ĐÔNG LA
VỀ CHỦ NGHĨA “DUY ÁC” THEO
QUAN ĐIỂM
CỦA TRẦN MẠNH HẢO
Trên
diễn đàn tranh luận không phải cứ cho thiện ác, phải trái là thiện ác phải trái,
mà quan trọng hơn, ai là người đưa ra quan điểm đó? Bởi một kẻ ác sẽ cho một
điều thiện thành một điều ác, ngược lại một điều ác thành một điều thiện; còn
kẻ dốt không an phận “tựa cột mà nghe” lại hoang tưởng đi dạy dỗ thiên hạ làm
sao có thể chỉ ra được sự đúng sai, phải trái?
Vậy ý Trần Mạnh Hảo như thế nào khi viết bài “SAO LẠI RƯỚC
“ĐẠO DUY ÁC” VÀO CHÙA THỜ CHUNG VỚI ĐẠO TỪ BI, THƯA CÁC NHÀ SƯ?”
Với người hiểu biết thì ai cũng biết TMH là người không có
“một xu” tri thức nào cả nhưng lại vĩ cuồng, hoang tưởng, nên đã hung hãn xông
vào những lĩnh vực tri thức cao siêu liên quan đến triết học, đạo lý để kiếm cớ
chửi bới lung tung, chống phá thể chế.
Vùa rồi ông Lương Chí Thành, một TSBS, chỉ kém tôi vài tuổi,
viết bình luận là không biết TMH là ai? Tôi giật mình thấy thời gian trôi đi
nhanh thật, xã hội phát triển, nhận thức mở rộng ra nhiều chiều khiến mối quan
tâm của người ta cũng thay đổi theo. TMH cũng như nhiều người đã không hiểu vậy
nên cứ tưởng mình còn là những “ông kễnh”, vẫn có thể phán bừa như ngày nào.
TMH
thuộc lớp nhà thơ, nhà văn thành danh ngay trong thời kháng chiến. Giờ Lương
Chí Thành không biết TMH là ai nhưng sau giải phóng khi tôi còn là sinh viên
ngành hóa chưa nghĩ đến chuyện viết văn thì TMH đã thuộc hạng siêu sao rồi. Đến
cỡ Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Linh cũng biết tới TMH và trong nghể văn thì đến
hàng tổ sư như Chế Lan Viên cũng quý TMH. Chính Chế Lan Viên đã khuyên tôi phải
chơi với cỡ như TMH. Nhưng rồi thực tế một tài năng lớn, một người thông thái
như Chế Lan Viên cũng không thể ngờ được tâm tính “kỳ nhông” của TMH thay đổi như
thế nào và trong trường văn trận bút TMH đã liều mạng đến như thế nào khi xông
vào các lĩnh vực tri thức?
***
Trong lĩnh vực lý luận văn học TMH
từng phê phán một loạt các giáo sư và nhà phê bình. Nhưng ngay những khái niệm
cơ bản nhất TMH cũng không hiểu. Trần Mạnh Hảo từng viết: “Siêu thực và hiện
thực là hai mặt của một thực thể”. Đây là một ý tưởng vô nghĩa. Bởi một
thực thể chỉ tồn tại là chính nó với tất cả những thuộc tính vốn có,
tức nó chỉ có một mặt hiện thực. Còn siêu thực không phải là một
mặt tồn tại của sự vật mà là một khuynh hướng sáng tạo của một trào lưu
văn học nghệ thuật. Như Dali vẽ cái đồng hồ trông như một cái bánh tráng
chảy nhão. Như vậy, cái đồng hồ luôn là cái đồng hồ, nhưng người nghệ sĩ siêu
thực thì thấy như thế, chứ không phải như ý Trần Mạnh Hảo, cái đồng hồ có hai
mặt, một mặt thật và một mặt siêu thực-chảy nhão !
TMH từng xổ toẹt tài thơ Nguyễn Quang
Thiều, cựu bạn thân của tôi, nay là đương kim Phó Chủ tịch HNVVN, cho thơ Thiều
là “lai căng”; “Tây giả cầy nhí nhố”, là “thơ dịch xổi như xổ ra từ bản nháp”!
Về triết học Trần Mạnh Hảo cũng mù tịt nhưng cũng đi
phê phán lung tung. Trần Mạnh Hảo cho triết học phương Đông là “nhất nguyên”
rồi lại cho là “trung dung nên không có chữ
DUY”. Đây là một sự mâu thuẫn, bởi theo hệ thống thuật ngữ, đã “nhất
nguyên” thì phải “DUY”. Trong lịch sử triết học chỉ có hai học
thuyết sử dụng phạm trù “bản nguyên”: Nhất nguyên luận (Duy
vật hoặc duy tâm, coi VẬT hoặc TÂM là bản nguyên, là cái có trước, cái quyết
định) và nhị nguyên luận, coi vật chất và tinh thần là hai
bản nguyên như nhau, độc lập với nhau (triết học của Descartes và Kant).
