng không điều kiện”,
biến thành phố nhỏ vốn nổi tiếng vì những suối nước khoáng nay còn nổi tiếng
hơn vì là thủ phủ của một chính phủ làm nhơ danh nước Pháp! Ngày 22/6/1946, Đức
buộc Thống chế Pétaine, người hùng của nước Pháp cầm bút ký vào hiệp ước đầu
hàng ngay trên chính chiếc toa xe lửa lịch sử mà năm 1918, Pháp đã bắt nước Đức
bại trận trong Thế chiến thứ nhất làm như vậy! Người Pháp mất nước! Trong khi
đó, phát xít Nhật – đồng minh của Đức quốc xã trong “phe trục”, đang mở rộng
chiến tranh ở Viễn Đông. Việt Nam là địa bàn chiến lược quan trọng để quân đội
Nhật mở đường vào phía Nam Trung Quốc đồng thời áp sát tới các căn cứ Đồng minh
ở Thái Bình Dương. Bọn thực dân Pháp ở Đông Dương hèn nhát, lập tức ngả theo
chính phủ Vichy và từng bước đầu hàng phát xít Nhật. Cần để người Pháp biết sức
mạnh của mình, khi vừa đặt chân đến Đông Dương, Nhật ra đòn phủ đầu dằn mặt
đánh chiếm dễ dàng tỉnh biên giới Lạng Sơn. Pháp liền chịu ký hiệp định
Vichy-Tokyo. Để yên lòng kẻ hàng thần mới, Mikado (Nhật hoàng) ra chiếu phủ dụ:
“Trẫm vĩ đại. Trẫm lòng lành. Trẫm giải
phóng cho các người. Trẫm trông cậy ở các người sẽ cộng tác với Nhật Bản để “phòng thủ Đông Dương” mà chủ quyền Trẫm
công nhận là thuộc về nước Pháp”! Thế là để bảo đảm mạng sống cho khoảng trăm
ngàn Pháp kiều và quân viễn chinh, mẫu quốc Pháp bỏ rơi gần ba chục triệu dân
nô lệ da vàng bản xứ! Pháp chịu để cho phát xít Nhật biến Đông Dương thành nơi
trung chuyển và căn cứ hậu cần cùng lời hứa cộng tác về mặt quân sự với Nhật
trong trường hợp có sự tấn công của các nước Đồng minh. Tại các bãi bến thủy bộ,
hàng ngày tàu biển Nhật ra vào tấp nập, các cuộc chuyển quân và vũ khí phương
tiện chiến tranh rầm rập trên các tuyến hỏa xa và xa lộ, các sân bay ở Bắc kỳ
được dùng để tấn công các căn cứ và đường
giao thông ở Birmanie, Vân Nam, Tứ xuyên, Trùng Khánh. Máy bay chiến đấu
Nhật bay tới bay đi nhào lộn luyện tập ngay trên bầu trời Hà Nội mà không cần
xin phép. Đông Dương biến thành bãi chiến trường, chịu những trận oanh kích của
máy bay Đồng minh suốt từ Sài Gòn, Đà Nẵng dọc ra Hải phòng, Hà Nội, hàng trăm
thường dân bị chết lây! Tuy nhiên bộ máy chính quyền Pháp hầu như vẫn còn
nguyên từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở vì người Nhật khôn ngoan chẳng
những có được hậu phương ổn định mà còn được cả về kinh tế nữa. Họ thúc ép “gắn
liền kinh tế Đông Dương vào kinh tế Nhật”. Gạo và cao su cứ ùn ùn chở sang Nhật
hoặc cung cấp cho quân Nhật đóng ở tiền đồn vùng biển phía Nam. Theo tài liệu của
chính quyền Decoux thì về gạo đã xuất, năm 1941: 700.000 tấn, năm 1942:
1.050.000 tấn, năm 1943: 950.000 tấn, năm 1944: 900.000 tấn; về cao su và các
khoản thương vụ khác trong mấy năm đầu thập niên 1940 đã xuất số lượng tính ra
bằng vàng tổng giá trị là 32.620kg (tính tròn), tương đương số tiền lúc đó là
22 tỷ Franc (Bác sỹ Ngô Văn Quỹ: Đêm dài Nhật-Pháp bắn nhau – NXB Trẻ 2001).
