Ở Sài Gòn thường
11-12 giờ đêm tôi mới đi ngủ, về quê ở nhà cô cháu gần nhà của ông bà mà tôi về
tu sửa, 8-9 giờ tối đã ngủ rồi; nhưng ngủ cũng có cữ, nhiều đêm tỉnh dậy mới
1-2 giờ khuya. Một lần bừng tỉnh, qua ô cửa sổ tôi thấy ánh trăng vằng vặc;
trăng ở quê sáng hơn trăng thành phố; ra ban công tôi thấy trăng tròn vành
vạnh, thì ra chính là đêm Tết Trung thu. Ban ngày nắng nóng hầm hập như tháng
sáu, chẳng có dấu vết gì của “mùa thu lá bay, lá vàng rơi, gió heo may” cả, chỉ
giữa đêm khi gặp lại vầng trăng rằm tháng 8 tôi mới thấy lại hình ảnh những mùa
thu xưa ở tuổi ấu thơ. Tôi nhớ đến câu chuyện tôi viết về quê tôi tận từ năm
1995
ĐÔNG
LA
TÌM
QUÊ
Mỗi lần về thăm quê, rôi lại có cảm giác như phải đi
tìm quê trên quê hương của mình. Đó là quê xưa. Ngày ấy, quê hương như một
khoảng râm mát yên lành. Mỗi người đi xa trở về ai cũng muốn ngợp vào đó để mà
quên đi những chặng đường đời đầy nắng lửa. Quê hương như thơ mộng hơn, thần
tiên hơn. Mỗi ngõ nhỏ, mỗi lùm cây, mỗi bờ chuôm, bờ ao… đều có những sự tích,
đều có phủ một lớp sương khói vô hình linh thiêng. Đi đêm trẻ con rất sợ ma…
Bây giờ không thế nữa. Quê tôi như đã thị trấn hoá.
Các nhà mái ngói, mái bằng đã thay thế những ngôi nhà lợp rạ ngày xưa. Đó là
một điều tốt. Có một ai lại không muốn quê mình phát triển? Nhưng có điều, đã
có một vẻ trần trụi, xô bồ thay thế cho những gì tươi mát, yên bình ngày xưa.
Người ta đã vặt trụi thiên nhiên như vặt trụi đi những kỷ niệm. Nó như là một
kết quả của sự cằn cỗi hoá tâm hồn con người. Chỉ còn lại những tham vọng,
những ganh đua. Hình như trẻ con bây giờ không còn chơi những trò chơi hồn
nhiên thuở nào. Những cây đa um tùm râu rễ như những cây cảnh khổng lồ, tuyệt
đẹp không còn; những ao hồ ngát hương sen từng tắm mát tuổi thơ bao thế hệ cũng
không còn; lúc nào lòng cũng cạn trơ để người ta lấy đất đóng gạch. Cái sân kho
rất rộng thì thành sân phơi gạch lổng chổng, nơi ngày xưa, khi ông trăng tròn
xoe đậu trên đầu rặng tre đầu làng, chúng tôi hồi hộp đợi những quả chuối,
những múi bưởi của Tết Trung thu. Ngay ngôi chùa làng linh thiêng cũng không
còn yên tĩnh nữa. Bởi cả cái khuôn viên mênh mông đã được chia cho dân làng làm
nhà. Nơi từng có giếng nước, cây si mà người ta bảo có tổ một con rắn thần trắng,
mào đỏ, dài đến hàng chục mét…
Ngôi chùa vẫn còn đó, sạm mốc, già nua, lặng lẽ; những
sự tích dần trôi đi trong lãng quên.
***
Còn trẻ, người ta ít nghĩ đến quá khứ. Nhưng càng lớn
người ta sẽ càng nghĩ nhiều hơn, nhất là khi những giá trị vật chất không còn
làm điên đầu người ta. Người ta nghĩ đến cha ông, đến tổ tiên, và xa hơn, nghĩ
đến lịch sử. Đến với lịch sử, ta như được sống một cuộc sống mấy ngàn năm.
