ĐƯỜNG TRẦN LÀ THẾ
Nguyễn Văn Thịnh
***
Bạn Trần Tố Nga gửi tặng tôi tập hồi ký Đường trần*. Con đường xưa như trái đất, hằng hà sa số người đi, bao lâu
mà vẫn thế – Muôn hình vạn trạng: Trần ai lai khổ hay là gió mát trăng thanh? Gềnh
thác chông gai hay là mát mái thuận buồm? Dù sao thì trên con đường ấy chúng ta
là bạn đồng hành. Ngoài tuổi thơ đầy tình thương dưới mái nhà êm ấm, là trường
Phổ thông cấp III Nguyễn Trãi Cửa Bắc
Hà Nội đầy kỷ niệm với niềm tin ngây thơ và ước mơ sôi nổi của
tuổi học trò; là con đường từ Trường
B105 tới Ông Cụ xẻ dọc Trường
Sơn đầy gian khổ hiểm nguy mà lòng phơi phới dậy tương lai; là những ngày mưa rừng hành quân cơm sống măng le; là những ngày tháng gian truân cận kề
cái chết và đã vượt qua để được chia sẻ niềm vui chiến thắng; là những năm hậu
chiến dài dằng dặc với bao nhiên điều trăn trở về phận mình, phận nước; là những
năm tháng cuối đời thấp thỏm âu lo về chất độc dioxin từng hành hạ mình liệu có
còn là mầm gây họa cho con cháu đời
sau?...
Cuốn sách 450 trang gói gọn 75 năm cuộc đời của người bạn gái
cùng cảnh ngộ, làm sống dậy những kỷ niệm vui buồn tưởng đã quên đi...
Dù ở địa bàn chiến đấu khác nhau: Bạn trong nội đô luôn đối
đầu lính kín, cảnh sát và
những đòn tra tấn trong tù. Tôi ngoài bưng biền luôn căng thẳng với những trận càn, dưới đất giặc “dí”, trên đầu máy bay rà sát địa
hình kêu gọi chiêu hồi; những lúc trân mình dưới hầm chịu trận pháo dùi, pháo
chụp, bom trùm giải thảm, bom đìa tọa độ... Song chỉ mong mau có hòa bình dù
rau cháo cũng cam, như lời bạn nói: “Tưởng
như chỉ cần có hòa bình thì mọi việc trên đời sẽ trở nên tốt đẹp với từng con
người và với cả dân tộc. Chỉ cần có hòa bình là hạnh phúc và niềm vui sẽ đến”.
Đúng thế. Đất nước một giải đã về ta, bạn ở đầu phía Nam, tôi ở
đầu phía Bắc mà xem như từ một bản sao ra. Bạn xin đi học như ước mơ thời con gái thì người có trách nhiệm trả lời: “Lúc này đất nước cần cháu làm việc hơn là đi học, lẽ nào cháu lại quên
nghĩa vụ với các bạn đã hy sinh?”! Bạn xin về trường cũ thì nhận được câu
nói sỗ sàng của một anh bạn nào đó gặp may: “Cậu chỉ là viên đá lót đường trong chiến tranh. Cậu đã rời xa khoa học
lâu rồi, ở đây cậu không có chỗ đâu, bây giờ là thời kỳ của khoa học, là thời kỳ
của chúng tớ!”. Còn tôi, đi xin việc thì được trả lời: “Anh tự đi liên hệ nơi nào nhận thì Bộ sẽ làm
quyết định!”. Nhiều cái lắc đầu vô cảm hoặc đôi khi một ánh mắt nhìn thương
hại. May là còn gặp người tử tế. Nhưng muốn được đi học bù vào khoảng trống thì
nhận được lời hứa vu vơ: “Cứ công tác tốt,
có dịp sẽ ưu tiên!”. Và khi quân Tàu đánh sang, theo lệnh Tổng đông viên, bộ
phận tuyển quân ưu tiên tuyển những “đồng chí” có kinh nghiệm chiến trường! Bị
chính người thân dạy cho bài học: “Hoặc
là dốt! Hoặc là đấu đá! Hoặc là bị phỉnh!”. Nhưng phép công là trọng quen nếp
mất rồi, đường mây sớm giục xứ trời, xuất chinh thêm 10 năm nữa. Khi được trút
bỏ bộ chiến bào thì gối mỏi chân chồn, tuổi xuân đâu còn nữa!
Dầu cuộc đời biến đổi thế nào tôi cũng nghĩ y như bạn: “Lịch sử càng lùi xa, ta càng có điều kiện
nhìn lại cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước một cách sâu sắc hơn, đầy đủ hơn.