Trong khi những người yêu nước Việt Nam mở rộng Mặt trận Việt
Minh kháng Nhật ủng hộ Đồng Minh và kêu gọi người Pháp ở đây cùng hợp tác, thì
họ tảng lờ đi mà áp dụng chính sách hai mặt: vừa ra sức đàn áp những cuộc nổi dậy
của người bản xứ và tích cực đáp ứng những yêu cầu của Nhật, vừa âm thầm lập
các tổ chức của riêng họ như Ủy ban giải phóng Đông
Dương (Comité de Libération de l’Indochine) và Ủy ban hành động Đông Dương
(Comité d’action pour l’Indochine), ngấm ngầm chờ dịp hất cẳng kẻ đến nẫng trên
tay miếng mồi ngon của họ. Làm sao qua mắt được Kempeitai! (Kiểu Phòng nhì của
Nhật). “Một cuộc chính biến nằm trong chiến lược dài hơi của Nhật, được hoạch định
từ lâu, có sự chuẩn bị đến từng chi tiết. Từ khi đặt chân lên đất Đông Dương, họ
đã cho mai phục trong các thành phố, các trung tâm lớn nhỏ, ngay cả trong một số
dịch vụ của Pháp, những tên tình báo, sỹ quan trá hình dưới các dạng nhà buôn,
nhà kỹ nghệ, nhà nghiên cứu, nhà báo... để điều tra tình hình, nắm mọi đầu mối
đợi ngày hành động” (BS Ngô Văn Quỹ - sđd).
Khi chủ nghĩa phát xít đã thành tai họa của
loài người thì các quốc gia thấy cần liên kết lại tiêu diệt nó. Cùng lúc ở mặt
trận châu Âu và châu Phi, quân phát xít Đức, Ý bị đẩy lùi về tận hang ổ của
chúng, Hoa Kỳ tham chiến cả trên Đại Tây Đương và Thái Bình Dương, nước Pháp được
giải phóng, quân đội Nhật hoàng bị đánh tả tơi cả trên biển và trên lục địa. Đã
đến lúc giới quân phiệt Nhật thấy vấn đề Đông Dương không thể tách khỏi những sự
kiện đang xảy ra trong vùng Đông Nam Á. Vào những ngày đầu thảng 3/1945, quân Mỹ
đã chiếm được đảo Palawan ở Thái Bình Dương, đối mặt với nam bán đảo Đông
Dương. Đề phòng tái diễn sự kiện như ở bờ biển Normandie năm trước, lúc này lại
có thêm quân Pháp làm hậu thuẫn, tất nhiên là quân Nhật ở Miến Điện, Thái Lan,
Malaixia... sẽ hết đường về bảo vệ quốc đảo Phù tang. Phát xít quyết định hất cẳng
thực dân. Ngày N, giờ G được xác định.
Yếu tồ bất ngờ được Nhật khai thác đến triệt để
trong sự kiện ngày 9/3/1945. Cuộc chính biến xảy ra trên toàn cõi Đông Dương
vào cùng một ngày, một giờ gần như thống nhất. Quan lính Pháp qua 5 năm sống
yên phận chờ thời, dù thấy sự nghi ngờ cũng dễ bỏ qua, giờ vỡ ra thì không kịp
trở tay. Mở đầu vào đêm 9/3 bằng những “bữa tiệc máu” và kết thúc lúc sáng hôm
sau bằng những cuộc chém giết như thời trung cổ. Khi tiếng súng lệnh nổ thì những
tên lính cải trang mà dân chúng ở các thành phố Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng, Huế,
Sài gòn... đã quen mặt, hàng ngày tỏ ra
lịch thiệp, dễ dãi, bỗng khoác quân phục vào và trở thành những con quỷ dữ khát
máu, giết người không gớm tay. Riêng đối với các binh sỹ người Việt Nam thì được
đối xử tử tế vì là đồng thanh, đồng chủng, cùng trong Khối thịnh vượng chung.