Hồi nhỏ, trong mấy anh em, tôi học khá nhất, nên
thường được ông nội giao cho một nhiệm vụ quan trọng, trong tiết Thanh Minh cầm
một cái nùn rơm để dấm lửa và một bó hương (nhang) rất to đi rẫy mộ cùng ông.
Những buổi sáng trong mát kỳ lạ, cả cánh đồng thơm ngát mùi hương đặc trưng.
Ông đã giao cho tôi cai quản toàn bộ số mồ mả của một trong ba phái thuộc chi
một của dòng họ Nguyễn Huy lớn nhất ở làng. Đến mỗi ngôi mộ, rẫy cỏ, thắp
hương, khấn vái xong, ông giải thích tường tận lai lịch từng người đã khuất. Có
một ngôi, ông bảo ông cụ này ngày xưa học giỏi lắm, bởi mộ của cha ông cụ được
chôn gần một cây đèn thần.
Ông nội tôi tên là Yết, mặt vuông chữ điền, lông mày
dài, khóe miệng rất sắc, râu dài, lưng gù gù như lưng gấu, nước da màu đồng
hun, có cá tính cứng như thép. Ông từng một thời ngang dọc, từng được đi máy
bay vào Nam, sang Lào, qua Miên… Không hiểu sao tôi luôn thấy ông nội tôi già
nhất trên đời, mặc dù có biết bao người nhiều tuổi hơn ông. Thế mới biết dấu ấn
tuổi thơ mới sâu đậm làm sao, cảm tính của một con người cũng nhiều ấn tượng
riêng tư. Ông tôi làm việc rất nhiều, làm đến tận khi chết thì thôi. Lúc nào
tôi cũng thấy ông, lúc thì xúc bùn dưới ao đổ vào gốc tre, gốc chuối; hôm thì
đi cuốc ruộng. Hơn 70 tuổi ông còn giật được bằng khen của tỉnh về chuyện cuốc
ruộng, được thưởng mấy con ngan và bao nhiêu cái khăn mặt tôi không còn nhớ.
Nhưng ông trọng sự học. Ông không cho cha tôi làm như ông. Nên ở nhà quê mà cha
tôi gần như không biết làm gì, “mà cũng
lười”- mẹ tôi thường nói thế. Nhưng cha tôi biết một ít tiếng Pháp và có
bằng y sĩ. Ở quê tôi, thời cha tôi mà được như vậy rất hiếm, ông chính là người
đầu tiên có học vấn về Tây Y.Tôi nhớ hồi ấy ông nội tôi hay nói với chúng tôi: “Tiên sư chúng mày, ông mà thấy chữ của ông
trong hố xí là ông giết !” Chữ của ông là chữ nho, ông học chữ nho, từng
học giỏi nhất nên được ông đồ ở làng gả con gái cho. Tôi có lỗi với ông, không
làm được điều mà ông đã kỳ vọng. Tôi đi bộ đội, rồi sống xa quê nên số mồ mả
ngày xưa mà ông đã giao cho tôi trông nom đã quy tập vào nghĩa địa từ hồi nào
mà tôi không biết, tôi cũng không biết thất thoát thế nào mà chỉ còn có dăm
chiếc. Cả mộ bà nội tôi cũng không còn. Khi xây mộ cha và ông nội, anh em tôi
đã phải xây một cái mộ vong cho bà.