Trong đạn bom gian khổ, đã có những gương hy sinh và những kẻ phản bội, đã có
những quyết định đúng đắn và những sai lầm, nhưng những mục tiêu cao đẹp của cuộc
chiến tranh vệ quốc là điều không thể nào phủ nhận được. Chúng tôi, lớp người
trực tiếp tham gia cuộc chiến – Những người đã ngã xuống trong chiến tranh và
những người còn sống ngày mai một dần, chúng tôi không bao giờ tiếc nuối những
năm tháng đã sống và chiến đấu. Chúng tôi luôn tin rằng đã làm đúng những điều
mà người dân yêu nước nào cũng phải làm vào thời buổi sơn hà nguy biến”.
Như tâm tư của một bà mẹ Quảng Bình: “Mỹ
đến xâm lược nước mình, nó thua thì nó về nước nó, mình thua thì mình biết đi
đâu?”; Như lời mẹ tôi dặn: “Con đi
chân cứng đá mềm!”, cũng như lời bà ngoại bạn khuyên: “Hùm chết để da, người ta chết để tiếng, con nhớ không?”, là nguồn sức
mạnh để cháu con vượt qua muôn vàn thử thách. Đó hoàn toàn là truyền thống từ tổ
tiên ông bà để lại đã thành nền tảng đạo đức gia đình, dân tộc chớ không phải
là do một “ý thức hệ ủy nhiệm” xa lạ nào như mấy anh trí thức dởm ăn theo hãnh
tiến báo hại một thời, nay hết vận còn muốn tạo tiếng tăm để lưu cái danh
suông. Chúng ta theo cha ông làm cách mạng chỉ vì điều Chân-Thiện-Mỹ chứ không vì miếng cơm
manh áo đi tìm “quả thực”. Tạm hài lòng với những gì làm được. Nước mất
thì ta lấy lại được rồi. Dân ta tự quyết định vận mệnh tổ quốc mình. Dần dà ta
mới hiểu ra: Thể chế chỉ là chiếc áo. Chẳng nên cầu toàn ở một xã hội nào. Mọi
khái niệm đều chỉ là tương đối. Bình đẳng trong một nhà đã khó huống chi giữa
xã hội của ít người nhiều mà lòng tham thì không giới hạn? Dân chủ với ai trong
xã hội mà người xây thì ít, người phá thì nhiều? Tự do làm sao trước hàng tỷ người
nhưng muôn ngàn vạn ý? Chỉ mong mối quan hệ con người ngày một lành mạnh hơn, ấy là khả
năng kiềm chế bản năng ích kỷ của con người. Vận nước đổi thay tùy lúc: Có minh
vương thì có hiền thần, dân thịnh nước cường. U vương lên ngôi thì gian thần lộng
hành, dân suy nước nhược.
Cuộc đời của mỗi con người chỉ giới hạn trong một giai đoạn lịch
sử nhất định thôi. Chúng ta may thoát ra khỏi cuộc chiến tranh và được hưởng lộc
trời là tuổi thọ với nỗi niềm Lạc, Ai, Nộ – Vui
vì trên đất nước ta sạch bóng quân xâm lược, giang sơn thống nhất, tổ quốc hòa
bình độc lập và dân ta làm chủ vận mệnh của mình. Buồn
vì những sai lầm trong chính sách kinh tế và xã hội kéo dài, chậm sửa để dân chịu
khổ quá lâu và nạn tham nhũng tác oai tác quái làm mất lòng tin. Giận vì những ai đã sớm quên máu xương của
đồng bào, đồng đội, quên đi những ân tình bảo bọc của dân, quên đi cội nguồn và
trách nhiệm của mình, chẳng khác chi quân bội phản.
Chiến tranh cũng để lại hậu quả vô cùng tệ hại lâu dài ngay cả với
những người chiến thắng. Nghĩ tới cùng thì những người ở tuyến trước, một thân
một mình “da ngựa bọc thây” nào có xá chi. May còn sống trở về sức lực tiêu
hao, tài mòn, trí lụt, có được học cũng chẳng thể bằng người. Trong khi những
người ở tuyến sau cũng phải trần thân lo cả hậu phương lớn nhỏ đùm đề. Triền
miên vất vả mãi sinh ra óc thực dụng. Tật thu vén, dối trá, ki cóp, ích kỷ, nảy
ra từ đấy. Và cũng từ đấy nảy nòi ra lũ láu cá, khôn ranh, lừa lọc. Khi đổi mới
tư
duy từ “kinh tế tập trung” sang “kinh tế thị trường” thì tư duy lợi
nhuận thâm nhập
vào mọi lĩnh vực, thao túng toàn xã hội. Lũ cơ hội
gặp thời mọc ra như nấm sau mưa. Lợi ích cá nhân hợp thành lợi ích nhóm cạnh
tranh nhau quyết liệt. Sự tha hóa con người không có điểm dừng, gây ra bao điều tệ hại, thậm
chí phản lại mục tiêu lúc khởi đầu!