Chỉ trong một đêm, trên toàn cõi Đông dương đã có 2.650 binh sỹ và sỹ quan da
trắng bị giết. Trong đó phải kể đến: 1 tướng, 9 đại tá, 20 thiếu tá, 60 đại úy,
91 trung úy, 9 bác sỹ và một thú y bác sỹ. (BS Ngô Văn Quỹ - sđd).
Kết cuộc là hệ thống cai
trị thực dân hoàn toàn tan rã. Toàn bộ quan chức đầu não và tướng lĩnh Tư lệnh
các cấp của Pháp đều bị bắt giam, kể cả Toàn quyền Decoux. Hàng trăm sỹ quan và
hàng ngàn binh lính bị chết ngay tại trận hoặc trên các ngả đường trốn chạy. Cả
sáu Tập đoàn quân trên toàn cõi Đông Dương như ong vỡ tổ, mạnh ai nấy chạy vào
các cánh rừng, tìm lối thoát sang Thái Lan, Miến Điện. Số lớn chạy qua Trung
Quốc thì lại bị người Mỹ, người Hoa coi như kẻ thù, bị tấn công, bị xua đuổi từ
làng này sang làng khác, bị đói khát, bệnh tật... quân số thương vong thêm quá
nửa!
Tại kinh đô Huế, cuộc chính
biến nổ ra lúc 9giờ15phút đêm 9/3, đến 10giờ sáng hôm sau thì kết thúc. Một
phần tư trong số hơn một ngàn sĩ quan binh lính Pháp tử trận. Số còn lại hoặc
bị bắt hoặc tẩu tán sâu vào dãy Trường Sơn. Lúc 11 giờ, Khâm sứ Nhật Yokoyama
vào gặp vua Bảo Đại giải thích tình hình, tuyên bố trao trả độc lập cho Việt
Nam, đề nghị vua ra tuyên bố độc lập và chuẩn bị thành lập chính phủ mới trên
cơ sở hợp tác dưới sự bảo trợ của Nhật! Cùng lúc đó, qua đài phát thanh Sài
Gòn, Nhật thanh minh cho cuộc tấn công đêm 9/3, đổ lỗi cho phía Pháp thiếu hẳn
tinh thần cộng tác, đã tổ chức mạng gián điệp làm việc cho quân Đồng minh, đã
tích trữ súng đạn được thả dù xuống, bố trí quân đội để tấn công quân Nhật.
Đồng thời cũng tuyên bố từ nay chủ quyền của Pháp ở Đông Dương không còn nữa,
các dân tộc ở đây được độc lập nhưng trước mắt vẫn duy trì toàn bộ hệ thống tổ
chức chính trị và hành chính của Pháp để lại trên toàn cõi Đông Dương. Ngay hôm
sau, 11/3/1945, triều đình Huế tuyên bố:
“Theo tình hình thế giới nói chung và hiện tình Á châu, chính phủ Việt Nam long
trọng công bố rằng: Kể từ ngày hôm
nay, Hòa ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp (1884) được hủy bỏ và vô hiệu hóa.