Tôi cũng nhớ thấp thoáng, hồi nhỏ ông tôi có bắt tôi
ghi ngày giỗ, văn khấn và nói về một bản ngọc phả gì đó. Còn là trẻ con nên tôi
chẳng thấy có gì quý giá nên cũng chẳng nhớ làm gì cho mất công. Khi lớn khôn,
tôi rất tiếc. Bởi trong ngọc phả đó đã cất giữ những bí mật của thời gian, một
thời gian đã hàng ngàn năm trôi qua nơi quê hương tôi. Mãi vừa rồi, không ngờ
một ông già ở làng đã đưa cho tôi bản ngọc phả ấy. Tôi mừng như gặp lại một vật
báu. Bản ngọc phả được viết bằng chữ nho trên giấy dó đà úa vàng và sờn mòn
theo thời gian. Đó là bản gốc hay bản sao? Nếu là bản sao thì ai sao, sao từ
bao giờ? Chắc không ai rõ. Nhưng có lẽ, những điều ghi chép trong đó có thể là
sự thât. Bởi nó không phải được các cụ ở làng tự viết ra. Mà nó được môt học
giả cách đây hơn 500 năm (đời Hồng Đức, nhà Lê sơ) viết về một khoảnh khắc khác
cách đây gần 800 năm (đầu nhà Trần). Nếu đúng vậy, có ai ngờ rằng mảnh đất con
con, heo hút này cũng là một chúng nhân; lịch sử oai hùng của một dân tộc cũng
đã để lại những dấu vết nơi đây. Rất may là, hay do cơ duyên mầu nhiệm, trong
giới nhà văn, tôi từng rất thân thiết với anh Hoài Anh, được cho là “một Bách
khoa toàn thư”, anh rất giỏi chữ nho nên dễ dàng dịch giúp bản ngọc phả đó cho
tôi.
***
Bản ngọc phả ấy viết rằng:
Triều Trần,
thời vua Thái Tôn đang lúc thịnh trị, ở động Sài Sơn (Núi Thầy) huyện An Sơn,
phủ Quốc Oai, đạo Sơn Tây có một nhà họ Hoàng tên Mi, lấy người cùng động là Đỗ
Thị làm vợ, duyên cầm sắt không hẹn mà gặp. Trải nhiều đời, lấy nghề thuốc làm
điều thiện nhỏ, một mảy may điều ác cũng không làm. Đến vợ chồng Hoàng công,
một chút hại người cũng không nghĩ đến, một mảy lợi riêng cũng không để lòng.
Địa phương đều ca ngợi là người tốt. Nhưng vợ chồng ông tuổi đã cao mà vẫn chưa
có con trai, con gái. Hai người rất buồn. Một hôm, vào ngày húy nhật Tiên Tổ,
vợ chồng nhìn nhau mà than rằng: “Tội
bất hiếu có ba, không con là lớn nhất, một mai biết cậy ai giỗ chạp Tổ Tiên,
trông nom phần mộ?! Chi bằng tán tài làm phúc, cầu có con nối dõi mới thỏa
lòng, trời hẳn phù hộ cho”. Nghĩ vậy làm
liền, phàm các đền thần, chùa Phật, đều đến quyên cúng, lập đàn cầu đảo thiên
địa, chư Phật chứng minh. Ngày thì hương hoa dâng hiến, đêm thì tụng niệm chân
kinh, tin rằng người làm điều thiện trời ắt đền đáp. Một ngày khí trời mát mẻ, vợ chồng ông nằm ở phòng chính,
chập chờn thiếp ngủ, ông bỗng mộng thấy một tòa điện vũ nguy nga, trưng bày la
liệt những vàng bạc, châu báu, ngọc quý, kỳ trân dị bảo, không thể có ở thế
gian. Ông liền lấy trộm một vật kỳ trân giấu trong tay áo, chưa kịp trở ra, thì
thấy một quan nhân áo xanh, mũ đỏ nói: “Đây là chốn thâm nghiêm, bảo vật ở
Quỳnh cung trên đời, đều có hai viên thư hùng, nay đem viên hùng cho ngươi để
làm gia bảo. Ngày sau ắt sinh quý tử”; lại
còn đưa tặng một bài thơ. Ông bèn hành lễ, nhận bài thơ, rồi mở ra xem thì thấy
có bốn câu:
Kỳ trân bảo vật hứa hoàng gia
Sinh nhất nam hề đích thị kha
Tích thiện chi gia thiên tứ phúc
Ức niên vĩnh viễn đối sơn hà
Ông ghi nhớ
chuyện trong mộng. Sau đó thấy ứng nghiệm, Đỗ Thị có mang. Đến ngày 15 tháng 8
năm Kỷ Dậu, giờ Tý, sinh một con trai diện mạo khôi ngô, trắng trẻo, tay dài
quá gối, sức vượt hơn người. Được cha mẹ trân quý, nên đặt là Trân. Ngày tháng thoi đưa, năm ông Trân 11
tuổi thì cha mẹ đều mất. Năm 17 tuổi ông theo học Dương Đường tiên sinh ở thành
Thăng Long. Ông vốn thông minh, học được vài năm thì văn chương thấu triệt, võ
bị tinh thông; hiểu rộng xưa nay, biết trùm trời đất; phàm kinh sách Nho Phật,
không gì là không am tường, địa lý thiên văn đều nắm vững, hành động thì theo
lễ, ăn nói thì chọn lời, phóng khoáng có chí lớn hơn người… được thầy hết sức
khen ngợi.