Còn triết học cổ phương Đông không phải “không có chữ DUY” mà cũng chia
làm hai phái: Duy Tâm và Duy vật. Phái Duy tâm đại diện là Khổng Tử, Mạnh Tử, và Chu Hy,
người đã hệ thống hóa những tư tưởng đạo Khổng, coi lý, bản
nguyên của tinh thần, là cái có trước, còn khí, bản nguyên vật chất, là cái có
sau. Còn phái Duy vật đại diện là Lão tử, Trang tử, Tuân tử,
coi Đạo là cái khởi nguyên của tất cả Trời, Đất, vạn vật,
là “đường đi”, tức quy luật biến đổi của chúng (theo từ điển triết
học và các sách chuyên ngành khác). Vậy hiểu như Trần Mạnh Hảo, triết học
cổ phương Đông là: “trung dung”, rồi còn đồng nhất “trong âm có
dương, trong dương có âm” với “trong tâm có vật, trong vật có tâm”
là chưa hiểu gì.
***
Với hành trang tri thức như vậy, TMH đã liều mạng
công kích Học thuyết Mác và hung hãn chửi bới Các Mác. Chỉ là một kẻ ngông
cuồng, vĩ cuồng mới dám bậy bạ như vậy. Bởi với Mác, một người mà đến những
người có tư tưởng đối lập với ông cũng có những người phải vị nể. Trên
nước Đức, quê hương ông, tên ông vẫn được vinh danh
trên các đại lộ:
Cụ thể, về đấu
tranh giai cấp, TMH
viết:
“Cái sai lớn
nhất của Mác... biến học thuyết “đấu tranh sinh tồn” của Darwin thành học
thuyết “đấu tranh giai cấp”.
Học thuyết tiến hóa của Đác-uyn cho sự phát sinh những đặc điểm sai khác trong quá trình sinh sản (biến dị cá thể); rồi tác nhân chọn lọc là những điều
kiện khí hậu, địa lý, thức ăn, kẻ thù tiêu diệt, sự cạnh tranh về thức ăn và
chỗ ở. Những cá thể biến dị thích nghi hơn, sinh sản nhiều, sẽ có điều
kiện tồn tại nhiều hơn. Như vậy TMH không chỉ không hiểu
gì mà còn nói ngược. Thực chất, không phải Mác mà chính những người theo thuyết Đác-uyn xã hội (L. Gum-plo-vich, G. Rát-xen-hô-phơ, v.v...), coi đấu tranh sinh tồn là động lực của phát triển xã hội, cho rằng kẻ
mạnh sẽ tồn tại, kẻ yếu sẽ chết; điều đó chính là mầm mống của sự phân biệt
chủng tộc, tư tưởng phát-xít. Còn học thuyết của Mác lại đứng về phía những “kẻ
yếu”, tức những người bị nô dịch, bị bóc lột. Động lực phát triển xã hội theo
Mác là đấu tranh giai cấp, mà nguyên nhân của đấu tranh giai cấp không phải do
mạnh yếu mà do những mâu thuẫn đối kháng, sự bất hợp lý trong lao động và hưởng
thụ thành quả lao động. Mác chỉ rút ra những
quy luật đó từ lịch sử phát triển xã hội chứ hoàn hoàn không phải tự đặt ra,
chưa có Mác, xã hội loài người đã có đấu tranh giai cấp rồi.
Về phép biện chứng
TMH
viết: “Bắt chước Hegel, Mác cũng cho ba
thì của vận động vật chất (không có tinh thần tham dự) là nhập đề, phản đề, hợp
đề lặp đi lặp lại mãi tới tận cùng là TUYỆT ĐỐI DUY VẬT, tức là chỗ vật chất
ngừng lại”.