Việt Nam
thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một Quốc gia độc lập!” (Hồi ký Phạm Khắc
Hòe). Nhật không dễ nhả ra miếng mồi Đông Dương béo bở. Trong khi vua tôi nhà
Nguyễn đang loay hoay tìm người lập nội các mới thì ngày 30/3/1945, trong một
cuộc họp với công chức Việt Nam ở Long Xuyên, Toàn quyền Minoda (từng học Saint
Cyr) nói toạc ra bằng tiếng Pháp để không ai nhầm lẫn: “Il-y-a un grand malentendu au sujet de l’indépendance de l’Indochine. Celle ci tout entière est
sous le contrôle militaire du Japon. L’indépendence de l’Empire d’Annam et
cellce du Cambodge on été pro clameés. La Cochinchine, non seulement se trouve
sous le contrôle militaire du Japon, mais encore sous l’aminis tration
militaire japonaise. Donc, pas l’indépendance de la Cochinchine...” (Có một
sự hiểu lầm lớn về sự độc lập ở Đông Dương. Sự độc lập này là hoàn toàn ở dưới
sự kiểm soát quân sự của Nhật Bản. Sự độc lập của đế chế Trung Kỳ và cũng như
của Cao Miên đã được tuyên bố. Nam Kỳ chẳng những ở dưới sự kiểm soát quân sự
mà còn dưới cả sự cai trị quân sự của Nhật Bản. Vậy thì không có sự độc lập của
Nam Kỳ) (BS Ngô Văn Quỹ - sđd). Sự thực là gần đến những ngày tàn Nhật mới chịu
giao lại ba tỉnh nhượng địa Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng (20/7), sau cùng là Nam Kỳ (14/8), đúng vào
ngày Nhật ký hiệp ước đầu hàng không điều kiện Đồng minh chống phát xít.
Tất nhiên, việc tìm một
chính quyền tay sai người bản xứ cũng được Nhật tính trước từ lâu. Cụ Huỳnh
Thúc Kháng là một yếu nhân trong phong
trào Duy Tân, được nhắm tới đầu tiên, đã thẳng thắn
khước từ. Nhưng cách mạng tháng Tám thành
công, sau khi tiếp xúc với Hồ Chủ tịch, Cụ nói: "Trong lúc phục hưng dân tộc, xây dựng nước nhà thì bất kỳ già, trẻ,
trai, gái, ai cũng ra sức phụng sự Tổ quốc”. Và Cụ đã làm được những việc
to lớn thiết thực cho việc bảo vệ chính quyền nhân dân non trẻ. Nhà yêu nước Nguyễn An Ninh đang bị cầm tù ở Côn Đảo,
Nguyễn Hòa Hiệp là người quen biết cũ, đương nhiệm chức sư trưởng đệ tam sư
đoàn của Nhật, dẫn một viên tướng Nhật ra đảo mời hợp tác nhưng ông kiên quyết
từ chối mặc dù ông biết “Nếu phải hoàn thành
xong hình phạt tù tại Côn Nôn, tôi chắc chắn phải để xương tại đây”! Nửa
tháng sau, ông trút hơi thở cuối cùng tại nơi địa ngục trần gian ấy! (Nguyễn An
Ninh qua hồi ức của những người thân – NXB Văn học 2009). Đó thật sự là những con
người đẹp, làm việc đẹp và viết nên trang sử đẹp, đáng là niềm
tự hào cho mỗi người Việt Nam
ta. Ngô Đình Diệm cũng được Nhật để mắt tới nhưng họ không lạ gì con người này.
Trong tình thế ấy, Trần Trọng Kim là sự lựa chọn cuối cùng. Ông được
Nhật đưa sang Chiêu Nam
Đảo (Singapour) trước đó cả năm trời, qua Băng Cốc (Thái
Lan), về Sài Gòn, ra Huế vào giờ phút chót. Ông viết trong hồi ký “Một cơn gió
bụi”:
“Có một điều nên nói cho
rõ, là trong khi tôi chọn người lập chính phủ lúc ấy, người Nhật Bản không bao
giờ hỏi tôi chọn người này người kia. Tôi được hoàn toàn tự chủ tìm lấy người
mà làm việc. Và tôi đã định từ trước rằng nếu người Nhật can thiệp vào việc
trong nước thì tôi thôi ngay, không làm nữa.
“Chừng mười giờ sáng
ngày 17 tháng tư năm 1945, tôi đem danh sách ấy vào trình vua Bảo Ðại. Vào đến
nơi, tôi thấy ông Yokohama, tối cao cố vấn Nhật, đã ngồi đó rồi. Ông thấy tôi
vào liền hỏi: “Cụ đã lập thành chính phủ rồi à?”. Tôi nói: “Vâng, hôm nay tôi
đem danh sách các bộ trưởng vào tâu trình hoàng thượng để ngài chuẩn y”.