Lúc đó Thái
Tông hạ chiếu truyền cho các quận huyện đều cử người hiếu liêm, hiền lương
phương chính, văn võ kiêm toàn, học vấn sâu rộng, cho lên kinh thành ứng tuyển.
Ông Trân nghe được bỗng động chí tang bồng hồ thỉ, liền lên kinh thành ứng thí.
Khi bệ kiến đế đình, Thái Tông thấy ông tướng mạo đường đường, uy phong lẫm
liệt, văn võ song toàn, thông minh xuất chúng, mới phán rằng: “Trời sinh người hiền phò tá triều đình mà sao ta được
khanh quá muộn. Hiện nay quốc gia mới sơ khai, lòng người chưa quy phụ, ở một
dải Thanh Miện, Hải Dương có bọn đạo tặc họp đông, nhẩn dân nhiều bề khổ cực.
Trẫm muốn khanh đến trị nhậm Thanh Miện vài năm, phủ dụ dân tình theo về thánh
hóa. Khi đạo tặc dẹp yên sẽ triệu khanh trở về phong cho tước trọng”. Ông phụng mệnh bái tạ vua, đến trị nhậm
Thanh Miện. Một hôm ông đi qua địa đầu xã Đông La, thấy địa thế quanh co, rồng
bao hổ bọc, các ngôi sao đều chầu về, quang cảnh mới mẻ, đẹp đẽ khác thường,
bèn truyền cho binh sĩ và nhân dân thiết lập một cung trong làng, làm chỗ dưỡng
nhàn ngày nghỉ. Ông an ủy dân tình, thi nhân bổ đức, trong ba năm mà đạo tặc
dẹp yên. Ông cứ mười ngày một lần đi khắp huyện, khuyên dạy việc nông tang và
hưng lợi trừ hại, lại có thể lấy nhân nghĩa mà cố kết nhân tâm, lấy hòa nhượng
mà hun đúc thành mỹ tục, khiến phong khí xấu vùng Thanh Miện xứ Đông thay đổi
hết. Vua nghe tin hạ chiếu thư ban thưởng, triệu về phong làm Xã tắc lệnh chủ
chưởng binh nông các sự. Lúc ấy nhà Trần sùng đạo Phật. Ông Trân coi công danh
như ngoại vật, không thiết gì danh lợi, hành lễ bái tạ trở về cung Đông La ở.