Một thế hệ đang ở chân cái dốc bên kia của cuộc đời. Xã hội hay
dở là việc của lớp người sau. Tuy nhiên chúng ta còn bị giàng buộc với cuộc chiến
tranh này bởi đã không may nằm trong số 4 triệu nạn nhân của chất độc dioxin có
trong thuốc diệt cỏ màu da cam mà từ năm 1961 quân đội Mỹ đã rải trên các vùng
rừng núi nửa phần phía Nam tổ quốc ta suốt 10 năm. Tác hại và di chứng của nó
gây ra rất nhiều thảm cảnh cho các gia đình nạn nhân cả nước. Đặc biệt ở tỉnh
Thái Bình, trong số 400.000 thanh niên đi bộ đội thì gần 100.000 đã hy sinh và
thương tật nặng, 15.000 gia đình có người bị di chứng chất độc hóa học nhiều
hay ít. Thuốc diệt cỏ có chất dioxin từ tay những lính Mỹ rải ra và những người
lính Việt Nam hứng chịu, gọi là bị phơi nhiễm. Tuy nhiên khi các cựu chiến binh
Mỹ là nạn nhân của thuốc diệt cỏ màu da cam khởi kiện thì những công ty hóa chất
Mỹ sản xuất ra loại thuốc ấy đưa ra khoản tiền 180triệu USD để “hòa giải ngoài
tòa”, khép lại tranh chấp. Ngầm hiểu là họ
thể tình, nại lý.
Với đơn khởi kiện của các cựu chiến binh Việt Nam cũng là nạn
nhân của cùng loại hóa chất ấy, trong thời điểm ấy, trên cùng một địa bàn chiến tranh thì bị Tòa án Mỹ tìm cách vô hiệu hóa và
không chấp nhận. Cái luật lớn-bé của lẽ đời xưa nay là
vậy. Đấy là nhân quyền Mỹ! Trước sĩ diện của kẻ mạnh thiên hạ phải làm lơ. Nước
Đại Việt ta không chỉ một lần đánh đuổi giặc to mà vẫn phải chủ động cầu hòa,
chỉ mong được sống yên thân. “Kẻ
mạnh cái lẽ vốn già” (La raison du plus fort est toujours la meilleure), ông La Fontaine đã nói rồi. “Vô phúc đáo tụng đình”, công của
tốn kém theo đòi kiện tụng biết rằng vô vọng chi bằng để lo cho những nạn nhân
quá ư khốn khổ. Thay vì sự bồi thường là
sự trợ giúp, xem ra cũng có chút tình. Dù đền đáp bao nhiêu cũng
chẳng thể so được với những gì đã mất. Chỉ mong sự trợ giúp nhiều hơn và thời
gian cũng khẩn thiết hơn với những người mắc nạn và chút đền đáp ấy được dành
đúng chỗ.
Vụ kiện của các cựu chiến binh Việt Nam xem ra không còn hy vọng! Riêng bạn Tố Nga mang 4 trong số 17 chứng bệnh có thể liên hệ đến chất độc
da cam, lại được sự giúp đỡ của những người bạn quốc tế có lương tri thì cứ tiếp tục cuộc hành trình. Bạn đấu tranh không chỉ vì mình mà cũng
để loại trừ một căn nguyên diệt chủng. 19 công ty hóa chất Mỹ sản xuất
thuốc diệt cỏ màu da cam có nồng độ chất độc dioxin cao đã thuê 38 luật sư sừng
sỏ để đối đầu với ba luật sư tích cực ủng hộ vô tư nạn nhân Trần Tố Nga với niềm
tin “Không phải số lượng, mà chứng cứ,
luận điểm và sự thật chính nghĩa sẽ quyết định thành bại chung cuộc”. Xã hội loài người đã sang thế kỷ thứ XXI rồi mà con người vẫn đốt đuốc
đi tìm công lý!
Những chiến hữu
của bạn và nhân dân cả nước luôn ủng hộ bạn. Ở
Pháp, phong trào mua một cuốn sách do bạn viết Mảnh đất bị nhiễm độc của tôi là góp 5 euro vào quỹ của vụ kiện,
thì ở trên tổ quốc Việt Nam từng chia sẻ đau thương với bạn, sao không thể có
phong trào “Hãy mua một cuốn sách Đường
trần là góp 120.000VNĐ vào quỹ của vụ kiện”, là thiết thực chung sức với cựu
chiến binh Trần Tố Nga – người đang vượt qua bệnh tật hiểm nghèo với nghị lực phi thường.
Cầu chúc bạn sức khỏe để giữ “Ngọn lửa không bao giờ tắt” đặng truyền tiếp cho lớp người sau.
Tuần báo Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Số 470 Thứ năm ngày 5 tháng 10 năm 2017
* Đường trần (Ngọn lửa không bao giờ tắt) – NXB Trẻ 2017