“Tôi đệ trình vua Bảo
Ðại, ngài xem xong phán rằng: “Ðược”. Khi ấy ông Yokohama nói: “Xin cho tôi xem là những ai”.
Ông xem rồi, trả lại tôi và nói: “Tôi chúc mừng cụ đã chọn được người rất đứng
đắn”. Sự thực là thế, chứ không như người ta đã tưởng tượng là người Nhật Bản
bắt tôi phải dùng những người của họ đã định trước”.
Có ai không nghĩ rằng đó là
vở kịch được người Nhật dàn dựng từ đầu chí cuối?
Ngày 8/5/1945, chỉ một ngày
trước khi phát xít Đức đầu hàng Đồng Minh, tại Huế, Hoàng đế Bảo Đại đọc Tuyên
chiếu thành lập nội các. Tân Tổng trưởng đưa ra bản Tuyên cáo khẳng định nền
độc lập mới có được sau 80 năm bị Pháp áp chế và cám ơn Nhật Bản đã ra tay
“giải phóng”, kêu gọi “Quốc dân phải cố gắng sức làm việc, chịu
nhiều hy sinh hơn nữa và phải thành thật hợp tác với nước Đại Nhật Bản”, lấy quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam, quốc
kỳ Quẻ Ly đỏ trên nền vàng (ứng với
hoàng đế làm chủ phương Nam). Bà con kinh đô nhạo là “vương rút ruột”. Vấn
đề là có thật Nhật “giải phóng” cho Việt Nam không, hay chỉ là động tác tháo
vòng xích cũ, choàng vào cổ cái vòng xích mới xiết chặt hơn để kéo dài cơn hấp
hối của tên phát xít cuối cùng?!
Kế hoạch của tân chính phủ đưa ra thì
nhiều nhưng chỉ là những ý tưởng hão huyền. Trước hết vì chính quyền quân phiệt
Nhật kiềm chế khắt khe cả về mọi mặt. Trong khi chính phủ thì “hữu danh vô
thực”: Không lực! Không quyền! Không được nhân dân ủng hộ! Mặt trận Việt Minh
kêu gọi phải tận dụng thời cơ, tự ta giải phóng cho ta, đồng thời cảnh báo
những ai nhẹ dạ cả tin: “Lợi dụng Nhật
tức là tự để mình cho Nhật lợi dụng; lợi dụng Nhật, đi theo Nhật tức là trốn ra
ngoài hàng ngũ kháng Nhật cứu nước mà toàn thể đồng bào đương hăng hái bước
vào; lợi dụng Nhật là “đánh đu với tinh”; lợi
dụng Nhật là tự tử” (Báo Cứu quốc, số 24 ngày 25/6/1945). Yêu cầu
bức thiết lúc bấy giờ là cứu đói. Trong khi các kho thóc đầy ắp, ngoài việc cấp
ăn cho lính còn dùng thay than cho các tàu thủy, tàu hỏa và nhà máy! Khắp Bắc
Kỳ, nhiều làng vắng tanh không một bóng người, cảnh chết đói đầy đường, đầy
phố! Việt Minh hô hào phá kho thóc Nhật cứu đói cấp thời, thì tân Chính phủ lại
công bố: “Chúng tôi vẫn hợp tác chặt chẽ với nhà đương chức Nhật Bản” và
ra lệnh kết án tử hình những ai cướp phá kho tàng ngũ cốc! Cái gọi là Bộ Tiếp
tế làm được vài việc vặt, coi như vô dụng! Bộ Tài chính chuyên làm một việc gom
tiền thuế của dân giao cho giặc! Chỉ riêng trong 5 tháng tồn tại, Chính phủ
Trần Trọng Kim đã nộp cho Nhật khoản tiền 720triệu Đồng Đông Dương (Piastre),
không thua số tiền 726triệu do chính quyền Decoux nộp trong 5 năm (1940-1945).