Nhớ cha mẹ, thờ kính thánh thần, ông cho xây chùa Đông La. Một hôm, vào năm Ất
Dậu (1285), khi vua Trần Nhân Tông tức vị, ông bỗng nhìn thấy một đám mây đen
từ phương Bắc xâm nhập mặt trời, chốc lát trời đất tối tăm, mưa gió, sấm chớp
mịt mù, giây lát tự dưng biến mất, trời đất lại phong quang như cũ. Ông biết
quốc gia có đại biến, vội chỉnh đốn hành trang chuẩn bị về triều bái mạng. Bỗng
sứ thần tới triệu, nói rằng quân Nguyên do hoàng tử Thoát Hoan, các tưởng Toa
Đô, Ô Mã Nhi, Nguyễn Bá Linh dẫn 50 vạn tinh binh đến xâm lược, uy thanh chấn
động, vua kíp triệu các tướng lĩnh, mưu sĩ hồi trào. Ông phụng mệnh về trào bái
tạ vua, rồi cùng các tướng lĩnh, mưu sĩ theo Hưng Đạo Vương đến Vạn Kiếp chống
giặc. Với kế vườn không nhà trống, triều đình rút khỏi Thăng Long, đợi thời cơ
tiêu diệt giặc, vượt qua bao hiểm nguy, chỉ khoảng 6 tháng. Với những trận
quyết định ở Tây Kết chém Toa Đô, ở cửa Hàm Tử, bến Chương Dương…, quân ta đại
thắng. Trấn Nam Vương Thoát Hoan phải chui vào ống đồng trốn chạy về nước. Khi
gia phong tướng sĩ, ông Trân cũng được vua phong làm xã lệnh đại vương, ban cho
tiết việt, chung hưởng thái bình. Ông bèn rước sắc trở về cung Đông La, giết
trâu mổ bò ăn mừng, khao thưởng nhân dân sĩ tốt.
Tháng 11 Năm
Đinh Hợi (1287), Hốt Tất Liệt lại xua hơn 90 vạn quân báo thù. Đại quân lại do
Thoát Hoan với hai cánh do Hữu Thừa Trình Bằng Phi và Tham Chính Bột La Hợp Đáp
Nhi cùng cánh thủy quân do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy. Trần Hưng Đạo lại bỏ
Vạn Kiếp, cho triều đình rời khỏi Thăng Long, lại chờ thời cơ, đánh phá thuyền
lương, rồi đại phá quân Nguyên tại sông Bạch Đằng, bắt sống Ô Mã Nhi. Thiên hạ
lại thái bình. Lần này ông Trân cũng có công hiến kế, vì thái tử Nguyên thích
ca công người Việt, ông Trân liền bàn mưu rồi trở về Đông La, chọn con trai
đẹp, cò sức khỏe, dũng cảm địch nổi trăm người. Trong một trận, ông cho họ mặc
yếm, đội khăn con gái, giả làm mỹ nữ ca múa, vào trong doanh trại quân Nguyên
ca hát. Tướng Nguyên say mê xem ngắm. Quân ta ngoài đánh vào, trong đánh ra
thắng to. Ông được Vua viết thủ thư cho được hưởng các khoản sưu dịch của xã
Đông La, để làm hương hỏa thờ cúng ông sau này.
Lúc ông hơn
90 tuổi, ông cùng một số người làng Đông La chu du bốn biển, trải khắp núi
sông, tản bộ nước non, thăm thú mọi chốn. Một hôm, đến núi Yên Tử, nơi vua Nhân
Tông xuất giá đi tu, bỗng thấy mưa gió nghịt trời, ông ở trong đó bàng hoàng tự
nhiên mà hóa (ngày 25 tháng chạp). Nhân dân liền làm biểu dâng vua. Vua sai sứ
thần đến làm lễ tế, lập miếu ở chỗ hành cung cũ, viết thần hiệu để thờ phụng,
lưu truyền hương lửa vạn đại vô cùng.
Khi Lê Lợi
dấy binh đánh quân Minh, xưng vương ở Lam Sơn, sai tướng Nguyễn Xí đến hành lễ
cầu đảo đại vương, đều có linh ứng. Khi Thái Tổ lên ngôi liền phong tặng mỹ tự Khoát đạt Hồ quốc an dân thượng đẳng phúc thần, sai quân về tế, cho trùng tu miếu điện ở
Đông La, để thờ phụng, lưu truyền muôn đời, cùng trời đất trường tồn.
Một đạo sắc
phong làm Đương cảnh thành hoàng Xã lệnh Khoát đạt hộ quốc an dân đại vương,
cho phép xã Đông La thờ phụng.
Bắt tường
khai giờ sinh, giờ hóa và tên húy của ông Trân và cha mẹ, cấm không cho dân
phạm húy, cấm mặc quần áo màu đỏ.