Vì không
phân biệt được duy vật biện chứng với
duy vật lịch sử, vo tròn lại, TMH đưa
ra những phân tích ngô nghê, những kết luận ông chẳng bà chuộc, không ăn nhập
gì với nhau. TMH viết: “TUYỆT ĐỐI DUY
VẬT, tức là chỗ vật chất ngừng lại” thì khúc đầu vô nghĩa, khúc sau ngược
với triết học Mác. Với chủ nghĩa duy vật
biện chứng, quy luật “vật chất luôn
vận động” là điều kiện để vật chất tồn tại, nó cũng là sự thật hiển nhiên
của thế giới tự nhiên; điện tử chỉ ngừng quay quanh hạt nhân nguyên tử trong
tích tắc thì toàn bộ thế giới sẽ thành hư vô. Đây là một quy luật khách quan,
không phụ thuộc vào Hê-ghen hay Mác, kể cả Chúa (nếu có), và nó cũng không phụ
thuộc vào bất kỳ chế độ xã hội nào, xã hội Cộng sản hay Tư bản. Sai lầm khi
đồng nhất “các mặt đối lập trong thế giới
vật chất” với “đấu tranh giai cấp
trong xã hội”, một cái là quy luật khách quan trong thế giới tự nhiên, một
cái là quy luật chủ quan do con người vạch ra, một cái không gì có thể can
thiệp, một cái con người có thể hiểu và tác động, vận dụng hoặc tránh né; nên
TMH mới hiểu sai khi cho xã hội Cộng sản không còn đấu tranh giai cấp thì giống
như vận động của vật chất sẽ dừng lại. Lẽ ra phải viết phép biện chứng duy vật
lúc đó cũng sẽ trở thành siêu hình. Thực chất theo Mác, hết đấu tranh giai cấp
thì sự phát triển về chế độ do giai cấp lãnh đạo sẽ dừng lại, “chế độ tự quản xã hội” sẽ được thiết
lập, như mọi sự vật và hiện tượng, nó sẽ còn mâu thuẫn nhưng không phải là đối
kháng.
Về chế độ tư hữu và con người
TMH viết: “Việc chủ trương xóa bỏ triệt để tính tư hữu con người của Marx là hành
vi xóa bỏ chính con người, chống lại nhân loại phản động vô cùng tận của học
thuyết Marx”.
Viết vậy TMH đã sai khi đồng nhất khái niệm “chế độ tư hữu” với “tính tư hữu”, một đằng chỉ hình
thái kinh tế - xã hội, một đằng chỉ về bản tính con người.
Khi Mác
viết: “Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. TMH cho: “Marx đã hoàn toàn rơi vào duy tâm chủ quan
khi tuyệt đối hoá yếu tính xã hội của con người”; “Với định nghĩa về
con người tuyệt đối sai trái”, Mác đã “phủ
nhận con người tự nhiên, tuyệt đối hoá vai trò xã hội của con người”.
Thực chất Mác chỉ phê phán Phơ-bách cho bản chất tôn giáo là cái có
sẵn trong bản chất người, mà Mác cho tín ngưỡng là do hoạt động tôn giáo của
con người trong xã hội hình thành nên. Điều này hoàn toàn đúng, vì nếu ai đó
lớn lên không học kinh lễ, không đi chùa, không đi nhà thờ, chỉ đi học và hiểu
khoa học, họ sẽ hoàn toàn vô thần. Con người tự nhiên là con người sinh học,
nếu sống cô lập hoàn toàn với các quan hệ xã hội thì chỉ có ý thức bản năng đơn
giản mà thôi. Trong thời gian vừa qua,
trường hợp người ta tìm thấy mấy “người rừng” và đưa họ trở lại đời sống bình
thường, sự ngây ngô của họ là bằng chứng sinh động nhất chứng minh tính đúng
đắn quan điểm của Mác. Thực chất, với triết học Mác, con người đã được định nghĩa toàn diện nhất:
“Khả năng đối xử có tính người đối với
thế giới và đối với những người khác, khả năng lao động, giao tiếp với những
con người chung quanh, khả năng tư duy, có những tình cảm đạo đức và những xúc
cảm thẩm mỹ - tất cả những cái đó đều không phải là những đặc tính của cơ
thể... Những nét ấy được hình thành nhờ chỗ con người tham gia vào hệ thống các
quan hệ xã hội, vào quá trình lao động, đi liền với... quá trình nắm vững và
tái tạo nền văn hóa xã hội... Con người... kẻ sáng tạo ra lịch sử, kẻ sáng tạo
ra thế giới văn hóa vật chất của mình, và theo nghĩa này, cũng sáng tạo ra
chính bản thân mình” (Từ điển triết
học).
Vậy mà TMH viết: “Con người - đối tượng nghiên cứu của Marx là con người vật dục, con
người của DUY miếng ăn và DUY cái dạ dày...! CON NGƯỜI TRONG HỌC THUYẾT MÁC LÀ
CON NGƯỜI DUY LỢI, DUY ÁC, DUY KINH TẾ, DUY GIAI CẤP và do đó là CON NGƯỜI DUY
TÂM, DUY Ý CHÍ - một hình nhân chứ không phải một con người đúng nghĩa!”
thì TMH có còn là một con người không?
***
TMH từng có phát kiến động trời cho chính phủ
Trần Trọng Kim, tay sai của Phát xít Nhật, chỉ trong một thời gian rất ngắn đã
tích cực thực hiện chính sách “phá lúa trồng đay” của chủ, “có công” làm
2 triệu dân ta chết đói, là chính nghĩa, thì chính TMH đã tự thể hiện mình là
một kẻ ác. Một người như vậy mà đi bàn chuyện thiện ác thì người đọc cần phải
hiểu ngược lại!
25-5-2017
ĐÔNG LA