Cụ thể là: 1940: 6tr; 1941: 58tr; 1942: 86tr; 1943: 116tr; 1944: 360tr; 1945
cho đến ngày 9/3: 100tr. Tổng cộng trong thời gian Thế chiến hai, chính quyền
Đông Dương đã nộp cho Nhật 1tỷ446 triệu Piastre, tương đương 14tỷ460 triệu
Franc lúc đó (BS Ngô Văn Quỹ - sđd). Thật
sự đó là tội ác với nhân dân và lịch sử mà chính quyền Trần Trọng Kim không thể
chạy tội được! Vai trò lịch sử của
nội các do ông lãnh đạo thực chất là như thế. Dù rằng thành viên trong nội
các đều là những người có đủ học thức và đức hạnh, chánh trực thanh liêm, lúc
hữu sự muốn góp phần mình giúp nước nhưng trước thực tế đều thấy bị cô lập và
bất lực, rã đám dần. Sau cách mạng tháng
Tám, phân nửa các vị theo Chính phủ kháng chiến cho tới ngày thắng lợi hoàn
toàn. Một số ra định cư ở nước ngoài và hầu như không có ai hợp tác với các
chính quyền tay sai ngoại bang sau đó. Luật sư Phan Anh, người sớm nhận ra sự
thật, đứng hẳn về phía cách mạng và có những đóng góp to lớn, sau này viết: “Chúng tôi đã lầm rất lớn. Chúng tôi đã tưởng
lợi dụng được một đế quốc chống một đế quốc khác, tranh thủ quyền lợi về ta,
nhưng trái lại bọn Nhật đã lợi dụng chúng tôi, ít nhất cũng là về danh nghĩa.
Đó là một bài học đau đớn!” (Phan Anh – Con đường đi tới cách mạng tháng 8
của tôi – Báo Nhân dân số 2346 ngày 21/8/1960). Giả như có một “khoảng trống
quyền lực” mà nhân dân không được tổ chức, không có lực lượng thì làm sao giành
được chính quyền? Huống chi quyền lực vẫn nằm trong tay quân phiệt Nhật tới giờ
phút chót! Đó là sự thật lịch sử! Riêng vị Tổng trưởng nội các, sau khi quân
Nhật bị giải giáp về nước, cách mạng tháng Tám thành công, quân Pháp quay lại
tái xâm lược Việt Nam, ngài lại tìm đến cố vấn Vĩnh Thụy đang đào tẩu ở Hương
Cảng, theo lời phế đế về Sài Gòn nghe ngóng. Ở đây, vị học giả đã nhìn ra chân
tướng cái xã hội nhố nhăng này: “Tôi xem
việc người Pháp làm, không thấy gì là chân thực. Liên hiệp Pháp chỉ là một
thứ cũi chó mạ vàng! Còn về phương diện người mình, thì không có gì đáng
vui, phe nọ đảng kia lăng nhăng chẳng đâu vào đâu cả!”. Và nhìn ra một sự
thật là: “Tôi vẫn biết việc chống với
Pháp chỉ có Việt Minh mới làm nổi”. Tuy nhiên nhà nho vẫn loanh quanh xứ
trời nam, hy vọng được mời ra hợp tác
với lời an ủi của bậc thánh hiền: “Dụng
chi tắc hành. Xả chi tắc tàng” (Dùng thì ra làm việc. Bỏ thì ở ẩn). Mòn mỏi
đợi chờ, trước khi bỏ xác xứ người, ông
thầy ngán ngẩm thở than: “Nghĩ cho cùng,
ở đời chẳng cái đếch gì ra cái đếch gì”!