Ngày sinh
thần, 15 tháng tám, dùng cỗ lợn tế, sau đó có ca hát.
Ngày mồng 1
tháng giêng, phong sắc khai xuân, tổ chức lễ khánh hạ, dùng cỗ bàn, ca hát,
hành lễ đến ngày rằm thì dừng.
Ngày thần hóa
25 tháng chạp, dùng cỗ bàn tế.
Ngày lành
tháng 11 năm Hồng Đức thứ nhất, hàn lâm viện Đông các đại học sĩ, thần Nguyễn
Bính phụng soạn.
Ngày lành
tháng ba năm Vĩnh Hựu thứ 12, quản giám bách thần tri điện Hùng lĩnh thiếu
khanh, thần Nguyễn Hiền phụng sao.
Tôi mang bản dịch đến khoe ông anh cùng quê làm việc ở
trường Đại học Tổng hợp TPHCM. Tôi nói:
- Em đã tra mấy cuốn sách viết về đời nhà Trần sao
không thấy mặt mũi ông Trân quê mình đâu cả?
- Chắc tại chức vị và công ông nhỏ nên không được nhắc
đến.
- Ông cũng thuộc diện Vua biết mặt Chúa biết tên chứ
bộ. Liệu có ai bịa ra chuyện này không?
- Không đâu, bịa ra thì được lợi gì. Bản viết này đã
được truyền lại từ lâu. Nó đâu có giá trị vật chất, các cụ giữ lại chỉ vì lòng
thành kính. Chẳng ai lại đi lưu giữ, đi thành kính đối với một điều bịa đặt.
Hơn nữa còn có ghi rõ tên tuổi người soạn, người sao, mà cũng khớp với những di
tích còn lại. Mỗi một cuộc chiến tranh đã có biết bao anh hùng vô danh. Cũng
như mấy ông liệt sĩ ở quê mình, nếu người làng, người xã mà không biết thì bên
ngoài ai người ta biết đến?
***
Mai tôi lại về Sài Gòn. Mẹ tôi làm cơm, bà mổ gà rang (nấu) với chuối xanh. Ở quê tôi,
chuối xanh thường được dùng nhiều để nấu các món ăn: Chuối xanh nấu ếch, chuối
xanh nấu ốc, chuối xanh rang cổ cánh
gà… Có một tính khoa học trong chuyện nấu nướng này. Nhựa chuối có chất chát là
tanin có khả năng làm keo tụ những protid tanh của thực phẩm. Các món ăn
quê tôi thường có cái này đi với cái kia. Ví như cà pháo với mắm tôm;
thịt gà luộc rắc lá chanh; cá rô nấu canh rau cải; làm chả cá chuối (cá lóc)
phải có rau mần tưới hoặc thì là; chả rươi có vỏ quít; chả rắn phải bọc với lá
bưởi rang trên chảo gang; nem gói bằng lá ổi; dồi lợn có rau xương sông và rau
ngổ (rau ôm); rồi canh cải nấu cua, canh
bầu nấu hến thì vua cũng dùng… Đặc biệt có món lòng nháy tôi chưa thấy nơi nào có. Người ta thái tim, gan, dạ dầy
thành những sợi nhỏ, trộn óc vào, cho rau mần tưới, gia vị, rồi dùng nước rang
thịt (phải có riềng mẻ) nêm vào cho vừa ăn, tạo nên một món ăn có mùi vị thật
đặc biệt… Quê tôi nghèo, nhà tôi cũng nghèo, nhưng có những món ăn của tuổi thơ
mà có đi tới cùng trời cuối đất người ta cũng không thể quên.
Vậy mà… Tôi chợt thấy buồn. Có những giá trị về lịch
sử, văn hóa, tâm linh và cả cảnh sắc thiên nhiên nữa mà thời gian, chiến tranh,
thiên tai không thể tàn phá nổi. Nhưng sự thờ ơ và sự lãng quên của chính con
người thì có thể.
Quê 1995
TPHCM 1996