Hậu luận:
Một: Khi
Thế chiến thứ II sắp kết thúc, Nhật còn muốn nắm lực lượng thanh niên để phục vụ
mưu đồ riêng. Ở Nam Kỳ Nhật mời Bác sỹ Phạm Ngọc Thạch lập Thanh niên Tiền
phong, biểu trưng là cờ nền vàng sao
đỏ (thực ra xứ ủy Nam Kỳ đã chủ động nắm tổ chức này). Nhật cũng vận
động Bộ trưởng Phan Anh lập ra tổ chức thanh niên. Lúc này ở Bắc Kỳ đã có “Đoàn
Thanh niên cứu quốc” trong đoàn thể Việt Minh. Tổ chức “Thanh niên Phan Anh” ra
đời ở Huế. Ông bàn với giáo sư Tạ Quang Bửu là người có ảnh hưởng rất lớn trong
giới học sinh ở Huế đứng ra mở “Trường
võ bị thanh niên tiền tuyến” và mời
ông Phan Tử Lăng – võ quan chỉ huy lực lượng Bảo an binh ở kinh đô Huế và cả
Trung kỳ, làm Hiệu trưởng. Các ông đều có tinh thần dân tộc cao và sớm liên hệ
với Việt Minh. Nhà trường kêu gọi: “Đất nước ta sẽ rất cần thanh niên có học,
có hiểu biết về quân sự” và hứa: “Học xong không bắt buộc ra làm việc cho chính
phủ”! Thực chất là chủ động chuẩn bị bổ sung cho lực lượng vũ trang yêu nước
khi cần. Số người ghi danh vào học khá đông, có cả một số sinh viên từ Hà Nội
vào theo học. Lá “cờ quẻ kiền” ba
sọc đỏ (tượng trưng cho người quân tử
làm điều nghĩa hiệp), được lấy làm biểu tượng của thanh niên Võ bị. Vậy
là Mặt trận Việt Minh thông qua những người yêu nước, chủ động biến tướng một
tổ chức phục vụ cho ý đồ của Nhật thành một tổ chức nòng cốt của mình. Cách
mạng thành công, đổi tên là “Trường võ
bị Thuận Hóa” và mở rộng thành phong trào “Thanh niên tiền tuyến”, góp phần đẩy mạnh phong trào “Nam tiến” sôi động trong cả nước, bổ
sung tiếp ứng kịp thời cho mặt trận phía Nam. Nước nhà vừa độc lập thì bước
ngay vào cuộc kháng chiến từ Nam lan nhanh ra Bắc. Cũng như Thanh niên Tiền
phong, Thanh niên Tiền tuyến chấm dứt
vai trò lịch sử, hợp nhất vào tổ chức Thanh niên cứu quốc trong Mặt trận Việt
minh. Cuộc trường kỳ kháng chiến giành thống nhất, độc lập kết thúc thắng lợi,
tám học viên khóa đầu của Trường võ bị được phong quân hàm cấp tướng (Hồi ký
của Thiếu tướng QĐNDVN Mai xuân Tần).
Nhân chuyến công cán qua Trung Quốc, Cố vấn tối cao Vĩnh Thụy đào
nhiệm và lưu trú ở Hồng Công. Giữa năm 1948, kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh”
thất bại, chủ cũ tìm đến ký với phế đế cái gọi là Hiệp định Hạ Long, công nhận
nền độc lập của Việt Nam nằm trong khối
Liên hiệp Pháp và lập ra cái chính phủ quốc gia! Phục dựng lá “cờ quẻ kiền” làm quốc kỳ và lấy bài hát
“Tiếng gọi thanh niên” (của Lưu Hữu
Phước) ra đời trong phong trào thanh niên tiền khởi nghĩa, làm quốc ca. Ngay
lập tức, Chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh ra tuyên bố cảnh cáo: “Chính phủ và nhân dân Việt Nam sẽ theo pháp
luật nước nhà trừng trị bọn phản quốc ấy. Đối với các nước trên thế giới, tôi
thay mặt chính phủ và nhân dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trịnh trọng tuyên
bố không bao giờ thừa nhận những giấy tờ gì do bọn bù nhìn ấy ký kết với bất cứ
nước nào”!
“Quân đội quốc gia” được gấp rút nặn ra. Với lệnh Tổng động viên,
học sinh trung học ở các thành thị trong vùng tạm chiếm bị dồn vào các trường
sỹ quan trù bị Nam Định, Thủ Đức và Võ bị Đà Lạt. Lá “cờ quẻ kiền” với bài ca vốn ra đời từ phong trào yêu
nước sôi nổi chống ngoại xâm nhưng đã bị đánh tráo nhận vơ cho cái quốc gia ngụy
tạo! Từ đấy “cờ quẻ kiền” hết
đi sau “cờ tam tài” rồi “cờ hoa” trong những cuộc trà sát khủng
bố giết chóc đồng bào ta!
Hai: Thế
kỷ XX trong lịch sử dân tộc Việt Nam , thật vô cùng bi tráng. Cuộc
chiến tranh giải phóng quyết liệt lâu dài không có chỗ cho người đứng giữa.
Người ta chỉ có thể đứng ở phía bên này hay ở phía bên kia. Đó là bi kịch! Như
tâm tư buồn của một trí thức lớn thì “dù là người dân bình thường kể cả kẻ sỹ vẫn
phải chấp nhận thực tế để tiếp tục sống và làm cái gì đó có ích cho đời”! Đó là thực tế đớn đau của nhiều thế hệ
trong một thời kỳ lịch sử khắc nghiệt.
Cuộc chiến quyết liệt không
thể tránh những biểu hiện cực đoan gây nên những oan trái làm tổn hại tính mạng
và tinh thần cho người cả hai phía. Khi thời gian làm rõ ra ý nghĩa của thắng
lợi thuộc về tổ quốc và nhân dân, hóa giải là điều không khó.
Dù sao hậu thế có cái nhìn
thông cảm cởi mở, khoan dung, gạn đục khơi trong, tiếp thu có chọn lọc những
cống hiến hữu ích của những con người tài năng chìm nổi trong hoàn cảnh ấy.
Nhưng phải dứt khoát rõ ràng. Sự thực lịch sử không thể tô hồng, không thể bôi
đen. Trên giá sách của người viết vẫn giữ cuốn Việt Nam
sử lược do thân phụ để lại từ giữa thế kỷ trước, được dùng để tra cứu các
niên đại, triều đại và sự kiện liên quan mỗi khi cần. Còn như đánh giá thế nào thì xin mách ông Trần
Văn Chánh tìm đến cụ An Chi chỉ giáo cho. Bài học lịch sử cần rút ra là học
thuật và chính trị đòi hỏi những phẩm chất khác nhau. Sai lầm học thuật, cùng
lắm hại cho uy tín một người. Sai lầm chính trị hậu họa khôn lường. Tấm gương
của học giả họ Trần đủ để hậu thế soi chung!
“Phải tôn trọng sự thật
lịch sử” – Đó là câu khai vị của bất kỳ ai khi nói về lịch sử. Gần đây, người
ta đưa ra lý lẽ: “Dù sự kiện sử học chỉ xảy ra có một lần nhưng phải viết lại
nhiều lần vì phương pháp luận sử học ngày càng được nâng cao”! Phương pháp luận
sử học là bài học khai tâm cho những người học sử và nó chỉ được làm mới khi có
những phát hiện mới, được xác minh dưới cái nhìn khoa học. Thực tế là nhiều vấn
đề lịch sử đang bị đảo lộn tùng phèo bởi những sự kiện lịch sử lâu nay chỉ có
thế nhưng vì lòng người thay đổi nên họ cứ viết lại theo ý họ, gọi đó là cái
nhìn mới trên cơ sở phương pháp luận sử học mới và bằng nhiều mánh khóe cách
tân khua chiêng gõ mõ, làm rối loạn lòng người!
Lịch sử từ nhân dân mà ra, do nhân dân
làm nên và vì nhân dân mà viết sử.
Tuần báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh
Số 451 Thứ
năm ngày 25 tháng 5 năm 2017